Xem mẫu
-
Phân tích chứng khoán
1
- A. PHÂN TÍCH CƠ BẢN
I. PHÂN TÍCH CƠ BẢN
Định nghĩa
Phân tích cơ bản là một kỹ thuật dùng để xác định giá trị thực của một chứng khoán
bằng cách tập trung vào các yếu tố cơ bản có ảnh huởng đến hoạt đ ộng kinh doanh
hiện tại và triển vọng phát triển trong tuơng lai của công ty. Trên một phương diện
rộng hơn, chúng ta có thể tiến hành phân tích cơ bản để phân tích tổng quan về ngành
kinh doanh hoặc nền kinh tế nói chung. Một cách đơn giản, phân tích cơ bản thiên về
phân tích tính lành mạnh về mặt kinh tế của một thực thể tài chính hơn là phân tích
sự dao động về giá của chứng khoán.
Trong phân tích cơ bản, các yếu tố cơ bản có thể bao gồm tất cả các yếu tố liên
quan đến tình hình tài chính của một công ty, ví dụ như doanh thu và lợi nhuận v.v…
và các yếu tố khác từ thị phần của công ty đến chất lượng của ban quản tr ị. Nhìn
chung, có thể chia các yếu tố cơ bản thành 2 nhóm: nhóm các yếu tố định luợng và
nhóm các yếu tố định tính.
1. Phân tích các yếu tố định lượng
Nội dung lớn nhất của phân tích cơ bản là đi sâu phân tích các báo cáo tài chính. Còn
được hiểu là phân tích định luợng, việc phân tích này liên quan đ ến việc xem xét
doanh thu, chi phí, tài sản, nợ và tất cả các khía cạnh tài chính khác của một công ty.
Các nhà phân tích cơ bản xem xét các thông tin này để đạt được sự hiểu biết thấu
đáo về tình hình hoạt động hiện tại và trong tương lai của công ty. Báo cáo kết quả
kinh doanh, bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền tệ là các thành phần
chính của báo cáo tài chính.
a. Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính cơ bản được lập định kỳ. Báo cáo này
bao gồm hầu hết các vấn đề thường được thảo luận về kết quả hoạt động kinh
doanh của một công ty như doanh thu, thu nhập, thu nhập trên một cổ phần. Về cơ
bản, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết số tiền mà công ty kiếm được, chi phí đã
bỏ ra và sự khác nhau giữa số lợi nhuận thu được qua hai thời kỳ xác định.
2
- Nhà đầu tư có thể đạt được sự hiểu biết thấu đáo về công ty bằng việc xem xét;
đánh giá báo cáo kết quả kinh doanh. Cụ thể hơn, tăng trưởng về doanh thu là dấu
hiệu đầu tiên cho thấy các yếu tố cơ bản vững mạnh, lợi nhuận thuần tăng cho thấy
hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lợi tăng. Bên cạnh đó, nhà đầu tư cần xem xét
xem công ty có đang hoạt động theo xu hướng chung của nghành và các đối thủ cạnh
tranh hay không.
b. Phân tích bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán, còn được hiểu là báo cáo về tình hình tài chính, cho nhà đầu tư
biết công ty đang sở hữu bao nhiêu tài sản, công ty đang nợ bao nhiêu và nguồn v ốn
của công ty (chênh lệch giữa tài sản và nợ)
Bảng cân đối kế toán cung cấp cho các nhà đầu tư rất nhiều thông tin cơ bản về
công ty: công ty nợ bao nhiêu, phải thu khách hàng bao nhiêu (bao lâu thì thu xong),
tiền và các khoản tương đương tiền công ty đang sở hữu và các quỹ đã đ ược l ập
trong quá trình hoạt động.
c. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho biết số tiền thực mà công ty kiếm được, nó cũng cho
thấy khả năng chi trả của công ty cho hoạt động kinh doanh hiện tại và tăng tr ưởng
trong tương lai.
Quả thực, một trong những chức năng quan trọng nhà đầu tư nên xem xét khi đầu tư
vào một công ty là khả năng tạo ra tiền của công ty đó. Điều đó đ ơn giản là vì một
công ty cho thấy lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh không có nghĩa là công ty
đó sẽ không có những khó khăn sau đó do sự thiếu hụt về dòng tiền. Xem xét một
cách kỹ lưỡng báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể cung cấp cho nhà đ ầu tư một s ự
đánh giá tốt hơn về hoạt động kinh doanh của công ty.
Vấn đề quan trọng là cần phải xem xét xu hướng của các tỷ số này đ ể thấy đ ược
tính thanh khoản của công ty đang được cải thiện hay đang giảm sút.
2. Phân tích các yếu tố định tính
a. Phân tích các yếu tố định tính của công ty
Ngoài việc phân tích báo cáo tài chính như được đề cập ở trên, có một số những nhân
tố định tính đặc trưng về công ty mà chúng ta cần phải quan tâm.
3
- Mô hình kinh doanh
Trước khi đi vào xem xét các báo cáo tài chính của một công ty, một trong những câu
hỏi quan trọng nhà đầu tư nên được đặt ra là: công ty đó đang kinh doanh gì? Câu hỏi
đó đề cập tới mô hình kinh doanh của một công ty - công ty tạo ra tiền như thế nào.
Nhà đầu tư nên tìm hiểu mô kinh doanh của một công ty trước khi có quyết định đầu
tư và không nên đầu tư vào những nghành nghề mà nhà đầu tư không am hiểu.
Lợi thế cạnh tranh
Một vấn đề khác mà các nhà đầu tư quan tâm là lợi thế cạnh tranh của công ty. Một
công ty muốn thành công lâu dài thì đều phải có khả năng duy trì ưu thế c ạnh tranh
của mình. Sức mạnh của ưu thế cạnh tranh sẽ tạo ra một hàng rào bảo vệ doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp kiềm giữ các đối thủ của mình để có được sự phát triển
và thu lợi nhuận.
