- Trang Chủ
- Chính trị học
- Phân tích câu nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh và vận dụng thực tiễn
Xem mẫu
- Câu 2: Phân tích câu nói “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ
DO” của Hồ Chí Minh? Vận dụng vào thực tiễn xây dựng đất nước Việt
Nam?
Trả lời:
Ngày nay, mỗi người dân Việt Nam khi vào Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh viếng Bác, mọi
người đều nhìn thấy hàng chữ nổi trên bức tường của cửa Lăng: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do”.Đó là một câu nói nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh được trích từ
"Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/7/1966" trong bối
cảnh đế quốc Mỹ mở rộng đánh phá miền Bắc năm 1965. Lời kêu gọi 17/7/1966 đã toát
lên chí Việt Nam, tinh thần Việt Nam, văn hoá Việt Nam và dòng chảy bất tận của nó.
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ
xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Lúc này Mỹ đã trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam hơn một năm. Những
biểu hiện: phong trào chững lại, một số người phân vân dao động, đây đó có chuyện
chạy xà đùa cùng với những câu hỏi lớn râm ran: Mỹ là siêu cường, quân lực mạnh, vũ
khí tối tân và hậu cần hầu như vô tận, có đánh được Mỹ không đã lùi dần? Thực tiễn
chiến đấu đã khẳng định chúng ta có thể đánh Mỹ và thắng Mỹ, tất nhiên không phải
dễ dàng mà là vô cùng gian nan, ác liệt.
Năm 1965, bị thất bại nặng nề trong chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ
thi hành chiến lược chiến tranh cục bộ tại Miền nam Việt Nam. Tháng 8/1965, Mỹ ồ ạt
đưa 30 vạn quân viễn chinh và rất nhiều vũ khí và thiết bị quân sự vào miền Nam Việt
Nam hòng nhanh chóng tiêu diệt quân cách mạng và bình định miền Nam trong thời gian
- ngắn nhất. Đồng thời đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc XHCN bằng cuộc
chiến tranh phá hoại do không quân và hải quân thực hiện.
Những ngay mùa khô năm 1965 - 1966, quân Mỹ đã bị đánh bại trên chiến trường
miền Nam, còn ở miền Bắc quân và dân ta đã bắn rơi hàng nghìn máy bay các loại của
đế quốc Mỹ. Thua đau, nhưng đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ dã tâm xâm lược mà càng
đem quân và vũ khí, không chỉ mang quân Mỹ đến mà còn đưa cả quân chư hầu Úc, Thái
lan, Nam Triều Tiên... vào tham chiến, một mặt muốn giành lại thế chủ động ở chiến
trường ép quân giải phóng phải co cụm lại, đồng thời cắt đường tiếp tế cho chiến
trường miền Nam từ hậu phương miền Bắc. Mặt khác chúng âm mưu ép ta phải ngồi
vào bàn đàm phán theo muốn của chúng.
Trước âm mưu của địch, lường trước khả năng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước có thể còn lan rộng và vô cùng ác liệt. Để khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập
dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Khẳng định cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi. Đồng thời chuẩn bị tư tưởng
trước cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bước vào một giai đoạn chiến đấu mới
quyết liệt hơn, khó khăn hơn và hy sinh nhiều hơn để giành lấy thắng lợi hoàn toàn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi quan trọng này.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta cả ở
miền Bắc cũng như ở miền Nam. Quân và dân miền Nam đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu
anh dũng đã thắng lợi vẻ vang thực hiện mục tiêu quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà. Quân và dân miền Bắc không hề nao núng
vừa sản xuất vừa chiến đấu, đã bắn tan xác hơn 1200 máy bay địch, quyết tâm đánh
thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và đồng thời hết lòng hết sức ủng hộ miền
Nam.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm không gì lay chuyển
nổi của người Việt Nam là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược mặc dù chúng có thể đưa
50 vạn quân hoặc 1 triệu quân Mỹ vào Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy
bay để đánh phá miền Bắc. Thông qua lời kêu gọi đã thể hiện dân tộc Việt Nam hết
sức bình tĩnh trước khó khăn, thách thức, tin tưởng vào sức mình, vào sự đoàn kết của
- toàn dân tộc. "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song người Việt Nam
quyết không sợ".
Trong lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu một chân lý nổi tiếng làm cho lời
kêu gọi ngày 17/7/1966 có sức lan toả rất xa và có sức mạnh tập hợp đoàn kết rất mạnh
mẽ, đồng thời khẳng định một niềm tin lớn vào ngày mai. Đó là chân lý “Không có gì
quý hơn độc lập tự do” Và "đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Với một người cũng như với toàn dân tộc - một dân tộc đã rèn đúc cho mình một
giá trị sâu sắc bền vững, một truyền thống quý báu: lòng yêu nước, thì hiển nhiên không
có gì quý hơn độc lập tự do. Phẩm chất cao đẹp này hình thành sâu đậm trong Hồ Chí
Minh ngay từ lúc còn thơ ấu, với ảnh hưởng của một vùng quê, một gia đình giàu lòng
yêu nước. Người đã không chỉ tự thấy ở mình mà đã nhìn ra, đã cảm nhận giá trị, phẩm
chất cao quý đó trong những người ruột thịt thân yêu, nơi mọi người Việt Nam mà
Người thường gọi là đồng bào, những người cùng một nguồn cội, chung một cái bọc
của Mẹ Âu Cơ.
Trong lời kêu gọi ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ cho toàn thế
giới thấy rằng: nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình. Sở dĩ Việt Nam phải tiến
hành cuộc chiến đấu gian khổ chịu rất nhiều hy sinh cũng vì hoà bình, độc lập tự do của
dân tộc mình và của cả loài người. Trong lời kêu gọi này một lần nữa Người thay mặt
cả dân tộc Việt Nam khẳng định lại với thế giới rằng: nhân dân Việt Nam đồng tâm
nhất trí vượt mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ lịch sử
vẻ vang là đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm lược,
đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà bình và thống
nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng
của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước mất, nhà
- tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì quyền sống của con
người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người.
Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và
bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc
Việt Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã trở
thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán triệt trong
toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm
có tính bước ngoặt lịch sử. Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn
toàn và thật sự. Độc lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn
vẹn lãnh thổ. Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo
Hồ Chí Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo
nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết định,
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài. Trong nền
độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không độc lập chẳng có
nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy
giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao
cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân
tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập
của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã khái
quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc
đấu tranh để đòi các quyền cho nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương
như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo
luật.
- Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do báo
chí, hội họp, tự do cư trú ... Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người
Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu sách của nhân dân An-
nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách không được chấp nhận,
Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập
dân tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình,
vào lực lượng của bản thân mình. Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt
Nam là: Đánh đổ Đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
Sau Cách mạng Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và
khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”. Hoà bình chân chính trong
nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền
cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình
thật sự thì phải có độc lập thật sự. Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để
bảo vệ độc lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc
lập cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”. Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong tình hình thế giới có nhiều biến đông hiện nay Đảng ta cần chiến lược xây
dựng và bảo vệ độc lập tự do đất nước, hạnh phúc của nhân dân. Thứ nhất, khẳng định
lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Thứ hai, xác định nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng. Kế thừa truyền
thống giữ nước của cha ông là “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là
thượng sách giữ nước”, sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định, phát triển kinh tế là
trung tâm, là một trong những nhân tố quan trọng bảo vệ Tổ quốc bảo đảm an ninh, kết
hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đặt vấn đề an ninh
- trong mối quan hệ tổng thể và toàn diện, không tách rời an ninh, quốc phòng với các lĩnh
vực khác.
Thứ ba, kiên trì chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa, sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước.
Thứ tư, phát huy sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc: “Sức mạnh của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chính là sức mạnh
tổng hợp. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị,
sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết
định”.
Trong những thập kỷ tới, những mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại những
biểu hiện dưới sắc thái mới; cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế giới
vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt với nhiều hình thức khác nhau. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác,
phát triển vẫn là xu thế lớn. Xu thế toàn cầu hóa về kinh tế và cuộc cách mạng khoa
học công nghệ trên tất cả các lĩnh vực đang mở ra những cơ hội và thách thức mới. Thế
giới tiếp tục đối mặt với khủng hoảng kinh tế và các vấn đề thiên tai, dịch bệnh, những
vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống...
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông Bắc Á vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố bất
ổn định do cạnh tranh lợi ích chiến lược giữa các nước lớn. Khu vực Đông Nam Á nổi
lên là sự phức tạp trong ứng xử vấn đề Biển Đông, sự tranh chấp ảnh hưởng của các
nước lớn ngày càng gia tăng, tạo nguy cơ mất ổn định, thậm chí căng thẳng trong các
quan hệ song phương, đa phương.
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
vừa có những thuận lợi rất cơ bản, lại vừa phải đối diện với những nguy cơ, thách
thức to lớn, nhất là khi đất nước tham gia sâu hơn vào hợp tác quốc tế. Những nhân tố
trên tác động thường xuyên, trực tiếp đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi
- hỏi chúng ta phải có phương thức và giải pháp thích hợp và hữu hiệu trong tình hình
mới.
