Xem mẫu

  1. Biến đổi Xã hội Bài tập về nhà: I, Biến đổi xã hội: 1, Khái niệm: -Vận động là phương thức để tồn tại và phát triển, và để phát triển, xã hội phải có sự biến đổi. Vận động không ngừng thì biến đổi cũng không ngừng, vì vậy bất kì xã hội nào cũng luôn luôn biến đổi. Từ đó, ta có khái niệm về Biến đổi xã hội: đó là một sự thay đổi so sánh với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước. Ở phạm vi hẹp hơn, biến đổi xã hội được coi là sự biến đổi về câu trúc của xã hội gây ảnh hưởng lớn đến các thành viên của xã hội đó. Chung nhất, ta có quan điểm: Biến đổi xã hội là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian. - Các khái niệm liên quan : Biến cố xã hội: các nhà xã hội học thường phân biệt khái niệm biến cố xã hội với biến đổi xã hội. Một biến cố xã hội hay một sự kiện xã hội như một cuộc bầu cử, biểu tình, đình công,... có thể đem lại sự thay đổi và cũng có thể không đem lại một sự thay đổi nào. Thay đổi về sự bình quân là việc đi đến một sự bình quân mới sau những xáo trộn, những biến cố; nhưng các đặc trưng của hệ thống xã hội vẫn không thay đổi, chính xác hơn chỉ một bộ phận của tổng thể xã hội biến đổi, nhưng cơ cấu của xã hội vẫn không bị ảnh hưởng - Thực chất, sự thay đổi bình quân không liên quan đến sự biến đổi xã hội; Tiến bộ xã hội: là một sự vận động có ý thức trong một chiều hướng được tán thành và đáng mong đợi. Như vậy, tiến bộ liên quan đến giá trị - đây là sự khác biệt giữa sự tiến bộ và sự biến đổi xã hội. Thuật ngữ "tiến bộ" là một phán quyết giá trị chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện. Ngược lại thuật ngữ "biến đổi" là một thuật ngữ không chỉ định hướng giá trị mà thể hiện một sự mô phỏng của một nền văn hóa hay cấu trúc xã hội hiện hữu; Tiến hóa: thuyết tiến hóa ban đầu do Charles Darwin (1809–1882) đưa ra trong lĩnh vực sinh học, như một học thuyết về sự phát triển của tự nhiên - học thuyết này ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhà xã hội học nổi tiếng: Lewis Henry Morgan (1818-1881), Herbert Spencer (1820- 1903). Morgan cho rằng, con người tiến hóa qua ba trạng thái: hoang dã, man dã và văn minh. Spencer xây dựng lý thuyết thống nhất về sự tiến hóa: chuyển từ cái thuần nhất đơn giản sang cái không thuần nhất phức tạp, thông qua phân hóa để đạt tới sự thống nhất. Trong xã hội học, phân biệt hai hình thức biến đổi lớn - tiến hóa và cách mạng; hai hình thức này phụ thuộc vào những yếu tố bên trong và bên ngoài. Thoạt nhìn, chúng tự phân biệt với nhau bằng tính chất chậm chạp hay nhanh chóng của sự biến đổi diễn ra trong xã hội ở những thời điểm nhất định. Những biến đổi bên trong, ở bất kỳ lĩnh vực nào, cũng kéo theo một sự tiến hóa và sự tiến hóa này đôi khi diễn ra nhanh chóng trên phương diện vật chất, nhưng chậm hơn ở phương diện tinh thần. Sự tiến hóa gần đây nhất và gần gũi với cách mạng là sự tiến hóa được biết đến với cái tên "phát triển" - đây là khái niệm được nhiều nhà xã hội học quan tâm và trở thành một khái niệm thịnh hành nhất vào nửa sau của thế kỷ 20. Các nhà xã hội học cho rằng, phát triển là một quá trình trong đó toàn thể loài người áp dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ vào những mục tiêu của mình, qua những thời kỳ khác nhau và có tính không thể đảo ngược của quá trình đó. Cách tiếp cận theo chu kỳ Đối với lịch sử loài người, sự hiểu biết về chu kỳ của những biến đổi xã hội đã ăn sâu vào ý nghĩ c ủa con người, chu kỳ của tự nhiên, mặt trời mọc và lặn, quy luật bốn mùa thay đ ổi c ủa m ột năm và s ự l ặp lại của tự nhiên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận thức của con ng ười về sự biến đ ổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được lặp lại mãi trong nh ững chu kỳ không bao gi ờ k ết thúc. Các nhà