Ban quản lý
Mỗi công ty đều phải dựa vào ban quản trị để đạt được thành công. Một số người
cho rằng chất lượng của ban quản trị là một trong những khía cạnh quan trọng nhất
cần xét khi đầu tư vào một công ty. Điều này là hợp lý vì thậm chí khi mô hình kinh
doanh tốt nhất cũng sẽ không cho kết quả như mong đợi nếu ban quản trị gặp thất
bại trong khi thực hiện các kế hoạch kinh doanh.
Quản trị công ty
Khái niệm quản trị công ty mô tả các chính sách được thực thi tại một tổ chức qua đó
biểu hiện mối quan hệ và trách nhiệm giữa ban quản lý và các cổ đông. Mục đích
của các chính sách quản trị công ty là để đảm bảo rằng việc kiểm tra phù hợp được
thực thi nhằm ngăn cản các cá nhân tiến hành những hoạt động không chung thực và
phi pháp.
b. Phân tích các yếu tố định tính của ngành
Mỗi ngành có các sự khác biệt về mặt khách hàng, về thị phần giữa các công ty, về
sự phát triển của nghành, sự cạnh tranh, về các quy định và chu kỳ kinh doanh.
Nghiên cứu về các hoạt động của ngành sẽ cung cấp cho nhà đầu tư sự hiểu biết sâu
hơn về tình hình tài chính của công ty.
Khách hàng
4
- Một số công ty chỉ phục vụ một nhóm khách hàng, trong khi các công ty khác thì l ại
phục vụ cho hàng triệu khách hàng. Nhìn chung, nếu một công ty chỉ kinh doanh dựa
trên một số lượng khách hàng nhỏ thì đây là một dấu hiệu đáng báo động vì nếu mất
đi một lượng khách hàng nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến doanh số của công
ty.
Thị phần
Hiếu biết về thị phần hiện tại của công ty phần nào giúp nhà đầu biết được tình
hình kinh doanh của công ty đó. Thực tế là khi một công ty sở hữu 85% thị phần, thì
ta có thể nói đó là công ty lớn nhất trong thị trường. Hơn nữa, điều đó cũng nói lên
rằng công ty đã sở hữu một hàng rào kinh tế, nói cách khác, một rào c ản đ ể bảo vệ
thu nhập hiện tại và tương lai cùng với thị phần của công ty. Khi một công ty chiếm
thị phần lớn hơn các công ty khác thì nó sẽ có vị thế tốt hơn trong việc phân bổ chi
phí cố định của ngành công nghiệp cần đầu tư nhiều vốn.
Tăng trưởng ngành
Để đánh giá tiềm năng tăng trưởng của một công ty thì trước tiên c ần ph ải nghiên
cứu xem có sự tăng trưởng về số lượng khách hàng trong thị trường chung hay
không. Điều này rất quan trọng, vì nếu một công ty không có khách hàng mới thì công
ty đó phải biết cách giành lấy thị phần để phát triển.
Sự cạnh tranh
Việc quan sát một số đối thủ cạnh tranh trong nghành của một công ty phần nào sẽ
giúp nhà đầu tư biết được khả năng cạnh tranh của công ty của công ty đó. Các
ngành có ít rào cản và nhiều đối thủ cạnh tranh sẽ tạo môi trường kinh doanh khó
khăn cho các công ty.
Quy định
Một số ngành bị quy định chặt chẽ vì tính quan trọng của sản phẩm hay dịch vụ của
nghành. Cũng như tầm quan trọng của một số quy định đối với công chúng, các quy
định này có thể gây ảnh hưởng mạnh đến việc thu hút vốn đầu tư của công ty.
Nhà đầu tư nên luôn xem xét kỹ các quy định có thể ảnh hưởng quan trọng đến hoạt
động kinh doanh của một công ty. Nhà đầu tư cũng nên tính đ ến những chi phí ti ềm
tàng do việc thay đổi quy định gây ra khi ước tính chi phí và thành quả c ủa vi ệc đ ầu
tư.
5
- II. PHÊ BÌNH PHÂN TÍCH CƠ BẢN
Những phê bình lớn nhất về phân tích cơ bản đến từ 2 nhóm chính: những đ ề xuất
về phân tích kỹ thuật và những người theo đuổi “giả thuyết thị trường hiệu quả”.
Một cách đơn giản, những nhà phân tích kỹ thuật dựa vào sự giao động về giá và số
lượng chứng khoán làm cơ sở cho các hoạt động đầu tư. Sử dụng các biểu đồ và các
công cụ khác, họ đầu tư chứng khoán mà không cần quan tâm đến những y ếu tố cơ
bản. Mặc dù có thể kết hợp cả hai kỹ thuật, nhưng một trong những nguyên lý cơ
bản của phân tích kỹ thuật là thị trường đã hàm chứa mọi thứ. Theo đó, tất cả các
thông tin của một công ty đã được đã định sẵn trong giá cổ phiếu, và vì vậy s ự giao
động về giá của cổ phiếu cung cấp một cách nhìn thấu đáo hơn là các yếu tố cơ bản
của doanh nghiệp.
