Xem mẫu
- Ôn Tập Thi Môn Đường Lối Đảng CS VN.
Câu 1: Trình bày tóm tắt hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng Cộng
Sạn Việt Nam? Khẳng định vai trò của Nguyễn Ái Quốc với việc
thành lập Đảng?
Câu 2: Khái quát hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường
lối đối ngoại, hội nhập kinh tế thời kỳ đổi mới của Đảng?
Câu 3: Khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về CNH – HĐH
vai trò của thanh niên, của Sinh viên đối với sự nghiệp CNH – HĐH ở
nước ta như thế nào?
Câu 4: Khái quát quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế
thị trường thời kì đổi mới. Kết quả, ý nghĩa của việc thực hiện
đường lối kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta? Ý nghĩa
của việc thành lập Đảng 1930?
BÀI LÀM
CÂU 1:
Hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt mang tính chất quyết định
của cách mạng Việt Nam . Xã hội Việt Nam trước khi có Đảng lãnh đạo
là nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách thống trị tàn bạo, phản động
của thực dân Pháp.
- Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh trên thế giới với đặc điểm sản xuất
hàng hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát sinh lợi nhuận nên cần có
nguyên vật liệu, nhân công, thị trường tiêu thụ... Và Pháp đã chọn Việt
Nam làm đối tượng để biến thành thị trường tiêu thụ đó.
- Thực dân Pháp cai trị nước ta trên các mặt: chính trị (quyền lực thể chế
chính trị, mức độ cai trị, chính sách); về kinh tế; văn hóa xã hội bao trùm
cả đất nước.
Về chính trị: chúng nắm giữ trực tiếp các chức vụ chủ chốt trong bộ
máy nhà nước, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành
tay sai đắc lực, thi hành chính sách cai trị chuyên chế. Chúng tấn công ta
bằng các biện pháp quân sự buộc ta phải nhường Nam kỳ lục tỉnh cho
Pháp. Chúng thực hiện chế độ bảo hộ Trung và Bắc kỳ. Chính sách cai trị
trực tiếp, có bộ máy cai trị nhằm đàn áp các phong trào yêu nước bản xứ,
khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc, tôn giáo…. Chúng thi
hành chính sách chia để trị, sử dụng bộ máy tay sai (không bỏ bộ máy của
- triều đình), từ xã ấp thôn trở lên thì vẫn giữ các chức vụ của triều đình,
chính sách...
Về kinh tế: chúng giữ thế độc quyền về kinh tế, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta; tăng cường vơ vét tài nguyên và bóc lột
nặng nề (duy trì cả bóc lột kiểu phong kiến). Nền kinh tế của ta mang
tính chất nông nghiệp lạc hậu, tiểu nông chậm phát triển. Trong suốt 80
năm cai trị, thực dân Pháp làm cho nền kinh tế không phát triển, công nhân
và nông dân bị bần cùng hóa, nền kinh tế què quặt, lệ thuộc kinh tế Pháp,
để lại hậu quả nghiêm trọng kéo dài. Thực dân Pháp có 2 dạng đầu tư vào
nước ta: một là vơ vét khoáng sản, tập trung vào chế biến nông sản thực
phẩm, hai là công nghiệp nhẹ như dệt may, thuốc lá, bông trà... Các dạng
đầu tư này không kích thích phát triển kinh tế mà chỉ ở dạng đơn giản.
Sản phẩm được đem về bản xứ chứ không bán ra thị trường các nước.
Về xã hội: chúng áp dụng chính sách ngu dân (nghĩa là không cho dân
học chữ hoặc nếu có học thì học tiếng Pháp); khuyến khích đồi bại phong
tục, văn hóa nô dịch, sùng Pháp, vong bản, xa rời bản sắc văn hóa dân tộc,
kìm hãm dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị
của chúng.
Chính sách thống trị của Pháp và tay sai đã tạo ra trong xã hội Việt Nam 2
mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp
xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta (chủ yếu là giữa nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến – chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của
chủ nghĩa thực dân Pháp). 2 mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó, mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Vì
vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc
phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu
của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết.