  2. khoa học và sử học trước đây nhìn chung đều phản đối những tư tưởng này, m ặc dù họ cho rằng các xã hội có những chu kỳ sống của nó, và mỗi xã hội được sinh ra trưởng thành, rồi sau đó bi ến m ất. M ột s ố nhà lý thuyết, như nhà sử học Anh Arnold Toynbee (1852-1883) lại có quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh được" của sự suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người có thể cho phép văn minh hóa đối với sự sống" . Nhà xã hội học Pitirim Sorokin (1889-1968) đưa ra lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho rằng sự văn minh hóa đ ược dao động trong ba kiểu của "những trạng thái tâm lý" hoặc rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng - trong tất cả các hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mô hình c ụ thể c ủa suy nghĩ nắm được giới hạn logic của nó. Các quan điểm tiến hóa Những mô hình kinh điển Những mô hình kinh điển là những mô hình được mượn từ khoa học sinh học, đã giành được vị trí ở thế kỷ 19, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý thuyết ph ổ biến đ ược g ọi là s ự ti ến hóa m ột chi ều, s ự tiến hóa theo lộ trình dọc, chỉ tiến về phía trước chứ không lùi hoặc đi ng ược về phía sau cho r ằng t ất c ả các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa t ừ những hình th ức đơn gi ản đ ến ph ức t ạp, v ới m ỗi hình thức sau xa hơn những hình thức trước nó. Auguste Comte (1798–1857) lập luận rằng, tất cả các xã hội không thể tránh khỏi được sự trải qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng, và xã hội châu Âu đã ở bước cuối cùng - bước cao nhất và là bước kết thúc của sự phát triển nhân loại. Herbert Spencer (1820–1903) nhìn sự tồn tại của các tổ chức và các xã hội như là sự liên quan trực tiếp với một môi trường chuyển đổi. Spencer tin rằng các xã hội phương Tây có sự thuận lợi hơn để đến trình độ cao nhất bởi bởi vì họ "đáp ứng tốt hơn" với những điều kiện của thế k ỷ 19 h ơn nh ững xã h ội không thuộc phương Tây. Nhà xã hội học cổ điển Émile Durkheim (1858-1917) cho rằng, những hình thức mới của sự đoàn kết xã hội, hoặc những ý thức cụ thể, sẽ xuất hiện để duy trì xã hội. Theo ông, có hai ki ểu mô hình. Trong các xã hội giản đơn mỗi thành viên thực hiện các nhiệm vụ gi ống nhau, có thể thay thế l ẫn nhau và chia s ẻ những giá trị, niềm tin giống nhau. Tính gắn kết hay sự đoàn kết cơ học phù hợp với xã hội hòa nhập. Trải qua thế kỷ 19, rõ ràng rằng sự công nghiệp hóa, s ự tăng trưởng dân s ố và c ạnh tranh đang phá h ủy những hình thức truyền thống của sự đoàn kết xã hội. Để tiến tới một hình th ức cao h ơn: sự đoàn kết hữu cơ, trong đó sự phân công lao động tạo ra những người có cá tính khác nhau, thực hi ện nh ững nhiệm vụ riêng biệt, với những vai trò đặc biệt. Sự cố kết xã hội bên trong là k ết quả c ủa s ự b ổ xung l ẫn nhau giữa các chức năng và một kiểu giá trị mới xung quanh khái niệm nhân cách con ng ười. Durkheim đưa ra khái niệm "sự rối loạn" để nói lên sự bất lực của xã hội trong việc hội nhập các cá nhân và sự suy yếu về ý thức tập thể. Những quan điểm tiến hóa mới Thế kỷ 20, những mô hình ở thế kỷ trước đã mô tả biến đổi xã hội nh ư là sự tiếp t ục và không th ể thay đổi được thay thế bằng sự sành điệu và tế nhị hơn. Những lý thuyết tiến hóa m ới, hi ểu bi ết về các xã hội khác nhau tùy thuộc vào mức độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh h ướng chung đi tới sự khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tôn giáo, chính trị,...) trở thành s ự phân chia và khác bi ệt gi ữa cái này và cái kia. Không giống như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ 19, các nhà lý thuy ết ti ến hóa m ới không mô tả một hình thức của xã hội như là một s ự tuyệt đối, cũng không kh ẳng định r ằng, các xã h ội không thể tiến hóa tới một vài thực trạng cao hơn. Quan điểm xung đột Karl Marx (1818–1883) cùng hầu hết các nhà lý thuyết xã hội ở thế kỷ 19 chịu ảnh h ưởng lớn b ởi thuyết tiến hóa. Karl Marx đồng ý rằng các xã hội phải chuyển đổi để tồn t ại và ông không nh ấn mạnh r ằng kinh tế phục vụ như là sự thành lập cho trật t ự xã hội. Được xếp vào các nhà lý thuy ết theo ch ủ nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai một lý thuyết tiến hóa về sự bi ến đổi xã hội. D ựa vào s ự thay đ ổi liên tục trong kỹ thuật mà các xã hội tiến từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi m ột trạng thái, m ột xã h ội tiềm ẩn những điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này cuối cùng sẽ dẫn đến s ự biến đổi và đ ưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó. Karl Marx có cái nhìn về quá trình hiện đại hóa rất khác biệt v ới nh ững nhà t ư t ưởng xã h ội khác, b ởi l ẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã hội. Marx cho rằng xã h ội hi ện đại đ ồng nghĩa v ới xã hội tư bản, một hệ thống kinh tế được sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối th ời kỳ trung c ổ. Giai
  3. cấp tư sản nắm giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp đem l ại và đã thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc. Karl Marx cũng không phủ nhận rằng sự hình thành tính hiện đ ại có liên quan đ ến s ự suy tàn c ủa c ộng đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao động gia tăng và s ự xuất hi ện c ủa th ế gi ới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố này đều cần thiết cho việc phát triển chủ nghĩa t ư b ản. Chính ch ủ nghĩa t ư b ản đã kéo theo những người nông dân từ vùng nông thôn về các đô thị v ới hệ th ống th ị tr ường không ng ừng phát triển. Sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự vận hành các xí nghi ệp; tính duy lý th ể hi ện rõ trong xã hội tư bản. Marx có một cái nhìn về quá trình hiện đại hóa khá l ạc quan, và ông tin r ằng m ẫu thu ẫn xã hội trong xã hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi theo quy luật ti ến hóa, xã h ội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công bằng hơn, nhân đạo hơn. Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội Quan điểm tổng hợp Các nhà xã hội học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu t ố - cả yếu t ố bên trong và yếu tố bên ngoài của nhiều yếu tố - tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong nh ững hoàn c ảnh xã h ội và l ịch sử nhất định, các yếu tố cụ thể đôi lúc có thể ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Nh ững yếu t ố được các nhà lý thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đ ổi xã h ội, nh ư sau: Môi trường vật chất; Công nghệ; Sức ép dân số; Giao lưu văn hóa; Xung đột xã hội. Quan điểm toàn cầu Lý thuyết hiện đại hóa; Lý thuyết hệ thống thế giới; Lý thuyết phụ thuộc
nguon tai.lieu . vn