Trong bối cảnh quốc tế mới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thường
xuyên thay đổi chiến lược và phương thức chống phá cách mạng nước ta, chúng sử
dụng phương thức phi vũ trang, với thực hiện chiến lược hết sức nguy hiểm là “diễn
biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ. Các thế lực phản động, thù địch tiếp tục sử dụng
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Do
vậy, phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng và được chúng
ta nhận thức đầy đủ hơn. Đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hóa, đối ngoại là những nội dung và phương thức cần được đặc biệt chú trọng trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, chúng ta cần đặc biệt coi trọng việc “tự bảo vệ” trong mỗi con người,
mỗi tổ chức, trong mỗi ngành, mỗi cấp; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được
tiến hành ngay từ cơ sở. Cần coi trọng sức mạnh truyền thống và hiện đại, sức mạnh
tổng hợp trong giữ nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng, từ mô hình đến các quan hệ Đảng - Nhà nước - các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong hệ thông chính trị ... nhằm tạo nên sức mạnh
tổng hợp to lớn để bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân, của cả
hệ thống chính trị về thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục tư
tưởng chính trị, nâng cao lòng yêu nước và lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho mọi công dân,
thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ không thể tách rời giữa độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, cùng nhau ra sức phấn đấu cho mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh với
mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, làm suy yếu nền tảng tư tưởng và cơ sở chính trị - xã hội của chế
độ ta.
- Triển khai thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đi đôi với bảo
vệ Tổ quốc. Tích cực khắc phục khuynh hướng xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
không quan tâm đầy đủ đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong hoạt động kinh tế và
văn hóa; hoặc chỉ thiên về lợi ích kinh tế, bất chấp hậu quả đối với quốc phòng, an
ninh. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh
đốn Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thúc đẩy
mạnh mẽ công cuộc đổi mới nhằm giữ vững tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, tăng
cường đoàn kết dân tộc và đồng thuận xã hội. Đây là những bảo đảm quan trọng cho
sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Do đó, chiến lược quốc phòng - an ninh phải triển
khai đồng bộ với chiến lược kinh tế - xã hội.
Xây dựng các kế sách đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ Tổ quốc
cả trong thời bình và thời chiến. Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, tạo ra thế
và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cần nhấn mạnh rằng, xây dựng tiềm lực
chính trị - tinh thần vững mạng là yếu tố có ý nghĩa hàng đầu trong bảo vệ Tổ quốc.
Để xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần phải thông qua hoạt động giáo dục, tuyên
truyền, động viên, khích lệ mọi tầng lớp nhân nhân. Trước hết, phải tăng cường giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời sống xã hội. Xây dựng tiềm lực kinh tế của
đất nước vững mạnh là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiềm lực kinh tế của đất nước là tổng hợp tiềm lực
các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện;
nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi hoàn
cảnh, tình huống. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên cơ sở xác định trọng tâm,
- trọng điểm, hoạt động sáng tạo, linh hoạt, lấy lợi ích dân tộc làm tiêu chí hàng đầu cho
việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Tiếp tục đưa quan hệ với các nước,
đặc biệt là các nước láng giền, khu vực và các nước lớn đi vào chiều sâu ổn định, bền
vững trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Mở rộng
quan hệ với các nước đang phát triển, Phong trào không liên kết, các đảng cộng sản,
công nhân, cánh tả, tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Kiên trì giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở thương lượng hòa bình
và luật pháp quốc tế, kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao,
pháp lý, kinh tế, quốc phòng trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Kết hợp linh hoạt giữa kiên quyết đấu tranh với sự kiên trì, chủ động đối thoại,
vận động dư luận trong các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; đẩy lùi các
âm mưu lợi dụng những vấn đề này can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Kết
hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa tạo
thành sức mạnh tổng hợp của ngoại giao Việt Nam nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực
bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao vị thế quốc tế của nước ta, góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước với hoạt động quốc phòng, an ninh và
đối ngoại.
Lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”
chính là lý tưởng của cả một dân tộc trong công cuộc giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc. Đó chính là biểu hiện cụ thể nhất của trí tuệ, nhân cách tư tưởng của Bác với tư
cách của người lãnh tụ đã giành lại đất nước này cho dân tộc Việt Nam. Tiếp đó,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” cũng là nền móng của sức mạnh làm nên những
thành tựu rực rỡ của 20 năm đổi mới chứng minh sự đúng đắn của một con đường Việt
Nam đã lựa chọn. Một Việt Nam với xã hội ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
đã nhận được rất nhiều tình cảm của bạn bè quốc tế. Tư tưởng của Người cũng là khát
vọng cháy bỏng của hơn 80 triệu người Việt hôm nay, từ những nhà lãnh đạo cấp cao
- nhất cho tới những người dân bình thường nhất về một đất nước mạnh giàu, hạnh
phúc bay lên một cách vững chắc trong thời kỳ hội nhập. Có độc lập tự do mới có thể
phấn đấu được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Chúng ta đi trên con đường Bác đã vạch ra và tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đèn soi rọi
cho con đường phát triển của dân tộc, của đất nước trong thời đại mới!
nguon tai.lieu . vn