Trong khi đó, cuối năm 1929, có 3 tổ chức Cộng Sản trong nước thành lập
và đã tổ chức được một số phong trào CM nhất định, tuy nhiên lại đối lập
nhau và có sự tranh dành quyền lợi của nhau cho nên không có lợi cho tình
hình cách mạng VN lúc bấy giờ, đặt yêu cầu phải thống nhất các tổ chức
Cộng Sản ở VN thành một chính đảng duy nhất.
Đúng lúc Quốc tế Cộng Sản gửi thư, chỉ thị cho Nguyễn Ái Quốc về
Đông dương, thống nhất các tổ chức Cộng Sản ở Đông Dương.
- Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập Đảng
Cộng Sản Việt Nam:
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi
tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái
Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc
những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường
cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với
phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con
đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam. Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái
Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi
đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn
những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân
phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam.
a, Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc:
- Năm 1921, Người sáng lập ra “Hội liên hiệp thuộc địa” ; năm 1922 ra
báo Le Paria (Người cùng khổ).
- Năm 1923, Người sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân; sau đó
nghiên cứu, học tập ở Quốc tế cộng sản, viết bài cho các báo Pravđa(Sự
thật) và tạp trí Thư tín Quốc tế.
- Năm 1924, Người đã viết các bài đăng trên các báo nhân đạo, Đời sống
công nhân và nhất là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, trong đó
Người đã tố cáo, tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân Pháp, thức
tỉnh các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc chính là người đầu tiên
- truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta.
Cùng với sự hình thành quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược
cách mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Người
đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập đảng cộng sản Việt
Nam.
b, Sự chuẩn bị về tổ chức của Nguyễn Ái Quốc:
Khi từ Liên Xô về tới Quảng Châu, Người đã tiếp xúc với các nhà
cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp
huấn luyện về chính trị để đào tạo cán bộ. Tháng 6-1925, Người sáng lập
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nòng cốt là Cộng Sản đoàn, chuẩn bị
cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Năm 1929, ba tổ chức cộng sản nối tiếp nhau ra đời:
- Ngày 17-6-1929: Đông Dương Cộng sản đảng.
- Tháng 7-1929 : An Nam Cộng sản đảng.
- Thánh 9-1929: Đông Dương Cộng sản liên đoàn.
Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn
tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có
nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có
một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chién sĩ cách
mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy
tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành
Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Ý nghĩa của việc thành lập Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì đấu tranh giành độc
lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng
Việt Nam. Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được những nhu cầu bức thiết
của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triển cao và
thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ
- chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc
về con đường cứu nước. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước
ngoặt của cách mạng Việt Nam”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Điều đó nói lên quy luật ra đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp
công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành
và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm nhiệm vai trò
lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam.
Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lich sử cách mạng
nước ta chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước trong
những năm đầu thế kỷ 20 đồng thời khẳng định vị trí lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định
bởi quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng đất nước quá độ đi lên CNXH của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và
đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh".
Câu 2: Khái quát hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
đối ngoại, hội nhập kinh tế thời kỳ đổi mới của Đảng?
Trả lời: Kể từ Đại hội Đảng VI (1986), với đường lối đổi mới
đất nước, đặc biệt là những đổi mới trong kinh tế, hơn 23 năm qua (1986-
2010), những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã khẳng định
đường lối đổi mới kinh tế của Đảng đề ra trong từng thời kỳ là hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan và đáp ứng được lòng mong muốn
của nhân dân ta, đem lại kết quả đáng khích lệ và tạo khả năng cho nền
kinh tế phát triển tốt hơn trong những năm tới.
Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng tạo ra sức mạnh phát triển đất
nước. Chủ trương xây dựng trong cả nước một nền kinh tế XHCN theo
mô hình “kế hoạch hóa tập trung cao” chủ yếu với hai hình thức sở hữu
nhà nước và tập thể; tổ chức sản xuất kinh doanh theo các loại hình xí
nghiệp quốc doanh và xí nghiệp hợp tác xã, thực hiện phân phối theo cơ
chế quản lý hành chính bao cấp từ Đại hội IV (1976) đưa vào thực hiện
- không lâu đã bộc lộ sự không phù hợp với tình hình mới về yêu cầu phát
triển của nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế đi dần vào ngõ cụt, không phát
triển được, thậm chí có mặt tụt lùi so với trước, gây ra tình trạng khủng
hoảng kinh tế trong nhiều năm không khắc phục được.