Những người theo đuổi giả thuyết thị trường hiệu quả thường không đồng tình với
cả phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. Giả thuyết thị trường hiệu quả cho r ằng
về cơ bản không thể tạo ra lợi nhuận từ việc đi ngược lại xu hướng thị trường trong
dài hạn bằng cả việc áp dụng phân tích cơ bản hay phân tích kỹ thuật. Lý do cơ bản
của luận cứ này là vì thị trường đánh giá tất cả chứng khoán trên cơ sở liên tục và
bất cứ cơ hội nào để đạt được lợi nhuận cao hơn từ việc áp dụng phân tích c ơ bản
hay phân tích kỹ thuật sẽ nhanh chóng bị điều chỉnh bởi những người tham gia trên
thị trường, do vậy không có cá nhân nào có thể làm tốt hơn thị trường trong dài hạn.
III. PHÂN TÍCH CHỈ SỐ TÀI CHÍNH
Phân tích chỉ số tài chính là một phần quan trọng của phân tích cơ bản. Phân tích t ỷ
số liên quan đến việc so sánh các con số với nhau để tạo nên các tỷ số và từ đó dựa
vào các tỷ số này để đánh giá xem hoạt động của công ty đang trong tình trạng suy
giảm hay tăng trưởng.
Các tỷ số cần phải được so sánh giữa các thời kỳ trong cùng một công ty đ ể th ấy
được công ty đang tăng trưởng hay suy giảm, và với các công ty trong cùng ngành để
thấy công ty đó hoạt động tốt hay xấu so với mức trung bình ngành.
Có 4 nhóm chỉ số chính sau:
6
- • Chỉ số khả năng sinh lợi
• Chỉ số khả năng thanh toán và đòn cân nợ
• Chỉ số hiệu quả hoạt động
• Chỉ số đầu tư của cổ đông
1. Nhóm chỉ số khả năng sinh lợi
Chỉ số lợi nhuận gộp
Doanh thu - Giá vốn hàng bán
Chỉ số lợi nhuận gộp =
Doanh thu
Chỉ số tổng lợi gộp cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào (vật
tư, lao động) trong một quy trình sản xuất của doanh nghiệp.
Chỉ số lợi nhuận ròng
Thu nhập trước lãi và thuế
Chỉ số lợi nhuận ròng =
Doanh thu
Chỉ số lợi nhuận gộp cho biết được công ty thực có bao nhiêu lợi nhuận từ một đồng
thu nhập và qua đó cho thấy hiệu q uả trong việc quản lý các chi phí hoạt động
(chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp)
Chỉ số lợi nhuận trên vốn cổ phần (ROE)
Lợi nhuận sau thuế và cổ tức cổ phần ưu đãi
ROE =
Vốn cổ phần
Chỉ số ROE đo lường khả năng sinh lợi của một công ty và cho thấy bao nhiêu lợi
nhuận được tạo ra từ vốn đầu tư của cổ đông.
Thu nhập trên tổng vốn đầu tư (ROCE)
Lợi nhuận trước lãi và thuế
ROCE =
Tổng tài sản - nợ ngắn hạn
Chỉ số ROCE cho thấy sự hiệu quả và khả năng sinh lợi từ trong việc sử dụng vốn
đầu tư của một công ty.
Một công ty nên cho thấy chỉ số ROCE cao hơn mức lãi suất đi vay, nếu không sự gia
tăng vốn vay sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông.
Các chỉ số cấp hai:
7
- ROCE = Chỉ số lợi nhuận x Vòng quay tài sản
LN trước lãi và thuế LN trước lãi và thuế Doanh thu
= x
Tổng tài sản - nợ ngắn hạn Doanh thu Tổng tài sản - nợ ngắn hạn
Vòng quay tài sản cho thấy hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập
Giữa chỉ số lợi nhuận ròng và vòng quay tài sản có mối quan hệ cân bằng, cụ thể là:
• Một chỉ số lợi nhuận cao có thể đồng nghĩa với giá bán cao, dẫn đến khả năng
lớn là doanh số sẽ giảm và vì vậy vòng quay tài sản sẽ thấp hơn.
• Vòng quay tài sản cao có nghĩa công ty đang có doanh số cao, để làm được
điều này thì công ty có thể phải giảm giá để chấp nhận mức lợi nhuận thấp
hơn.
Nhìn chung, các chỉ số lợi nhuận của công ty càng cao càng tốt, nhưng cũng như các
nhóm chỉ số khác, chưa đủ để đánh giá chính xác về một công ty khi xem xét các chỉ số
này một cách riêng biệt. Một điều quan trọng nữa là cần so sánh chỉ số này qua các thời
kỳ của công ty, so sánh với chỉ số trung bình của ngành và với các đối thủ cạnh tranh.
2. Nhóm chỉ số thanh toán và nợ
Chỉ số thanh toán hiện hành
Tài sản lưu động
Chỉ số thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các
khoản nợ ngắn hạn, hệ số này cho thấy mức độ an toàn của công ty trong việc đáp
ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Thông thường, chỉ số thanh toánh
hiện hành được kỳ vọng cao hơn 1.
Chỉ số thanh toán nhanh
Tài sản lưu động - hàng tồn kho
Chỉ số thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
8
- Chỉ số thanh toán nhanh đo lường khả năng của một công ty trong việc chi tr ả các
khoản nợ ngắn hạn bằng những tài sản có tính thanh khoản nhất. Chỉ số này thích
hợp cho việc đo lường khả năng thanh toán của những công ty có vòng quay hàng tồn
kho thấp.
Một cách lý tưởng, chỉ số nhanh ít nhất bằng 1 đối với những công ty có vòng quay
hàng tồn kho thấp và có thể thấp hơn 1 đối với công ty với vòng quay hàng tồn kho
nhanh với điều kiện công ty này không gặp khó khăn về dòng tiền.
Vấn đề quan trọng là cần phải xem xét xu hướng của các tỷ số này đ ể thấy đ ược
tính thanh khoản của công ty đang được cải thiện hay đang giảm sút.
