Xem mẫu

Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam PHẠM TRÙ NGHĨA TRONG TƯ TƯỞNG CỦA MỘT SỐ NHÀ NHO VIỆT NAM NGUYỄN THỊ LUẬN * Tóm tắt: Nếu trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ, nghĩa biểu hiện ở “ngũ luân” và “ngũ thường” thì trong tư tưởng của các nhà nho Việt Nam, nghĩa được Việt hóa với nội dung chủ yếu là: tình cảm, nghĩa vụ, nghĩa khí (hành động nghĩa hiệp), lẽ phải, công lý và chính nghĩa. Bài viết trình bày khái lược quan niệm về nghĩa của một số nhà nho tiêu biểu ở Việt Nam là Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Bội Châu. Từ khóa: Đạo nghĩa; nhân nghĩa; trung nghĩa; trọng nghĩa. 1. Mở đầu Trong học thuyết chính trị - đạo đức Nho giáo, nghĩa là một trong năm chuẩn từng phục vụ đắc lực về mặt tư tưởng cho bộ máy cai trị thuộc địa dưới thời Bắc thuộc, song phải đến thời Lý - Trần, mực đạo đức (ngũ thường) của con học thuyết này mới xác lập được vị trí người; thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức đối với người khác cũng như cộng đồng xã hội. của nó trong hệ tư tưởng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300), nhà quân sự thiên Là quốc gia đồng văn với Trung tài, nhà tư tưởng lớn (thế kỷ XIII), có sự Quốc, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng hội tụ tinh tế giữa nghĩa của Nho gia đáng kể của Nho giáo trong lối sống của Khổng Tử - Mạnh Tử với nghĩa của đại đa số cộng đồng xã hội, đặc biệt, trong lĩnh vực chính trị - đạo đức. Sự ảnh hưởng đó có cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Trong đời sống xã hội, hầu hết các phạm trù đạo đức Nho giáo, trong đó có người Việt Nam; điều đó được phản ánh rõ nét trong tác phẩm Hịch tướng sĩ. Ông đã khẳng định rằng, trong lịch sử Việt Nam luôn có những người đi tiên phong, xả thân vì tổ quốc và trung thành phạm trù nghĩa, đều hiện hữu, song tần với vua: “Từ xưa các bậc trung thần suất xuất hiện và sự thẩm thấu của chúng nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào qua thời gian vào cách ứng xử đạo đức không đồng đều, phù hợp với thực tiễn đời sống của người Việt Nam. 2. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng Trần Quốc Tuấn Nho giáo vào Việt Nam khá sớm, chẳng có”(1). Đường lối trị nước mà ông đưa ra trước hết nhằm thu phục được (*) Thạc sĩ, Trường Đại học Hùng Vương. (1) Trần Nguyên Việt (Chủ biên) (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Văn tuyển, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.221. 55 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 lòng người, coi đó là tiền đề quan trọng để cả nước cùng đánh giặc, thắng giặc: có được trong truyền thống là do nghĩa sĩ biết đặt nghĩa khí của mình khi Tổ “Phải gây dựng được một đội quân cha quốc cần. Tuy nhiên, khi triều đình con... khoan thư sức cho dân để làm kế phong kiến có những ông vua sáng suốt sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ thì mới hy vọng tập hợp được trung nước vậy”(2). Trần Quốc Tuấn đã đặt con người vào những mối quan hệ cụ thể: quốc gia, triều đình, gia đình, gia tộc và xác định nghĩa vụ của họ trong từng mối thần, nghĩa sĩ, mới không có sự phản loạn, đó cũng là điều mà trước đây Nho gia sơ kỳ từng đề cập tới. Khi vận mệnh đất nước đặt ra trước mọi tầng lớp nhân quan hệ ấy để khích lệ, động viên mọi dân thì bất kỳ ai cũng phải có trách người đứng lên đánh giặc cứu nước. Chủ trương xây dựng “Đội