Xem mẫu
[TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN. SỐ 194-2011] 1
PHẠM TRÙ LỄ CỦA KHỔNG TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
Ths. Võ Văn Dũng
Có thể khẳng định rằng phạm trù “lễ” là một trong những phạm trù đạo
đức có ý nghĩa phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Trung
Quốc, “lễ” được xem là một trong năm đức cơ bản nhất của con người. Phạm
trù “lễ” gắn liền với việc giáo hóa đạo đức cho con người. Tuy nhiên bộ kinh lễ
lại ra đời muộn nhất so với tất cả các kinh điển của Nho gia. Niên đại xuất
hiện của bộ kinh này cũng hết sức mù mờ, do vậy sự truy tìm niên đại của nó
cũng hết sức khó khăn. Tuy Kinh lễ chính thức xuất hiện muộn hơn so với
những bộ kinh khác nhưng có thể khẳng định rằng phạm trù “lễ” được xuất
hiện vào đầu thời kỳ nhà Hạ khoảng 2205 – 1766 TCN, sau đó “lễ” trở nên
hưng thịnh nhất vào thời kỳ đầu nhà Chu khoảng thế kỷ XI TCN, nhưng lễ trở
thành một phạm trù thực sự thì lại gắn liền với vai trò của Khổng Tử. Nội dung
của Kinh Lễ đã có từ lâu, chỉ có phần ghi chép là hơi muộn màng. Thời gian
Kinh Lễ được ghi chép thành sách rất dài có thể kể từ thời Chiến Quốc đến
giữa thời Tây Hán.
Sự ra đời của phạm trù “lễ” có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất: “lễ” ra
đời mục đích là tế tự, thuận theo đạo của trời đất để lý giải đạo của con người.
Thứ hai: Quá trình phát triển của xã hội đòi hỏi phải có “lễ” để giáo hóa nhân
tính con người, từ đó đặt ra chuẩn mực đạo đức chung cho toàn xã hội. Con
người cần có “lễ” để làm quy tắc, chuẩn mực để phân định giới hạn thiện, ác.
Phạm trù lễ đối với việc tu dưỡng tính tình. Khổng Tử rất coi trọng
tình cảm của con người, ông cho rằng tất cả đều do tình cảm mà sinh ra. Vì thế
[TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN. SỐ 194-2011] 2
thánh nhân phải dạy cho con người những đạo lý tốt đẹp nhất. Mục đích là để
hình thành cho con người có những tình cảm tốt, tức là gây thành cái gốc của
đạo nhân tồn tại trong mỗi cá thể của xã hội. Với chủ trương dùng lễ để giáo
hóa tính tình, làm cho xã hội có chung một quan niệm đạo đức, tập quán để làm
việc thiện, việc phải, mà vẫn tự nhiên không mang tính gò bó. Mục đích cuối
cùng là để đưa xã hội từ vô đạo trở về với có đạo. Khổng Tử nói rằng “cung
kính quá lễ thành ra lao nhọc thân hình; cẩn thận quá lễ thành ra nhát gan; dũng
cảm quá lễ thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ thành ra gắt gỏng, cấp
bách”[2, tr 121]. Như vậy lễ theo Khổng Tử là cốt để giữ chừng mực cho những
hành vi của con người trong xã hội, chính vì thế nên “Đạo đức nhân nghĩa mà
thiếu lễ thì ắt không thành. Giáo huấn để chính đính phong tục mà thiếu lễ ắt
không đầy đủ, ngay cả những việc phân tranh cãi cọ, không có lễ không thể giải
quyết được.”[8, tr 37] Ông chủ trương người quân tử phải biết làm cho sáng cái
lễ, phải biết cung kính tuân theo tiết độ của lễ. Trong xã hội phải lấy lễ làm
nòng cốt, nếu không có lễ để làm tiêu chuẩn cho hành vi thì không thể phân định
trên dưới. Trên quan điểm dùng lễ để tu dưỡng tính tính tình chúng ta thấy
Khổng Tử hướng con người tới một đạo lý tốt đẹp.