Chỉ số đòn cân nợ
Tổng nợ dài hạn
Đòn cân nợ =
Tổng vốn cổ phần + tổng nợ dài hạn
Chỉ số này liên quan đến cơ cấu vốn dài hạn của một công ty và đ ược dùng đ ể xác
định mức độ rủi ro liên quan đến việc nắm giữ vốn cổ phần trong một công ty.
Một công ty với đòn cân nợ cao thì có nhiều khả năng gặp phải sự đi xuống trong chu
trình kinh doanh bởi vì công ty đó phải tiếp tục trả các khoản nợ cho dù doanh s ố
đang giảm sút. Một công ty với tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có thể cho thấy tình hình tài
chính vững mạnh.
3. Nhóm chỉ số hiệu quả hoạt động
Kỳ thu tiền bình quân
Phải thu khách hàng x 365 ngày
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bán chịu
Kỳ thu tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình cần thiết để một công ty
thu hồi các khoản nợ từ khách hàng.
Xem xét xu hướng của kỳ thu tiền bình quân qua các thời kỳ của một công ty là có
hiệu quả nhất. Nếu vòng quay các khoản phải thu tăng từ năm này qua năm khác cho
thấy khả năng yếu kém trong việc quản lý công nợ ở một công ty.
Số ngày vòng quay hàng tồn kho
Số ngày vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho x 365 ngày
9
- Giá vốn hàng bán
Số ngày vòng quay hàng tồn kho cho thấy khoảng thời gian trung bình hàng tồn kho
được lưu giữ.
Sự tăng lên của vòng quay hàng tồn kho qua các năm cho thấy sự chậm đi trong công
việc kinh doanh hoặc là sự tích trữ hàng tồn kho ở một công ty, điều đó cũng có th ể
được hiểu rằng đầu tư vào hàng tồn kho đang trên mức cần thiết.
Kỳ thanh toán bình quân
Phải trả khách hàng x 365 ngày
Kỳ thanh toán tiền bình quân =
Tổng giá trị hàng mua chịu trong năm
Kỳ thanh toán tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình của một công ty
trong việc thanh toán các khoản nợ với nhà cung cấp.
Sự gia tăng kỳ thanh toán tiền bình quân qua các năm là dấu hiệu của việc thiếu hụt
vốn đầu tư dài hạn hoặc khả năng quản lý tài sản lưu động yếu kém, đó là kết quả
của việc gia tăng các khoản phải trả nhà cung cấp, gia tăng hạn mức thấu chi tại
ngân hàng.
4. Nhóm chỉ số đầu tư của cổ đông
Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS)
Tổng thu nhập thuần - cổ tức cổ đông ưu đãi
EPS =
Số lượng cổ phiếu lưu hành bình quân
Thu nhập của mỗi cổ phần cho thấy khả năng sinh lợi của một công ty.
Thu nhập trên mỗi cổ phần được xem như là chỉ số đơn lập quan trọng nhất trong
việc xác định giá trị cổ phiếu.
Tỷ suất thu nhập trên thị giá cổ phần
Tỷ suất thu nhập trên thị giá Cổ tức trên một cổ phần
cổ phần = Thị giá một cổ phần
Tỷ suất này phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ công ty với
giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào, cụ thế hơn, tỷ suất này thể hiện kỳ vọng hiện
hành của nhà đầu tư vào thu nhập từ việc đầu tư vào cổ phần của một công ty.
Chỉ số giá trên thu nhập (P/E)
10
- Thị giá một cổ phần
P/E =
Thu nhập trên một cổ phần
Chỉ số P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu
lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu.
Nhìn chung, một công ty với chỉ số P/E cao cho thấy các nhà đầu tư đang kỳ vọng sự
tăng trưởng về lợi nhuận trong tương lai của công ty đó cao hơn so với các công ty có
chỉ số P/E thấp.
Việc đánh giá sẽ có hiệu quả hơn hơn khi so sánh P/E của công ty này với P/E của
công ty khác trong cùng ngành và so sánh vói P/E trung bình của ngành.
Những giới hạn của việc phân tích chỉ số tài chính
• Sự có sẵn của thông tin so sánh.
• Sử dụng thông tin trong quá khứ.
• Không phải là quyết định cuối cùng – chỉ dùng để hướng dẫn.
• Việc giải thích cần phân tích cẩn thận và không nên chỉ phân tích một cách
đơn lập.
• Đây là một phương pháp khách quan.
• Có thể bị thay đổi.
B. PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn 100 năm, từ một người tên
là Charles H. Dow. Ông là người đã sáng lập lên tạp chí phố Wall (The Wall Street
Journal). Sau nhiều năm nghiên cứu, năm 1884 ông đưa ra chỉ số bình quân của giá
đóng cửa của 11 cổ phiếu quan trọng nhất thị trường Mỹ thời gian đó.
William Peter Hamilton là người thực sự mang lại sức sống cho những nghiên cứu
của Dow bằng việc tiếp tục nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “The Stock Market
Barometer” (Phong vũ biểu thị trường chứng khoán) vào năm 1922.
11
- Suốt những năm 1920 và 1930, Richard W. Schabacker là người đã đã đi sâu vào
những nghiên cứu của Dow và Hamilton, Schabacker là người đã đưa ra khái niệm
đầu tiên về Phân tích kỹ thuật. Schabacker từng là chủ biên của tạp chí Forbes nổi
tiếng. Ông chỉ ra rằng những dấu hiệu mà lý thuyết Dow đưa ra được với chỉ số bình
quân thị trường vẫn giữ nguyên giá trị và tầm quan trọng khi áp dụng vào đồ thị của
từng cổ phiếu riêng lẻ. Điều này đã được ông thể hiện và chứng minh trong cuốn
sách của mình: “Stock Market Theory and Practice, Technical Market Analysis and
Stock Market Profit”.
Như vậy những cơ sở đầu tiên của Phân tích kỹ thuật đã xuất hiện từ trong lý thuyết
Dow, nhưng phải đến Schabacker – người cha của Phân tích kỹ thuật hiện đại tiếp
đó là Edward và Magee với “Technical Analysis of Stock Trend” (cuốn sách đã được
tái bản 8 lần) và ngày nay là John Murphy, Jack Schwager, Martin Pring,… thì mới
thực sự ra đời cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng cao, tổng kết thành một hệ
thống lý luận quan trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng
và thị trường tài chính nói chung.
II. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT
Nguyên lý của thành công trong đầu tư chứng khoán là dựa trên giả đ ịnh r ằng trong
tương lai người ta sẽ tiếp tục lặp lại những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá
khứ.
(Edwin Lefevre, Reminiscenses of a Stock Operator)
Thị trường chứng khoán hay bất kỳ thị trường nào đều không bao giờ phản ánh đúng
giá trị thực của một hàng hóa được trao đổi bên trong đó mà nó phản ánh giá tr ị mà
nhà đầu tư nhận thức được và cho rằng nó đáng giá như thế.
Giá của bất kỳ một chứng khoán đã cho nào đều không chi ra mối quan hệ thực tế
giữa cung và cầu mà là phản ánh kỳ vọng tương lai của cung và cầu.
Vậy “Phân tích kỹ thuật” là gì?
Nhiều nhà quan sát coi Phân tích kỹ thuật là một tập hợp những mánh khóe và cần
đến sự tập luyện nghiêm túc thực sự. Những người vận dụng kết quả sau quá trình
tập luyện ấy còn được gọi là “pháp sư”. Nhiều người hiểu về tính đúng đ ắn của
công việc này nhưng họ vẫn đặt ra câu hỏi về tính chính xác trong dự báo các xu thế
chính trên thị trường chứng khoán và thị trường các loại hàng hóa khác. Bản thân
12
- trong những người sử dụng Phân tích kỹ thuật cũng không có một sự thống nhất v ề
quan điểm về bản chất của Phân tích kỹ thuật vì Phân tích kỹ thuật có thể dược hiểu
thuần túy là một khoa học mà cũng có thể được hiểu là một nghệ thuật.
Hiểu một cách rộng nhất thì Phân tích kỹ thuật luôn cố gắng nghiên cứu tình trạng
“sức khỏe hiện tại của toàn thị trường hay của mỗi chứng khoán với mục đích là
nhằm dự báo biến động tương lai của giá bằng cách dựa trên những kinh nghiệm có
được với các hình mẫu kỹ thuật (hay mô hình kỹ thuật) thị trường đã xuất hiện trong
quá khứ và áp dụng lại khi có mô hình tương tự xuất hiện. Giả thuyết căn bản trong
Phân tích kỹ thuật là những kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ
sẽ được sử dụng “tham khảo” nhằm xác định giá có xu thế như thế nào trong tương
lai đối với mỗi thị trường cụ thể.
Ta sẽ xem xét một số định nghĩa đã được đưa ra về Phân tích kỹ thuật :
Nick và Barbara Apostolous định nghĩa Phân tích kỹ thuật là “quá trình dự báo biến
động giá chứng khoán trong tương lai dựa trên cơ sở phân tích những biến động trong
quá khứ của giá và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá”. Tuy nhiên định nghĩa
này làm cho Phân tích kỹ thuật dường như trở lên gần tương đương với phân tích cơ
bản - là quá trình ước lượng giá trị chứng khoán hay hàng hóa bằng cách phân tích các
điều kiện kinh tế tài chính cơ bản mỗi công ty, mỗi ngành,…"
Norman Fosback, trong cuốn “Stock Market Logic”:
“Nếu như bản chất của phân tích cơ bản là việc xác định giá trị và xác định mua hay
bán cổ phiếu khi giá trên thị trường sai lệch khỏi giá trị thực, thì Phân tích kỹ thuật
lại dựa trên 2 giả thuyết cơ bản khác hoàn toàn. Thứ nhất, những ước lượng mang
tính chủ quan là quá mơ hồ và không thích hợp và thứ hai là dao động giá trong tương
lai có thể dự đoán được qua việc phân tích biến động giá trong quá khứ, phân tích
mối quan hệ cung - cầu và một số yếu tố khác có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị
trường”
Clifford Pistolese đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như sau: “Phân tích kỹ thuật là
việc sử dụng biểu đồ giá và khối lượng giao dịch làm cơ sở cho các quyết đ ịnh đ ầu
tư. Cơ sở căn bản cho hướng tiếp cận này là ở chỗ các thông tin về giá và kh ối
lượng trên biểu đồ phản ánh tất cả những gì diễn ra về việc mua hay bán một loại
13
- cổ phiếu. Vì biểu đồ cổ phiếu tóm tắt và phản ánh kết quả thực của các giao dịch đã
thực hiện nên Phân tích kỹ thuật là cơ sở duy nhất cho việc ra các quyết định đầu tư”
R. W. Schabacker, người cha đẻ của Phân tích kỹ thuật hiện đại đã mô tả Phân tích
kỹ thuật như “một môn khoa học mới”. Schabacker giải thích rằng tất cả những yếu
tố phân tích cơ bản hợp lý đều mang đến tình trạng thị trường di xuống và chúng
được đánh giá, tự động đưa vào và lưu lại trong các mức cân bằng thực trên biểu đồ
chứng khoán. Ông còn mô tả sâu hơn đặc tính của biểu đồ cổ phiếu hay biểu đồ các
loại hàng hóa khác như là một bộ nhớ hoàn hảo của thị trường và khẳng định chắc
chắn rằng giá trị chủ yếu của một biểu đồ giá vượt ra ngoài ý nghĩa thực tế là một
bức tranh ghi lại những giao dịch trong quá khứ.