Nhận định tổng quát về thực trạng kinh tế nước ta, trong những năm cuối
thập kỷ 70, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8/1979 đã chỉ ra:
Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống; sản
xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân dưới 1%/năm); năng suất lao động quá thấp; đời sống nhân dân thiếu
thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng.
Để khắc phục tình trạng đó, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) đã chỉ ra
phải nghiên cứu để cải tiến một bước cơ bản các chính sách kinh tế,
trước hết là chính sách lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng không
ăn khớp giữa chính sách đề ra và tình hình thực tế của sản xuất và đời
sống xã hội. Chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ, không dám nhìn thẳng
vào những thiếu sót trong chính sách, đồng thời phải nghiêm túc nghiên
cứu các mặt khi xác định chính sách mới để tránh mắc phải sai lầm. Nghị
quyết Trung ương 6 (khóa IV) không chỉ xác định thực trạng bế tắc của
nền kinh tế nước ta lúc đó mà còn chỉ ra định hướng tư duy mới cho nền
kinh tế nước ta nhằm làm cho sản xuất “bung ra”. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ V (tháng 3/1982) đã quyết định một số vấn đề rất cơ bản về
đổi mới lãnh đạo kinh tế. Kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc
doanh cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) (tháng
1/1994) đề ra chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
đất nước trong thời kỳ mới và khẳng định “phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.
Sau Đại hội VIIl, những động lực mới đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với
mức độ cao và bền vững ở thời kỳ 1991-1995. Tổng sản phẩm trong nước
tăng bình quân 7,9%/năm, tạo điều kiện cho đất nước ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định nước ta
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước và phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội VIII cũng làm rõ hơn định
hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
- phần. Từ năm 1997 - 1999 thiên tai dồn dập diễn ra gây thiệt hại lớn đối
với nhiều vùng của đất nước, cộng vào đó cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động
mạnh làm cho nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn mới. Hội
nghị Trung ương 8 khóa VIII (tháng 12/1999) đã đánh giá đúng tình hình,
xác định những chủ trương và giải pháp mới nhằm ổn định chính trị và
tiếp tục phát triển kinh tế xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) định ra chiến lược phát
triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, với phương
hướng tổng quát là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”
khẳng định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện
nay là “Độc lập dân tộc gắn liền với CHXN, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ văn minh”; đồng thời cũng khẳng định phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của cả
thời kỳ quá độ; chỉ rõ nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta
hiện nay là đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu,
khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự
nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN làm cho nước ta trở thành một
nước XHCN phồn vinh. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ra Nghị quyết:
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 - 2010; khẳng định kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà
nòng cốt là Hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn; phân phối theo lao
động, vốn và mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến
lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất
kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những
đảng viên đang làm chủ các doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ
Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của
Đảng; Đại hội IX cũng nhấn mạnh việc phát triển nền kinh tế nước ta ở
những thập niên đầu thế kỷ XXI, phải tạo ra bước tiến rõ rệt về chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và khẩn trương hơn
trong hội nhập kinh tế quốc tế. Những chủ trương chính sách kinh tế mới
của Đại hội IX và các Nghị quyết Trung ương (khóa IX) đề ra đã nhanh
- chóng đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực tạo nhiều cơ hội cho
nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,
bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51% và phát triển tương đối toàn
diện; lương thực xuất khẩu hàng năm từ 4 đến 5 triệu tấn gạo. Đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện, đặc biệt là thành tựu về xóa đói giảm
nghèo, chúng ta đã đạt chuẩn quốc tế vào năm 2003.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) đã xác định 5 năm (2006
- 2010) có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI và đề ra mục tiêu
phương hướng tổng quát trong lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đổi mới nền
kinh tế. Đó là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước... sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ
mục tiêu tổng quát trên trong lĩnh vực kinh tế, Đại hội X chỉ rõ một số
quan điểm lớn về đổi mới như: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Đây là thể hiện bước tiến về nhận thức của Đảng ta, bắt
kịp xu thế phát triển mới của thế giới. Đại hội X chủ trương phát triển
nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức
cạnh tranh và hiện đại hóa; tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực
dịch vụ; tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Câu 3: Khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về CNH – HĐH
vai trò của thanh niên, của Sinh viên đối với sự nghiệp CNH – HĐH ở
nước ta như thế nào?