quân cha con” và “Khoan thư sức cho dân” mà nhiệm đứng lên bảo vệ từ tấc đất của cha ông cho đến những giá trị truyền thống thiêng liêng của dân tộc. Việc làm ấy Trần Quốc Tuấn đưa ra là phù hợp với cũng chính là làm tròn đạo hiếu với những nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Đó chính là đội quân “gia đình” mang nội dung từ hiếu điển hình nhất trong lịch sử chiến tranh vệ quốc những bậc tiền bối đã khuất của mình. Không thể có tinh thần trung quân ái quốc mà lại để “Chủ nhục”, “Quốc sỉ”, càng không thể chấp nhận được đối với của dân tộc Việt Nam. Ngoài nghĩa một dân tộc có bề dày truyền thống và “quân thần” còn được bổ sung thêm được Nho giáo bồi thêm cho nội dung nghĩa cha con, nghĩa ấy chính là tình cảm, là sức mạnh, là niềm tin mà không đội quân nào có thể sánh được. Trước đây, Nho giáo sơ kỳ cũng từng đề cập đạo hiếu mà lại để cho “xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào”(3). Như vậy, thời Lý - Trần, các phạm đến chính sách “huệ dân”, “dân bản”, trù đạo đức trung, hiếu, nhân, nghĩa “dân tín”, và biện pháp cơ bản là giảm thuế khóa cho dân và sử dụng sức dân đúng lúc (sử dân dĩ thời); coi dân là gốc nước “vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền mà nước cũng lật thuyền”… Trần Quốc Tuấn không nói nhiều đến nghĩa, song, chủ trương của ông về xây dựng quân đội và mối quan hệ quân dân đã tái hiện nội dung phạm trù nghĩa của Nho giáo trên lập trường quốc gia dân tộc Việt Nam. Sức mạnh mà quân đội ta được vận dụng trên phương diện chính trị nhằm bảo vệ quyền lực của nhà vua, của gia tộc, cũng như nhằm làm cho xã hội thái bình. Khi thực hiện các chuẩn mực đạo đức ấy, triều đại Lý - Trần đã ca ngợi những tấm gương trung nghĩa, tiết liệt, xả thân vì nước của các tướng lĩnh trong cuộc chiến chống giặc ngoại (2) Sđd, tr.232. (3) Sđd, tr.224. 56 Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam xâm, coi trọng đạo hiếu, đạo trung, biết nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa yêu đặt lợi ích của gia tộc và trăm họ lên nước, của đường lối đấu tranh chính trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh lợi nghĩa chống xâm lược. Đó là một trong ích cá nhân để bảo toàn lợi ích quốc thể. những quan điểm nền tảng trong hệ Tiếp tục vận dụng nội dung phạm trù nghĩa của Nho giáo sơ kỳ, đáp ứng đòi thống tư tưởng của ông. Khác với nhân nghĩa của Nho gia sơ hỏi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng kỳ, nhân nghĩa trong quan điểm của dân tộc và xây dựng đất nước, thời Lê sơ chính quyền nhà nước đã đặc biệt đề Nguyễn Trãi được gắn chặt với dân, “vì dân”, “an dân” và “trừ bạo” cho dân, cao quan hệ nhân nghĩa, trung, hiếu. “lấy đại nghĩa thắng hung tàn”. Trong Lấy tư tưởng trung để cai trị và ràng buộc con người vào triều đình, củng cố, các tác phẩm của ông (như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô), phạm duy trì chính quyền nhà nước phong trù nhân nghĩa mang nội dung cơ bản là kiến. Vì vậy, hiếu được xem “là gốc lớn của đạo trị thiên hạ”, là sợi dây thắt chặt mối liên kết con người với gia đình, dòng họ, coi việc củng cố gia đình là nền tảng để củng cố xã hội. “Kẻ làm tôi con phải trung thành với vua, không được dối trá. Ở với mọi người phải cho ngay thẳng, không được làm điều gian phi. Khi làm tinh thần yêu nước, thương dân, đánh giặc cứu nước. Do đó, nhân nghĩa của ông mang đậm sắc thái tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt, vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử và Mạnh Tử, có sự sáng tạo và phát triển trong điều kiện của Việt Nam.(4) Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu việc, lúc lập công, phải tự mình làm dân, “mở nền thái bình muôn thuở” gương trước để mọi người trông vào bắt chước”(4). Đó cũng là cơ sở để duy trì sự phát triển của Nho giáo về sau. 3. Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là nhà tư bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc. Nếu phạm trù nhân nghĩa của các nhà sáng lập Nho giáo Trung Quốc mang tính trừu tượng, có mục đích bảo tưởng kiệt xuất thế kỷ XV, bậc khai vệ quyền lợi của tầng lớp quý tộc phong quốc công thần của triều đại Lê sơ với tư tưởng nhân sinh mang đậm dấu ấn của Nho giáo mà nhân nghĩa là trọng tâm. Nguyễn Trãi đã kế thừa quan điểm kiến, thì nhân nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là vì dân, vì chính nghĩa, mang bản sắc dân tộc, gắn trực tiếp với an dân. Theo ông, nhân không phải là nhân nghĩa Khổng Tử và Mạnh Tử, nhưng nâng cao hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc. Nhân nghĩa đã thực sự trở thành (4) Ngô Sĩ Liên (1985), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.279. 57 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(88) - 2015 một phạm trù đạo đức chung chung, đẳng cấp xã hội, thì ở Nguyễn Trãi, trừu tượng, mà chính là lòng nhân đạo, là tinh thần yêu nước chân chính. Đó là nhân và nghĩa trước hết được giải thích bằng thái độ đối với dân, lo cho cuộc “chí nhân” với sứ mệnh thay “cường sống của dân sao cho được an bình: bạo”; còn nghĩa là điều nên làm, thậm chí cần phải làm. “Quyền mưu vốn dĩ để trừ gian/ Nhân nghĩa giữ gìn thế nước an”(5). Chữ trung ở Nguyễn Trãi cũng khác Quyền mưu của kẻ dẹp loạn phải với chữ trung trong Nho giáo Trung được sử dụng đúng mục đích là trừ gian, Quốc sơ kỳ. Trung quân phải gắn liền bảo vệ chính nghĩa chứ không phải với ái quốc. Khi xuất hiện mâu thuẫn giữa vua với nước thì nước được đặt lên hàng đầu. Ở mỗi nước mà Nho giáo ảnh hưởng, những phạm trù đạo đức được đưa lên hàng đầu là khác nhau. Chẳng hạn, ở Trung Quốc đó là nhân, ở Nhật Bản đó là trung, còn ở Việt Nam đó là nghĩa. Trung quân trong quan niệm của Nguyễn Trãi là bất di bất dịch, ngay cả trong trường hợp không được tin dùng, ông vẫn ấp ủ niềm trung của mình trong sự “cô trung”. Nói như vậy không có nghĩa ở Nguyễn Trãi xuất hiện tư tưởng “ngu trung”, mà “cô trung” được ông được sử dụng vào việc xâm lược và đối xử tàn bạo với dân tộc khác. Có như vậy thì dân - nước mới được yên ổn: “Quân của vương giả chỉ có dẹp yên mà không có đánh chém. Việc nhân nghĩa cốt để yên dân”(6). Quan điểm trên của Nguyễn Trãi được hình thành trên cơ sở nghiên cứu chính tư tưởng của kẻ xâm lược, cậy thế nước lớn “dạy” nước nhỏ những luận điệu giả nhân giả nghĩa để ép nước nhỏ phục tùng vô điều kiện. Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi được bắt nguồn từ Nho giáo, nhưng đã được ông vận dụng trên quan điểm dân tộc, vì lợi suy xét nguyên nhân từ thế sự chứ ích của dân tộc, đất nước. Do đó, nội không phải do chủ quan, độc đoán của vua. Gác bỏ mọi lợi ích cá nhân, nhận thức được mặt trái của xã hội đang xâm lấn, can thiệp vào thế ứng xử bất công bằng của triều đại, Nguyễn Trãi đã vượt lên tất thảy mọi biểu hiện nhỏ nhen của thói đời để giữ gìn bản chất trung nghĩa của mình. Nếu như trong tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử, nhân và nghĩa phản ánh các mối quan hệ xã hội cho phù hợp với lễ và chính danh nhằm duy trì trật tự dung của nó có những điểm sáng tạo và độc đáo. Đó là đóng góp của Nguyễn Trãi cho tư tưởng triết học dân tộc. 4. Phạm trù nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là nhà nho, nhà tư tưởng vĩ đại thế kỷ XVI. Ông sống trong thời đại loạn lạc với (5) Nguyễn Trãi (1976), Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.290. (6) Sđd, tr.160. 58 Phạm trù nghĩa trong tư tưởng của một số nhà nho Việt Nam những “vua quỷ”, “vua lợn”. Thời kỳ này, cùng với sự khủng hoảng của chế không có gì là xa lạ, mà là đạo Nho, một đạo đã khái quát các mối quan hệ cơ bản độ phong kiến, Nho giáo cũng từng của gia đình và xã hội thành “cương bước bộc lộ sự bất lực và đang mất dần vai trò lịch sử của mình, mặc dù các nhà thường”. Tuy nhiên, khác so với Nho giáo truyền thống, đạo làm người trong nho vẫn tán dương nhân nghĩa, đề cao tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhân chính, coi đó là việc làm quan “mang tính nhân dân, tính dân tộc, mềm trọng nhất. Bản thân Nguyễn Bỉnh mỏng hơn, mặn nồng, sâu sắc đầy tình Khiêm khi nhìn thế sự như ngôi nhà “bị dột từ nóc”, thế đứng chênh vênh, đã người, mang đậm chất Việt Nam”(10). Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh đưa ra nhận định khá chính xác cho Khiêm luôn tự nhận mình là nhà nho, đã rằng: “Nhân nghĩa thời nay tựa vàng trót đội lên đầu chiếc mũ của nho sĩ. Do mười” (tức là cái cốt lõi của đạo đức Nho giáo trong thời loạn đang trở nên một thứ “xa xỉ phẩm” mà ai nói đến nó cũng đều là sáo rỗng, viển vông). Là nhà nho chân chính, trong suốt đó, những chuẩn mực đạo đức Nho giáo luôn thường trực và thôi thúc ông phải “lo trước vui sau đến già không nguôi”. Nhấn mạnh đến nghĩa trong đạo cương thường, ông viết: “Nghĩa phải thờ vua cuộc đời mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm (lý đó) sáng như mặt trời, mặt trăng; vua luôn ôm ấp hoài bão về một xã hội bình trị, vua thánh tôi hiền, đối xử với dân theo tinh thần khoan thứ “phải lấy dân làm gốc, muốn giữ được nước cốt phải được lòng dân, phải chăm lo cho dân, trừng trị bọn sâu mọt, tham quan, hại dân”(7). Ông quan tâm nhiều tới “đạo làm người”, ở đó “vua tôi, cha con là tôi, cha con là nghĩa cương - thường bền vững nghìn đời; lòng luôn nghĩ đến vua cha cho đến lúc già cỗi”. Tuy nhiên, quan điểm của ông không thoát khỏi sự ràng buộc của chế độ và giới hạn của tri thức phong kiến. Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng, chiến tranh dưới bất kỳ nghĩa cương thường bền vững nghìn hình thức nào cũng là nguyên nhân gây đời”(8). Từ đó, quan niệm của ông về đạo làm người được dựa trên một nền tảng vững chắc của đạo trung chính. Ông viết: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận giữa anh em, hòa giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, đó là trung vậy. Thấy của phi nghĩa đừng có lòng tham, vui làm điều thiện để đối đãi với mọi người, đó cũng là trung vậy”(9). Đạo đó (7) Dẫn theo Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tr.99. (8) Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.361. (9) Sđd, tr.362. (10) Nguyễn Văn Bình (2001), sđd, tr.100. 59 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn