Xem mẫu
- Phần 7: Quản lý bệnh trong trại tôm
giống
Trong sản xuất giống phòng bệnh là phương pháp
quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, còn chữa
bệnh là phương pháp đối phó cuối cùng, ít hiệu quả.
1. Phòng bệnh:
Phòng bệnh cho tôm phải hiểu theo hai nghĩa sau:
- Quản lý chất lượng nước nuôi tốt, nuôi tôm bố mẹ tốt, sản
xuất Nauplius khỏe mạnh, cung cấp đầy đủ chất dinh
dưỡng, không thể xảy ra hiện tượng sốc trong quá trình
nuôi, tôm sẽ phát triển nhanh khỏe mạnh lấn át bệnh tật.
- Phòng bệnh chủ yếu và có hiệu quả là phòng nấm và
protozoae bằng hóa chất, việc phòng bệnh bằng hóa chất và
thuốc đối với virus và vi khuẩn còn ít hiệu quả.
Trong sản xuất giống có hai loại nấm thường gặp, có thể
gây chết 100%, co ấu trùng tôm trong 1-2 ngày sau khi
nhiễm, đó là nấm Lagenidium callinectes và Sirolpidium.
Thực hiện phòng 2 loại nấm này theo bảng sau:
- Giai đoạn Nồng độ(ppm) Lần cho/ngày
Nauplius 0,01 1
Zoae 0,03 2
Mysis 0,06 2
PL1 PL4 0,08 2
PL5 0,1 2
Ghi chú: Cách pha dung dịch Treflan:
- Treflan thương phẩm là loại Triflurali Elanco 44%
- Lấy 10ml Treflan pha vào 1000ml nước cất ta có dung
dịch A
- Để Treflan 0,01ppm, ta lấy 1ml dung dịch A cho vào 1m3
nước bể nuôi ấu trùng.
2. Trị bệnh:
Phải thường xuyên quan sát ấu trùng qua kính hiển vi, khi
thấy xuất hiện dấu hiệu gây bệnh, phải trị ngay mới mang
lại hiệu quả.
2.1 Bệnh vi khuẩn dạng sợi (Filamentous bacteria)
- Bệnh này thường gặp ở giai đoạn Postlarvae, các sợi nấm
bám đầy các phần phụ của tôm, làm cho Postlarvae khó
bơi, ăn yếu và sẽ xuất hiện các bệnh khác kèm theo như
hoại tử (necrosis), nếu phát hiện sớm có thể trị bệnh có hiệu
quả. Trị bệnh bằng Sunfat đồng (CuSO4) với nồng độ 0,15
- 0,25ppm trong 24h.
2.2 Bệnh hoại tử (necrosis)
Bệnh hoại tử có 2 dạng: Vi khuẩn ăn mòn các phần phụ
hoặc các phần phụ bị chết (chẳng hạn như hoại tử các
nhánh chân bụng). Trong 2 dạng nhiễm bệnh trên, dạng thứ
2 khó trị hơn. Nếu phát hiện sớm có thể điều trị có hiệu quả
bằng cách sử dụng, hay Oxytetracylin 5 - 10ppm, hay
Furazon 2-3ppm, trị liên tiếp 3 ngày sẽ khỏi. Nếu phát hiện
chậm, tỷ lệ sống PL5 sẽ thấp. Nguyên nhân gây bệnh chủ
yếu là do môi trường không thuận lợi.
2.3 Bệnh lột xác dính vỏ (Exuvia Entrapment)
Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn Postlarvae, khi lột xác một
phần vỏ dính lại trên các phần phụ như chân ngực, chân
bụng làm cho tôm khó hoạt động. Nguyên nhân gây bệnh là
do NH4 trong bể ao 9 từ 0,01ppm trở lên. Wickins (1972)
- cho rằng khi sử dụng thức ăn là trứng bào xác Artemia
Utah dễ bị gây bệnh này, không thấy xảy ra ở Artemia hiệu
San Francisco Bay trong sản xuất giống tôm càng, Bowser
và cộng sự (1981) cho rằng tăng thêm Lexitin
(Photpholipit) trong thức ăn, hạn chế được bệnh này.
2.4 Bệnh phát sáng (Luminescent vibriosis)
Bệnh phát sáng trên tôm, thường xảy ra trong tất cả các giai
đoạn.
Cần phân biệt rõ sự phát triển trên tôm. Nếu trong bể tôm
có các đốm sáng lớn trên những con tôm chết, đó là do các
tập đoàn Coccobacilli tấn công vào các con gây chết phát
sáng, thì hiện tượng lâm sàng này không quan trọng.
Khi nước biển xử lý không tốt sẽ thường gặp hiện tượng
này. Nếu phát sáng trên các con sống, đốm sáng rất nhỏ và
nhiều trên phần cơ thịt của tôm thì đó là bệnh Vibrio
harveyi và Vibrio splendidus gây nên.
Chen (1989) phần được trong gan tụy tạng tôm sú có 18
loài Vibri trong đó có Vibrio harveyi chiếm 26,9% và V.
splendidus chiếm khoảng 0,5%. Hai loại này thường làm
tôm bị chết nhiều, có lúc tới 100%, chúng có thể kháng lại
- 24 loại thuốc kháng sinh (theo Baticados và cộng sự 1991).
Chỉ có một loại kháng sinh kiềm chế bợt sự phát triển của
hai loại Vibrio này. Đối với loại bệnh này chỉ phòng bệnh
mới có hiệu quả.
Do bản thân các loại Vibrio này có nguồn gốc từ nước biển
nên việc phòng bệnh sẽ thông qua việc xử lý thật kỹ nguồn
nước nuôi.
2.5 Bệnh do nguyên sinh động vật (Protozoea)
Bệnh này do một số loài nguyên sinh động vật như
Zoothammium, Rpistylis, Vorticella, Acineta... chúng tấn
công vàomắt mang các phần phụ của tôm, làm cho tôm yếu
kém, kén ăn và di chuyển khó khăn rồi chết.
Nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu do chăm sóc kém, làm cho
môi trường nuôi bị xấu, hàm lượng các chất hữu cơ trong
bể cao, tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên sinh động vật
phát triển.
Điều trị bằng Chloroquin disphosphate 1.1ppm liên tục
trong 2 ngày, hay tắm Formaline 25 - 30 ppm trong 15 - 20
phút. Để phòng trừ bệnh này phương pháp chủ yếu vẫn là
biện pháp quản lý môi trường nuôi tốt.
nguon tai.lieu . vn