Trả lời:
1. Khái quát quá trình đổi mới tư duy của Đảng về CNH – HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa: theo tinh thần của hội nghị TƯ VII
khóa 7, CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
- sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khao học-công nghệ, tạo ra năng suất
lao động xã hội cao.
Hiện đại hóa là quá trình sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại phù hợp
với công nghệ của thế giới để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Nguyên nhân phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa: Đặc điểm của nước ta là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, kém
phát triển, lại bị chiến tranh phá hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung
quan liêu bao cấp trước đây dẫn đến nền kinh tế bị tụt hậu so với thế
giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa.
Bối cảnh thế giới: sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu
nước ta không kịp thời tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sẽ bị
bỏ lại phía sau. Đồng thời nước ta tận dụng được lợi thế của nươc phát
triển sau, tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm
tòi, phát minh.
Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, co một số
nước bắt đầu chuyển sang nền kinh tế tri thức yêu cầu nước ta phải bắt
kịp xu thế đó. Sau năm 1975, đất nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, có những thuận lợi song cũng không ít khó khăn, với một
nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nghèo nàn, hậu quả chiến tranh để
lại hết sức nặng nề, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế câu
kết với nhau bao vây, chống phá rất quyết liệt. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn trở ngại thu được nhiều
thành tựu:
- Đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất Nhà nước về mọi mặt; cuộc
tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước (ngày 24-4-1976) đã đạt
kết quả tốt đẹp. Các tổ chức đoàn thể cách mạng cũng nhanh chóng được
thống nhất.
- Nhân dân cả nước hăng hái tham gia khôi phục kinh tế, khắc phục
những hậu quả chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
- Thắng lợi của cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc biên cương
của Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự an toàn xã hội.
Tuy vậy, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được trong 10 năm xây
dựng (1975-1985) còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, gay
gắt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội
VI (1986) của Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, chỉ ra những yếu kém
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra đường lối đổi
- mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991 - 2000, các Nghị
quyết của Đại hội VII, Đại hội VIII và các Nghị quyết Trung ương sau đó
đã cụ thể hoá hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau hơn 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách
gay go, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vượt lên đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng còn một số mặt chưa vững
chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn
bị tiền đề cho công nghiệp hoá hoàn thành về cơ bản, cho phép chuyển
sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn.
Trong 5 năm (1996-2001), thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng,
đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân hàng năm là 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục. Giá trị sản xuất
công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng,
các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển.
Văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực. Các
hoạt động văn hoá, văn nghệ, công tác chăm sóc sức khoẻ và những chính
sách xã hội khác đều được coi trọng, đạt những kết quả to lớn.
Tình hình chính trị - xã hội cơ bản được ổn định; quốc phòng, an ninh
được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ.
Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, hội nhập quốc tế được tiến
hành chủ động và đạt được nhiều kết quả, vị thế của nước ta trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao.
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng
cố; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số
chính sách và quy chế dân chủ của nhân dân trước hết là ở cơ sở, bước
đầu được thực hiện.
Những thành tựu 5 năm (1996 – 2001) đã tăng cường sức mạnh tổng hợp,
làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố
vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và
uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
- Vai trò của thanh niên, sinh viên đối với sự nghiệp CNH
-HĐH ở nước ta hiện nay :
Đối với sự nghiệp CNH _ HĐH của nước ta hiện nay, thanh niên và sinh
viên là những nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng vào sự nghiệp
phát triển không những cho nền kinh tế mà còn giúp cho nền chính trị
cũng được bền vững. Tích cực tham gia và chấp hành đúng luật pháp, cơ
chế, chính sách của Đảng và nhà nước. Thanh niên và sinh viên là những
nguồn nhân lưc tri thức, là những thế hệ sẽ nối tiếp và đảm nhiệm nhiệm
vụ xây dựng và phát triển nước nhà, là nguồn lực tri thức của đất
nước………
Câu 4: Khái quát quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường thời kì đổi mới. Kết quả, ý nghĩa của việc thực hiện đường
lối kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta?