Lễ trong trật tự xã hội. Trong trật tự xã hội tồn tại thứ bậc, do vậy phải
phân định rõ ràng trật tự xã hội trên dưới cho phân minh. Phải có lễ để phân
định rõ ràng, khiến cho vạn vật không xáo trộn, mỗi vật đều thực hiện đúng vai
trò vị trí của mình. Có lễ thì “kẻ tiểu nhân nghèo thì quá thúc ước bắt chước, khi
giàu thì lại kiêu ngạo. Thúc ước quá thì (dễ) sinh ra trộm cắp, kiêu ngạo quá thì
(dễ) xẩy ra làm loạn”[8, tr 241]. Muốn cho xã hội thoát khỏi loạn lạc, xã hội
phồn vinh, thịnh trị “…khiến cho dân giàu nhưng không đủ kiêu ngạo, nghèo
nhưng không đến nổi quá tiết kiệm thăt buộc, quý nhưng không phạm đến bậc
[TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN. SỐ 194-2011] 3
trên, nhờ vậy loạn tự hết”[8, tr 141]. Như vậy lễ đươc xem là chuẩn mực đạo
đức chung của con người.
Trên quan điểm con người vốn thiện. Khổng Tử cho rằng người ta sinh
ra thích an tĩnh, nhưng trong quá trình tồn tại con người bị môi trường xung
quanh làm cho động. Con người khi mới sinh ra như một tờ giấy không có vết
tích của sự yêu và ghét, thế nhưng sau đó môi trường sống bắt đầu vẽ lên tờ
giấy kia sự yêu và ghét. Quá trình đó làm cho yêu và ghét hình thành trong mỗi
con người. Về bản chất thì yêu và ghét không có tiết độ bên trong nhưng bên
ngoài thì chịu sự tác động của môi trường sống làm cho mê muội dẫn đến không
làm chủ được bản thân mình. Nếu con người làm chủ được bản thân không để
cho sự mê muội làm chủ bản thân thì còn biết phân biệt phải trá. Còn nếu chỉ
làm theo sự ham muốn của bản thân thì thiên lý ắt bị tiêu diệt.
Khổng Tử luôn lấy tính cảm của con người làm trọng. Theo ông tình cảm
của con người rất khó nắm bắt, do vậy phải hướng tình cảm của con người tới
những giá trị đạo đức cao cả, nếu không hướng tới được những giá trị đạo đức
đó thì sẽ trở nên hư hỏng. Trên quan điểm đó chúng ta có thể hiểu con người
thường tình hễ có thừa thì xa xỉ, khi thiếu thốn thì dè sẻn, nếu không ngăn cấm
hành vi thì dẫn đến dâm đãng. Cái tình của con người không bộc lộ ra bên ngoài
mà nó được ẩn khuất bên trong nên rất khó nắm bắt.
Việc sử dụng lễ để giáo hóa con người đã đem lại nhiều thành quả tốt
đẹp. Sự giáo hóa của lễ rất như có phép mầu nhiệm, ngăn cấm những suy nghĩ
lệc lạc của con người khi nó chưa hình thành ra. Lễ khiến con người ngày ngày
tiếp xúc với những điều thiên, tránh xa những tội lỗi.
Như vậy xét kỹ những nội dung đã bàn trên của phạm trù lễ của Khổng Tử
chúng ta thấy, tác dụng của lễ bao hàm tất cả các hành vi con người và các thiết
[TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN. SỐ 194-2011] 4
chế của toàn xã hội. Nghĩa rộng của chữ lễ bao hàm cả pháp luật, thế nhưng tư
tưởng của Khổng Tử lại thiên về cái quy củ mục đích là giáo hóa, trong lúc đó
pháp luật lại thiên về cấm.
Trong một số hoàn cảnh nhất định chúng ta thấy dùng lễ vẫn còn phù hợp,
dùng lễ có thể ngăn cấm ngững việc chưa xẩy ra, trong lúc đó dùng hình là cái
ngăn ngừa việc đã xẩy ra.