Định nghĩa cụ thể của Schabacker như sau:
“Việc Phân tích kỹ thuật các biến động thị trường là một khía cạnh của phân tích,
dựa trên cơ sở những hiện tượng phát sinh từ chính thị trường, bỏ qua những tác
động của các yếu tố trong phân tích cơ bản và các yếu tố khác. Trên thực t ế Phân
tích kỹ thuật có thể được giải thích đơn giản chỉ là phát biểu một cách đối lập l ại
với việc xem xét theo trường phái phân tích cơ bản. Khía cạnh cơ bản của phân tích
thị trường nhắm mối quan tâm đặc biệt vào những yếu tố như doanh nghiệp phát
hành cổ phiếu, việc kinh doanh của doanh nghiệp, tiềm năng, họat động trong quá
khứ, thu nhập hiện tại và tương lai, bảng cân đối kế toán, sức mạnh tài chính, chất
lượng của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp,… Các yếu tố kỹ thuật là những gì có thể
được coi là tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng biến động về giá cổ phiếu
sau khi đã bỏ qua các yếu tố thuộc phân tích cơ bản và những yếu tố không thực s ự
có ảnh hưởng. ”
Còn theo Edward và Magee thì:
“Phân tích kỹ thuật là môn khoa học của sự ghi nhận lại, thường là dưới dạng đồ thị,
những hoạt động giao dịch diễn ra trong quá khứ gây lên những thay đổi về giá, khối
lượng giao dịch,… của một chứng khoán bất kỳ hay với chung toàn bộ thị trường và
sau đó sẽ dựa trên “bức tranh về quá khứ” đó để suy luận ra xu thế có th ể xảy ra
trong tương lai”
Không phải ngẫu nhiên mà cuốn sách “Technical Analysis of Stock Trend” của
Edward và Magee lại được tái bản tới 8 lần, đây là quyển sách mang tính đầy đ ủ
14
- nhất và cơ bản nhất khi tìm hiểu về Phân tích kỹ thuật, vì vậy để có thể hiểu rõ thì
rất cần nghiên cứu kỹ cuốn sách này. Ở đây sẽ trích dẫn thêm một số đoạn nhằm
giúp người đọc hiểu kỹ hơn”…những nhà Phân tích kỹ thuật luôn phát biểu với lý
luận đầy đủ còn lượng thông tin, dữ liệu mà phân tích cơ bản nghiên cứu là quá cũ và
không con giá trị sử dụng. Bởi vì tâm lý thị trường không quan tâm đến quá khứ và
thậm chí là cả hiện tại, thị trường luôn hướng về phía trước, cố gắng phản ánh
những tăng trưởng trong tương lai, xem xét đo lường và làm cân bằng tất cả những
ước lượng, dự đoán của hàng trăm nhà đầu tư - những người cùng nhìn vào tương lai
nhưng dưới những góc độ hoàn toàn khác nhau và với những cặp kính nhiều màu sắc.
Tóm lại, giá thị trường được tạo lên bởi bản thân thị trường, bao gồm tất cả những
thông tin thuộc về cơ bản mà những nguời phân tích thống kê muốn tìm hiểu cùng
với nhiều những nguồn thông tin khác có tầm quan trọng ngang hoặc lớn hơn
nhiều…”
Edward và Magee còn đưa ra 4 điểm căn bản sau về Phân tích kỹ thuật:
• Giá trị thị trường của một chứng khoán được xác định duy nhất thông qua tác
động qua lại giữa cung và cầu.
• Cung và cầu chịu ảnh hưởng, ở bất kì thời điểm nào, bởi hàng trăm những
yếu tố, một số là ảnh hưởng hợp lý, một số hầu như phi lý. Thông tin, ý kiến,
tâm lý, dự đoán,…(có thể đúng, có thể sai,…) về tương lai kết hợp và trộn lẫn
với nhau và với những yếu tố cần thiết khác để tạo thành sự cân bằng chung
của toàn thị trường. Không một cá nhân nào có thể nắm lấy và định l ượng
những điều này mà thị trường sẽ tự thực hiện.
• Bỏ qua những dao động nhỏ thì giá nhìn chung sẽ vận động theo những xu thế
giá chung của thị trường, những xu thế này là ổn định trong một khoảng thời
gian tương đối dài.
• Những thay đổi trong xu thế thị trường thể hiện qua sự dịch chuyển của điểm
cân bằng cung cầu dù là vì bất kì nguyên nhân nào đều có thể xác đ ịnh s ớm
hơn hoặc muộn hơn thời điểm thị trường biến động.
Cuối cùng ta sẽ xem xét định nghĩa của Steven B. Achelis, tác giả của cuốn sách
“Technical Analysis from A to Z”
15
- “Phân tích kỹ thuật là việc nghiên cứu giá, với công cụ cơ bản là biểu đồ, nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động đầu tư…”
Xét cho cùng định nghĩa về Phân tích kỹ thuật cũng chỉ cần đơn giản như vậy còn cụ
thể bản chất, cách thực hiện sẽ được nghiên cứu ở các phần tiếp theo đ ặc biệt là
phần lý thuyết Dow.
III. NHỮNG GIẢ ĐỊNH CƠ SỞ VÀ NHỮNG BÀN LUẬN XUNG
QUANH VIỆC ÁP DỤNG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT VÀO THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1. Những giả định cơ sở
Phân tích kỹ thuật là sự nghiên cứu biến động của thị trường, chủ yếu thông qua
việc sử dụng các đồ thị nhằm mục đích dự đoán các xu thế biến động của giá trong
tương lai.
Thuật ngữ “biến động của thị trường” ám chỉ ba yếu tố biến động chính cung cấp
thông tin cho quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số l ượng
hợp đồng chưa tất toán (open interest).
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kỹ thuật:
• Biến động thị trường phản ánh tất cả
• Giá dịch chuyển theo xu thế chung
• Lịch sử sẽ tự lặp lại
Biến động thị trường phản ánh tất cả
• Đây có thể coi là nền tảng của Phân tích kỹ thuật. Mọi lý thuy ết, phân tích
khác muốn được chấp nhận thì trước tiên phải hiểu và chấp nhận giả đ ịnh
này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh
hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các yếu tố tài chính của doanh nghiệp,
tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá thị trường. Do đó có người cho
rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất cả những gì ta cần và thực sự
không thể phản đối lại ý kiến này.
• Trên cơ sở nhận thức chung về việc giá phản ánh những biến động trong
cung, cầu. Các nhà Phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng khi giá tăng dù vì bất kì lý do
gì thì cầu phải vượt cung và thị trường tăng giá. Chúng ta cũng đ ều biết và
16
- đồng ý rằng động lực chính của cung và cầu là những yếu tố kinh tế căn bản,
chúng làm hình thành lên Bull Market hay Bear Market, còn đồ thị thì không tự
nó làm cho thị trường dịch chuyển lên hay xuống. Đồ thị chỉ có thể phản ánh
tình hình thị trường mà thôi.
Giá vận động theo xu thế
• Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan trọng trong Phân tích kỹ thuật
do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi muốn tìm hiểu sâu thêm về nó.
Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những biến động giá trên thị trường là
nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ
sở những xu thế này. Trên thực tế những kỹ thuật ở đây đều mang tính lặp lại
những xu thế giá có từ trước tức là mục đích của Phân tích kỹ thuật là nhằm
xác định sự lặp lại của những dạng biến động của giá đã xuất hiện trong quá
khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra những quyết định phù hợp.
• Từ giả định này chúng ta còn có một hệ quả là “một xu thế giá đang vận động
sẽ tiếp tục theo xu thế của nó và ít khi có đảo chiều”. Hệ quả này rút ra từ
định luật 1 về sự vận động của Newton, do đó nó cách phát biểu khác như sau:
"một xu thế đang vận động sẽ tiếp tục theo xu thế của nó cho đến khi nó đảo
chiều”. Nhìn chung tất cả những nghiên cứu nhằm tiếp cận theo các xu thế
đều nhằm để đi theo những xu thế giá hiện tại cho đến khi có dấu hiệu đ ảo
chiều.
Lịch sử sẽ tự lặp lại
• Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên cứu biến động thị
trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. Chẳng hạn như
những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và chứng minh từ
hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị biến động giá.
Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên giá hay xuống giá.
Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả trong quá khứ và được
giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương lai bởi chúng dựa trên
phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con người thì thường không
thay đổi. Như thế giả định này có thể được phát biểu là: “Chìa khóa để nắm
17
- bắt tương lai nằm trong việc nghiên cứu quá khứ” hay “tương lai chỉ là sự lặp
lại của quá khứ”
Những bàn luận xung quanh việc áp dụng Phân tích kỹ thuật vào thị tr ường ch ứng
khoán
Dự đoán trong phân tích cơ bản đối lập với trong Phân tích kỹ thuật
• Trong khi Phân tích kỹ thuật tập trung vào việc nghiên cứu biến động thị
trường thì Phân tích cơ bản lại tập trung vào các động lực kinh tế của cung và
cầu những nguyên nhân gây ra sự vận động của giá. Phân tích cơ bản tiếp cận
theo hướng phân tích các thành tố có liên quan ảnh hưởng đến giá thị trường
nhằm xác định giá trị thực của một loại chứng khoán giá trị được xác định
thông qua cung cầu và cuối cùng là để xác định các điểm thị trường bán trên
giá trị thực tế (overprice) và các điểm thị trường bán dưới giá trị thực
(underprice). Cả hai hướng tiếp cận theo Phân tích cơ bản và Phân tích kỹ
thuật đều nhằm xác định xu thế mà giá có thể vận động tuy nhiên cách tiếp
cận là khác nhau: những nhà phân tích cơ bản thì nghiên cứu nguyên nhân của
những biến động thị trường trong khi những nhà Phân tích kỹ thuật lại nghiên
cứu tác động của các biến động ấy.
• Một số nhà đầu tư tự coi mình là người theo Phân tích cơ bản hay Phân tích kỹ
thuật nhưng thực tế có rất nhiều sự trùng lặp: nhiều nhà Phân tích cơ bản có
áp dụng những nguyên lý của Phân tích kỹ thuật trong công việc của mình
trong khi hầu hết các nhà Phân tích kỹ thuật lại ít nhiều đều có thời kỳ đi theo
Phân tích cơ bản.
• Thường thì vào những giai đoạn bắt đầu của một số biến động quan trọng
của thị trường những nhà Phân tích cơ bản không giải thích và không ủng hộ
những gì mà thị trường chuẩn bị diễn ra. Chính tại những thời điểm nhạy cảm
này mà hai trường phái phân tích tỏ ra khác nhau nhất. Hai trường phái này rồi
sẽ lại giống nhau ở một số điểm nhưng nếu nhà đầu tư nào muốn dựa vào
những điểm đó để làm cơ sở chắc chắn cho các quyết định của mình thì nó sẽ
là quá muộn.
• Một cách giải thích cho mâu thuẫn này là “giá thị trường có vai trò chỉ dẫn cho
những người nghiên cứu Phân tích cơ bản” hoặc có thể nói giá thị trường là
18
- chỉ số dẫn đạo cho những nhà phân tích cơ bản. Những người có nghiên cứu
về Phân tích kỹ thuật đều có thể nhận thấy những thay đổi về giá có tác động
đến thị trường, hay là họ đã theo nhịp của thị trường, còn những người theo
phân tích cơ bản lại chịu ảnh hưởng từ những biến động ấy. Những thời
điểm thị trường lên giá mạnh và giảm giá trầm trọng được ghi nhận trong lịch
sử thường do sự không nhận thức được hoặc nhận thức được quá ít những
thay đổi thị trường và cho đến khi những biến động ấy được nhận thức rộng
rãi thì bản thân nó đã chuyển hướng và vận động theo hướng khác rồi.
Phân tích và chọn thời điểm có đối lập với nhau không?
• Quay lại với Phân tích kỹ thuật, quá trình ra quyết định có thể được chia thành
2 giai đoạn là phân tích và chọn thời điểm. Với những thị trường có “tác động
đòn bẩy” lớn chẳng hạn như thị trường tương lai (thị trường có các công cụ
phái sinh như: hợp đồng tương lai futures và hợp đồng quyền chọn Options)
thì việc xác định thời điểm tham gia vào có vai trò rất quan trọng bởi hoàn toàn
có trường hợp bạn đã phân tích và theo đúng tình hình thị trường nhưng bạn
vẫn có thể mất tiền của mình. Cho dù mức tiền đặt cọc đối với thị trường
tương lai là nhỏ (chỉ khoảng 10%) thì dù chỉ một lượng rất nhỏ giá vận động
sai hướng có thể tác động đẩy nhà đầu tư ra khỏi thị trường và mất toàn bộ
mức tiền đặt cọc ấy. Trái lại trong giao dịch trên thị trường chứng khoán, khi
một nhà đầu tư nhận thấy mình đang lệch khỏi thị trường đối với một loại cổ
phiếu nào đó thì anh ta chỉ việc đơn giản là giữ lại cổ phiếu đó và đợi cho đến
khi cổ phiếu đó quay lại xu thế thị trường. Những người đầu tư vào thị
trường tương lai sẽ không có đặc quyền ấy. Chiến lược “mua và nắm giữ”
không thể áp dụng để đầu tư kiếm lời trên thị trường tương lai.
• Khi phân tích ta có thể áp dụng theo cơ bản hay kĩ thuật, nhưng để trả lời câu
hỏi về xác định thời điểm tham gia vào hay thoát ra khỏi thị trường thì câu trả
lời nằm hoàn toàn trong Phân tích kỹ thuật. Việc xác định thời điểm có ý nghĩa
rất quan trọng với quyết định mua hay bán. Do đó khi xem xét các bước tiến
hhành của nhà đầu tư trước khi đưa ra quyết định cuối cùng ta có thể thấy
việc áp dụng các nguyên lý của Phân tích kỹ thuật là không thể bỏ qua tại một
19
- số thời điểm của quá trình ra quyết định cho dù ở phần đầu của quá trình này
khi tiến hành phân tích nhà đầu tư có thể áp dung theo phân tích cơ bản.
Tính linh hoạt và tính thích dụng của Phân tích kỹ thuật.
• Một trong những thế mạnh lớn của Phân tích kỹ thuật là sự thích dụng của nó
trong bất kì phương thức giao dịch nào và vào với bất kì khoản thời gian giao
dịch nào. Không có một phần nào trong giao dịch chứng khoán hay các chứng
khoán phái sinh mà Phân tích kỹ thuật không thể ứng dụng được.
• Một nhà phân tích đồ thị có thể sử dụng đồ thị trong bất kì và bao nhiêu th ị
trường tùy thích, nhưng điều này là không thể với một người sử dụng Phân
tích cơ bản. Điều này là do với mỗi thị trường một người áp dụng Phân tích
cơ bản sẽ phải xử lý một khối lượng dữ liệu khổng lồ, nó cũng nói lên tại sao
một người Phân tích cơ bản chỉ có thể chuyên vào một hay một nhóm nhỏ
chứng khoán nhất định những ưu thế này của Phân tích kỹ thuật là không thể
bỏ qua.
• Mỗi thị trường đều phải trải qua những thời kỳ thị trường biến động mạnh và
những thời kỳ trầm lắng, những giai đoạn mà giá biến động theo những xu
thế rõ ràng và những giai đoạn mà xu thế của giá rất mờ nhạt thậm chí là
không có một xu thế cụ thể nào. Khi đó những nhà Phân tích kỹ thuật có thể
tập trung sự quan tâm cũng như những nguồn lực của mình vào những thị
trường có cu thế vận động rõ ràng hơn và bỏ qua những thị trường loại kia.
Điều này có nghĩa là họ có thể chuyển hướng đầu tư để tận dụng tính luân
phiên tự nhiên của các thị trường. Vào những thời điểm khác nhau có những
thị trường trởi lên “nóng”, có xu thế rõ ràng. Thông thường, tiếp theo những
thời kỳ có xu thế giá cụ thể ấy là những thời kỳ giá biến động khá trầm và
hầu như không có xu thế nào rõ rệt, trong khi đó ở một hay một nhóm thị
trường khác lại có những dấu hiệu biến động nóng. Tóm lại, một nhà Phân
tích kỹ thuật có thể tìm và tham gia những thị trường mà họ thấy có khả năng
kiếm lời nhanh chóng, còn những nhà Phân tích cơ bản thì không có tính linh
họat ấy do tính chuyên sâu vào một loại thị trường như đã nói ở trên. Mặc dù
họ hoàn toàn có quyền chuyển hướng quan tâm của mình vào một thị trường
khác, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là họ phải đối mặt với việc xử lý một
20
nguon tai.lieu . vn