Trả lời:
A, Khái quát quá trình hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường thời kì đổi mới
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm.
Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
điều cần thiết trước hết là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Đó là : thực hiện mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ
và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát
triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển; hoàn thiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy vai trò làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về nội dung, cần tiến hành đồng thời cả ba mặt :
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước tập trung
làm tốt các chức năng : Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược,
- quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các
nguyên tắc của thị trường. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy
các nguồn lực của xã hội cho phát triển. Bảo đảm tính bền vững và tích
cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường. Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp
luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và
doanh nghiệp...
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát
triển mạnh thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường sức lao động, cần
phát triển vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường vốn và thị
trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị
trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động
sản gắn liền với đất, làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho
phát triển, thị trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị
trường khu vực; phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở
đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ
(trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến
lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hoá.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh.
Chúng ta chủ trương xây dựng và thực hiện Chiến lược quốc gia về phát
triển doanh nghiệp, xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam có
sức cạnh tranh cao, chủ lực là một số tập đoàn kinh tế và công ty lớn dựa
trên hình thức cổ phần. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá; đổi mới
và phát triển các loại hình kinh tế tập thể; phát triển mạnh các hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân, đồng thời thu hút
mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài.
Về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và
tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển mạnh các ngành
- kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức.
Chúng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp,
nông thôn và nông dân. Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển
dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá
trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường;
thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa
học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa
phương. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn và
thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng các làng, xã,
thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình
thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng
bộ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá,
nâng cao trình độ dân trí; chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao
động làm công nghiệp và dịch vụ.
Trong việc phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, chúng ta khuyến
khích phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế
tác, công nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh,
tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một
số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để
các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất
quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn
kinh tế và các công ty xuyên quốc gia. Khẩn trương thu hút vốn trong và
ngoài nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu
khí, lọc dầu và hoá dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân
bón, vật liệu xây dựng, xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành
có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh; đưa tốc độ tăng
trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
Chúng ta chủ trương phát triển kinh tế vùng thông qua các chính sách phù
hợp tạo điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời
tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng; phát triển kinh tế biển theo một
chiến lược toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta thành
một quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc
phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta phải phù hợp xu thế phát
- triển nhảy vọt của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới. Cố
gắng đi ngay vào công nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và
từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Chú trọng đúng mức việc phát
triển công nghệ cao để tạo đột phá và ứng dụng công nghệ dùng nhiều
lao động để giải quyết việc làm.
B, Kết quả, ý nghĩa của việc thực hiện đường lối kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta
20 năm qua là sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng toàn dân,toàn quân ta.
Công cuộc đổi mới đạt đc nhữg thành tựu to lớn và có ý nghĩa trong LS.
Đất nước đã thoát khỏi chiến tranh, KT-XH có sự biến đổi cơ bản về toàn
diện.
+Kinh tế tăng trưởng khá nhanh.
+CNH-HĐH,phát triển kinh tế thị trường,định hướng XHCN được đẩy
mạnh.
+Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
+Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân đc củg cố và tăng
cường.
+Chính trị xã hội ổn định.
+Quốc phòng an ninh được giữ vững.
Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều tạo ra thế lực mới,
đất nước tiếp tiếp tục đi lên với triển vọng mới.◊
Xã hội XHCN mà nước ta xây dựng là:
+Một xã hội dân giàu nước mạnh, công bằng dân chủ văn minh do dân
làm chủ.
+LLSX hiện đại, QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
+Con người đc giải phóng khỏi áp bức bất công.
+Cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, phát triển toàn diện.
+Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau.
+Có nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân và vì dân, dưới sự lãnh
đạo của ĐCS.
+Quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên thế giới.
BAN BIÊN TẬP: SƠN LÂM - ĐÀO VĂN HUYẾN
nguon tai.lieu . vn