Ý nghĩa của lễ trong phương diện đạo đức. Quá trình diễn tiến lịch sử,
phạm trù lễ đã có sự biến đổi, nhưng dù biến đổi đến đâu đi nữa thì lễ cũng
mang trong mình nó những giá trị đạo đức nhất định. Khổng Tử cho rằng, công
dụng căn bản của lễ không có gì khác hơn là chính nền đạo đức. Ðạo nhân, đạo
nghĩa, đạo tín, là những đức tính căn bản của lễ. Một người thiếu lễ, không thể
là người quân tử “lễ là việc làm của con người, không có lễ, không có gì đứng
vững được”[1, tr 336]. Do vậy trung, hiếu thực ra chỉ là những quy tắc tất yếu
xây dựng trên nhân, nghĩa, và tín, trong khi lễ là một phương thế biểu hiện
những đức tính trên.
Lễ mang tính chất như một cái thước đo lường, cái thước phát xuất từ nội
tâm nhưng có thể đo được con người nhờ vào hình thức ở bên ngoài. Nói cách
khác, nếu nhân là cái bản chất của đạo đức, thì nghĩa là cái thước đo, là cái
mức, cái hình mà chỉ theo đó ta mới nhận ra được nhân. Khổng Tử cho rằng
“Phi lễ phi thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi không
hạp lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẵng hạp lễ thì mình đừng nghe, lời chi
chẳng hạp lễ thì mình đừng nói, việc chi chẳng hạp lễ thì mình đừng làm”[2, tr
181].
Như vậy công dụng của lễ tồn tại trong tất cả những giá trị đạo đức của
xã hội lúc bấy giờ “dân chúng do lễ mà sinh sống, vì vậy lễ rất lớn, không có
[TẠP CHÍ VĂN HOÁ NGHỆ AN. SỐ 194-2011] 5
Lễ thì không có tiết độ, ý nghĩa để thờ trời đất thần linh, không có Lễ thì
không thể phân biệt đâu là tình trai gái, cha con, anh em hoặc những giao tình xa
gần, hôn nhân. Bậc quân tử vì thế mà phải tôn kính Lễ”[8, tr 220]
Ý nghĩa của lễ trong lĩnh vực chính trị, xã hội. Khổng Tử rất chú trọng
đến lễ, xem lễ như là những quy phạm đạo đức, làm cho quốc gia ổn định, dân
chúng có lợi. Điều chỉnh hành vi của dân, cho nên nhà cầm quyền phải dùng lễ
để dạy phép tắc cho dân. Trong một xã hội không có “lễ” tất yếu sẽ sinh ra
loạn lạc, tranh quyền, đoạt vị. Trên quan điểm đó Khổng Tử cho rằng lẽ làm
cho cha nhân từ, con hiếu thảo, anh thương yêu em kính cẩn, chồng hòa hợp vợ
nhu thuận.
Lễ có công dụng trong các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ vua tôi. Ông
cho rằng nếu nhà cầm quyền dùng lễ để cai trị khi hạ lệnh “bề tôi nghe theo,
thuyết phục ở chổ có lễ thì xã tắc được bảo vệ giữ gìn vậy”[1, tr337]. Để bình
ổn xã tắc theo ông nhà cầm quyền phải dùng lễ, nếu nhà cầm quyền dùng lễ để
trị dân thì tự nhiên dân sẽ tự cảm hóa và thịnh trị. “Lễ sở dĩ gìn giữ được nước
là do thi hành chính lệnh, không làm mất dân của nước”[1, tr 337].
Mục đích của lễ là để tu dưỡng đạo đức, con người có đạo đức là người
luôn biết tự sửa mình để trở thành một con người lý tưởng. Khổng Tử chủ
trương là con người nhất định phải biết lễ, như vậy đối với người học trước
hết phải học lễ trước, khi đã biết lễ rồi thì sẽ biết cung kính người trên,
nhường nhin người ở dưới. Người giàu không ức hiếp kẻ nghèo, người nghèo
không vì thấy của cải mà phạm tội. Khi con người biết phân biệt lớn nhỏ, biết
phân biệt thân sơ quý tiện thì xã hội sẽ thịnh trị.
Một đất nước thịnh trị là một nước dùng lễ để cai trị. Lễ có công dụng làm
bền cái gốc của nước, là uy thế của ngưới cai trị khi thi hành công việc. Nhận
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn