Xem mẫu

  1. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 NUÔI CẤY MÔ RONG SỤN (Kappaphycus alvarezii, Doty): KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU VỀ TẠO MÔ SẸO TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM Đào Duy Thu1*, Phạm Thị Mát1, Vũ Thị Hoài1, Nguyễn Văn Nguyên1 TÓM TẮT Mô sẹo (callus) là nguyên liệu quan trọng để nhân nhanh số lượng cây mầm trong công nghệ nuôi cấy mô rong biển. Bài viết này trình bày kết quả bước đầu về nghiên cứu tạo mô sẹo rong sụn trong phòng thí nghiệm sử dụng môi trường nuôi cấy PES ở độ mặn 28‰, khử trùng bằng hỗn hợp kháng sinh và cảm ứng tạo mô sẹo trong điều kiện nhiệt độ 250C (±1°C), ánh sáng huỳnh quang 5 μmol photons m-2.s-1, chu kỳ chiếu sáng là 12: 12. Kết quả cho thấy với 100% mẫu cấy không bị nhiễm khuẩn và nấm, tỷ lệ hình thành mô sẹo có thể đạt tới 45,16% và mô sẹo hình thành sớm nhất được quan sát sau 5 ngày nuôi cấy. Kết quả bước đầu xác định việc hình thành mô sẹo bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kích thước mẫu cấy, nồng độ agar làm môi trường nhưng không ảnh hưởng vào việc bổ sung chất điều tiết sinh trưởng. Từ khóa: Rong sụn, Kappaphycus alvarezii, phát sinh mô sẹo, Việt Nam. I. MỞ ĐẦU số lượng lớn con giống có cùng đặc điểm tính Rong sụn là loại rong biển kinh tế đang trạng đảm bảo đủ nhu cầu về giống cho việc được trồng tại nhiều nước châu Á Thái Bình trồng thương phẩm. Thực tiễn, hai nghiên Dương làm nguyên liệu sản xuất carrageenan. cứu của Dawes và ctv., (1991; 1993) đã thử Tương tự như các loài rong biển khác, từ trước nghiệm thành công sản xuất mô sẹo rong sụn tới nay, giống rong sụn chủ yếu được sản xuất và từ những mô sẹo đó họ tiếp tục nuôi cấy bằng phương pháp sinh sản sinh dưỡng. Theo thành rong giống đạt tỷ lệ 100%. Rong giống phương pháp này, chỉ có những nhánh rong sau đó đem trồng thử nghiệm cho tốc độ tăng có sức sinh trưởng tốt được lựa chọn để nhân trưởng hàng ngày tăng gấp 1,5-1,8 lần so với giống và đây là nguyên nhân chính dẫn đến rong sinh sản sinh dưỡng thông thường (Reddy suy giảm nguồn gen, kém sức sống kéo theo sự và ctv., 2003). suy giảm về năng suất rong thu hoạch (Dawes Tại Việt Nam, rong sụn là loài rong kinh và ctv., 1993). tế đang được trồng nhiều ở vùng biển từ Phú Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nhân Yên đến Bình Thuận. Tuy nhiên, sản lượng và giống rong sụn bằng nuôi cấy mô là phương chất lượng rong sụn Việt Nam hiện nay đang pháp hiệu quả trong việc lưu giữ những nguồn bị suy giảm không đáp ứng được nhu cầu chế gene quý phục vụ cho việc sản xuất theo biến rong sụn nội địa (Đào Duy Thu và ctv., phương pháp sinh sản sinh dưỡng. Quá trình 2014). Đây là vấn đề lớn cần phải có phương án phục hồi và nhân nhanh thành cây non có tác giải quyết triệt để. Nhằm thử nghiệm phương dụng “trẻ hóa” nguồn giống, tăng cường khả pháp nhân giống rong sụn bằng nuôi cấy mô năng chống chịu với môi trường (Reddy và và cải thiện chất lượng rong sụn, nghiên cứu ctv., 2008; 2010; Baweja và ctv., 2009). Bên này sẽ trình bày những kết quả bước đầu thử cạnh đó, nuôi cấy mô có thể tạo ra được một nghiệm phương pháp tạo mô sẹo trong phòng 1 Viện Nghiên cứu Hải sản *Email: ddthu@rimf.org.vn 18 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
  2. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 thí nghiệm làm nguyên liệu tái sinh chồi tạo trong nhà kính. Hàng tuần kiểm tra sinh trưởng cây non sau này. của rong và thay môi trường mới. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Sau khi lưu giữ rong được khoảng 4-5 NGHIÊN CỨU tuần, rong sụn được nuôi thích nghi với điều 2.1. Chuẩn bị nguyên liệu kiện phòng thí nghiệm. Chọn những tản rong Rong sụn (Kappaphycus alvarezii) gốc khỏe mạnh cắt bớt gốc và nuôi trong các bình lấy từ vùng trồng rong vịnh Cam Ranh, Khánh thủy tinh trong phòng thí nghiệm nuôi cấy Hòa. Tại điểm trồng rong, tản rong khỏe mạnh, mô. Môi trường nuôi rong là PES (Provasoli sạch bệnh được lựa chọn, rửa sạch và xếp vào enriched seawater) được pha bởi các hóa chất thùng xốp cách nhiệt rồi phủ bề mặt bởi khăn nguồn gốc Sigma- Trung Quốc, ngoại trừ giữ ẩm. Thùng rong được vận chuyển bằng Cyanocobalmin từ Việt Nam. Các bình nuôi đường hàng không về Hà Nội và vận chuyển rong được đặt dưới ánh sáng huỳnh quang 25- bằng ô tô về Viện Hải sản- Hải Phòng. 35 µmol photon m-2.s-1, chu kỳ sáng tối L:D= 12:12, nhiệt độ du trì ở 25±1oC bằng máy điều Tại Viện Nghiên cứu Hải sản, rong sụn hòa nhiệt độ, sục khí nhẹ 24/24 giờ. Rong sụn được lưu giữ theo mô tả Sulistiani và ctv., được nuôi thích nghi khoảng 1 tuần đến 10 (2012), cụ thể: Rong sau rửa sạch được nuôi ngày, định kỳ 3 ngày thay toàn bộ môi trường lưu trong bể kính kích thước 50x70x80cm sử nuôi. dụng môi trường f/2 với nước biển lọc qua lõi lọc 5 µm, độ mặn 31‰ tương tự như ở vùng Rong sau khi thích nghi với phòng thí trồng rong. Chế độ sục khí 24/24 giờ, duy trì nghiệm được cắt thành từng đoạn 4 – 5 cm, nhiệt độ 25-300C, chế độ chiếu sáng tự nhiên cọ sạch vật bám bằng chổi lông và nước biển (L:D=12:12). Việc nuôi lưu rong sụn thực hiện pha 0,5% chất tẩy rửa tinh dầu lô hội, Hàn Hình 1: Lưu giữ rong sụn trong phòng thí nghiệm TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 19
  3. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 Quốc trong 10 phút cho mỗi đoạn rong. Từng nhất về các yếu tố ngoại cảnh. đoạn rong này sau đó được rửa lại bằng nước - Ảnh hưởng của nồng độ agar và chất điều biển vô trùng 3 lần và ngâm trong dung dịch tiết sinh trưởng BA (6-benzyl aminopurine): povidone iodine (hàm lượng iodine 0,5% Để đánh giá ảnh hưởng của nồng độ agar w/v) nồng độ 2% trong 3 phút. Sau khi ngâm đến hiệu quả hình thành mô sẹo, ba loại nồng Povidone iodine, các đoạn rong được rửa lại độ agar (Bacto agar, Sigma- Trung Quốc) bằng nước biển vô trùng 3 lần rồi đem ủ trong là 0,8%, 1,5% và 2% được thiết kế bổ sung 48 giờ trong hỗn hợp nước biển vô trùng + 2% vào môi trường PES. Mỗi nồng độ được thử PES + 3% dung dịch kháng sinh (Penicillin G nghiệm với 30 mẫu cấy có kích thước khác 1 g, Streptomycin sulphate 2 g, Kanamycin nhau được cấy ngẫu nhiên vào các đĩa petri 1 g, Nystatin 25 mg, Neomycin 200 mg pha chứa 20 ml PES. Các đĩa petri được sắp xếp trong 100 ml nước cất). Các hóa chất kháng ngẫu nhiên trong cùng vị trí trong phòng nuôi sinh nguồn gốc hãng Sigma- Trung Quốc. cấy để đảm bảo đồng nhất về điều kiện ngoại Điều kiện ủ kháng sinh là: nhiệt độ duy trì ở cảnh. 25±1ºC, ánh sáng huỳnh quang 25-35 µmol photon m-2.s-1; chu kỳ sáng tối L:D= 12:12 Tương tự như trên, thí nghiệm đánh giá (Reddy và ctv., 2003). hiệu quả của việc bổ sung chất điều tiết sinh trưởng BA (6-benzyl aminopurine, Sigma- 2.2. Thử nghiệm cảm ứng tạo mô sẹo Trung Quốc) được tiến hành ở ba nồng độ là Quy trình cấy cảm ứng mô sẹo tuân theo 0 mg/l (đối chứng); 0,5 mg/l và 1 mg/l môi mô tả của Reddy và ctv., (2003), cụ thể: các trường PES. Số lượng mẫu cấy thử nghiệm đoạn rong sau khi ủ kháng sinh được rửa lại cho mỗi nồng độ là n=30. Nồng độ agar sử bằng nước biển vô trùng 3-4 lần rồi cắt thành dụng làm môi trường trong thí nghiệm này là từng đoạn dài 3 mm làm mẫu cấy. Các mẫu cấy 1,5%. Các đĩa petri sau cấy mẫu cũng được được lau sạch dịch nhầy tại vết cắt và cấy vào xắp xếp ngẫu nhiên ở cùng vị trí để đảm bảo môi trường thạch trong đĩa petri với số lượng đồng nhất điều kiện ngoại cảnh. Định kỳ kiểm 9-10 mẫu cấy. Các đĩa mẫu cấy được để ngẫu tra sự hình thành mô sẹo và thống kê số mẫu nhiên trong cùng khu vực ở phòng thí nghiệm hình thành mô sẹo ở từng thí nghiệm. kín, duy trì thông khí bằng điều hòa nhiệt độ Xử lý số liệu: Việc phân tích so sánh giữa với nhiệt độ phòng khoảng 25±1ºC, chiếu sáng các nghiệm thức được thực hiện bằng phân bằng đèn huỳnh quang với cường độ 5 µmol tích χ (Chi-square) với α = 0,05 và thống kê 2 photon m-2.s-1, chế độ chiếu sáng 12:12. mô tả. Tỷ lệ mẫu cảm ứng mô sẹo được tính - Ảnh hưởng của kích cỡ mẫu cấy: theo công thức: M= tổng số mẫu hình thành Để đánh giá ảnh hưởng của kích cỡ mẫu mô sẹo/tổng số mẫu cấy. cấy đến việc hình thành mô sẹo, tổng cộng 279 III. KẾT QUẢ mẫu ở các kích cỡ đường kính khác nhau (từ 3.1. Ảnh hưởng của kích cỡ mẫu cấy 1,5-3,5 mm) được cấy ngẫu nhiên vào các đĩa petri khác nhau với mỗi đĩa chứa 20 ml PES Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác + 1,5% Bacto agar (Reddy và ctv., 2003). Các biệt về tỷ lệ phát sinh mô sẹo giữa hai loại mẫu mẫu cấy được đánh số thứ tự và theo dõi sự có kích cỡ khác nhau. Thử nghiệm cảm ứng phát triển mô sẹo hàng ngày dưới kính giải 279 mẫu cho thấy sau 14 ngày có 126 mẫu phẫu với độ phóng đại tối đa 4,5 lần. Các đĩa hình thành mô sẹo chiếm 45,1%. Đối với mẫu petri đựng mẫu cấy được đặt ngẫu nhiên trong có đường kính >2 mm, tỷ lệ hình thành mô sẹo cùng một vị trí thí nghiệm để đảm bảo đồng là 51,4% (75/146). Tỷ lệ này ở mẫu có đường kính
  4. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 tích χ =4,71>3,841 (α=0,05, df=1) chỉ ra sự 2 Việc phát sinh mô sẹo ở rong sụn xảy ra khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ mô sẹo khá nhanh và tăng dần theo thời gian. Kết quả hình thành giữa hai loại đường kính mẫu cấy. quan sát cho thấy sau 5 ngày cấy mẫu, tỷ lệ Thời gian cảm ứng mô sẹo Hình 2: Tỷ lệ mô sẹo hình thành sau thời gian cấy mẫu (n= 279) A B C D Hình 3: Hình chụp mẫu cấy có mô sẹo dạng sợi (A), mô sẹo đặc (B), mẫu bị rỉ nước (C) và mẫu bị hoại tử (D) TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 21
  5. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 hình thành mô sẹo dạng sợi đạt 14,17%, sau Việc bổ sung thêm chất điều tiết sinh 9 ngày tỷ lệ này tăng lên 22,22%, sau 11 ngày trưởng BA không kích thích sự hình thành và đạt 24,73% và sau 14 ngày là 45,16% (Hình phát triển của mô sẹo. Kết quả nghiên cứu cho 2). Sau 14 ngày, không có mô sẹo được phát thấy lô đối chứng (không bổ sung BA) cho tỷ hiện thêm. Các mẫu cấy không hình thành mô lệ hình thành mô sẹo đạt 55%, cao hơn so với sẹo sẽ có hiện tượng rỉ nước trên bề mặt vết lô bổ sung 0,5 mg/l BA (đạt 45%) và tương cấy, mất màu tự nhiên và hoại tử hoàn toàn sau đương với lô bổ sung 1 mg/l BA (đạt 57%) (Hình 4C). Kết quả phân tích χ (α=0,05, df=1) 2 25-30 ngày (Hình 2). cho thấy giá trị χ dao động từ 0,05 đến 1,00 2 Quan sát quá trình hình thành mô sẹo ghi nhận được có hai dạng mô sẹo xuất hiện là >>3,841 (α=0,05, Bảng 2: Kết quả phân tích χ đánh giá sai khác 2 2 df=1)). về tỷ lệ mô sẹo giữa các nồng độ BA thí nghiệm 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ agar và chất Lô thí nghiệm Đối chứng Bổ sung điều tiết sinh trưởng (không bổ sung) 0,5%BA Kết quả nghiên cứu cũng phản ánh sự Bổ sung 0,58 khác biệt về tỷ lệ mô sẹo hình thành giữa các 0,50%BA nồng độ agar thí nghiệm. Nồng độ agar 1,5% Bổ sung 0,057 1,00 cho tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt 60% cao nhất 1%BA trong ba nồng độ thử nghiệm. Nồng độ agar 2% cho tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp nhất (20%) (Hình 4B). Ở nồng độ agar 0,8% và 1% IV. THẢO LUẬN cho tỷ lệ hình thành mô sẹo tương đương nhau Nuôi cấy mô rong sụn là lĩnh vực nghiên (40%). Kết quả phân tích χ (α=0,05, df=1) chỉ 2 cứu trên đối tượng thực vật bậc thấp yêu cầu ra sự sai khác có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ hình quy trình và kỹ thuật hoàn toàn khác so với thành mô sẹo giữa nồng độ agar 1,5% với các thực vật bậc cao. Kết quả nghiên cứu của nồng độ agar thử nghiệm (Bảng 1). chúng tôi đã tạo ra được mô sẹo trong phòng thí nghiệm mặc dù mô sẹo hình thành chưa Bảng 1: Kết quả phân tích giá trị χ đánh giá 2 phát triển mạnh, chưa có khả năng tái sinh sai khác về tỷ lệ mô sẹo giữa các nồng độ agar thành cây mới. Với tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt thí nghiệm tới 45-60% không cao bằng các nghiên cứu đã công bố trên thế giới ví dụ như Reddy và Nồng độ agar 2% 1,5% 1% ctv., (2003) ghi nhận hơn 80% mẫu cấy hình 1,5% 12,00* thành mô sẹo, Yeong và ctv., (2014) ghi nhận 1% 2,94 3,38 tỷ lệ hình thành mô sẹo đạt 68,57%. Nguyên 0,8% 4,00* 2,40 0,09 nhân dẫn đến tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp như nghiên cứu này có thể do hóa chất nghiên cứu * Khác biệt có ý nghĩa thống kê sử dụng có nguồn gốc từ Trung Quốc nên chất lượng và độ tinh khiết không cao bằng hóa chất nguồn gốc ở các nước tư bản phát triển. Nhận định này đã được chúng tôi kiểm chứng gần đây nhưng chưa công bố. 22 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
  6. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 Ở rong đỏ, mô sẹo phát sinh thường là mô sẹo dạng sợi. Mô sẹo đặc hiếm khi xuất hiện (Reddy và ctv., 2003). Điều này tương tự như kết quả ghi nhận được trong nghiên cứu này với một mẫu duy nhất trong tổng số hàng trăm mẫu mô sẹo quan sát được. Việc nghiên cứu phát sinh mô sẹo dạng sợi ở rong sụn đã được nhiều tác giả công bố trên thế giới (xem Dawes 1991; 1993; Kumar và ctv., 2007; Sulistiani và ctv., 2012). Tuy nhiên, với thời A điểm phát sinh mô sẹo có thể xảy ra sau 5 ngày cấy mẫu ở trong nghiên cứu này đều sớm hơn kết quả đã ghi nhận ở các nghiên cứu khác. Trong nghiên cứu của Reddy và ctv., (2003); Hayashi và ctv., (2008) và Sulistiani và ctv., (2012), thời điểm xuất hiện dấu hiệu hình thành mô sẹo ở rong sụn là sau 10-14 ngày cấy mẫu. Tuy nhiên, nghiên cứu của Yeong và ctv., (2014) thời điểm phát sinh mô sẹo xuất B hiện sau 6 ngày cấy mẫu khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của chúng tôi cùng trên đối tượng rong sụn. Tạo mẫu cấy vô trùng được coi là điều kiện quan trọng để phát sinh mô sẹo trong nuôi cấy mô rong biển (Polne-Fuller và ctv., 1987; Tatewaki, 1989;). Việc xử lý vô trùng mẫu cấy trong hỗn hợp kháng sinh theo Reddy và ctv., (2003) thu được kết quả là 100% mẫu cấy không nhiễm nấm và khuẩn. Tỷ lệ C này trong nghiên cứu của Sulistiani và ctv., (2012) đạt 64,5%, Reddy và ctv., (2003) đạt Hình 4: Biến động tỷ lệ hình thành mô sẹo 90 – 95%. Trên các đối tượng rong khác như theo đường kính mẫu cấy (A) (≤2 mm có Gracilaria corticata, Sargassum tenerrimum, n=133 và >2 mm có n=146); nồng độ agar làm Turbinaria conoides tỷ lệ vô trùng đạt 60%, môi trường (B) và bổ sung chất điều tiết sinh Hypnea musciformis chỉ đạt 10% (Kumar và trưởng (C) (n=30 ở mỗi nghiệm thức) ctv., 2007). Việc tạo được mẫu cấy vô trùng ở rong tử. Ngược lại, nếu sử dụng hóa chất ở nồng biển khó hơn so với thực vật bậc cao do rong độ thấp và thời gian ngắn hơn lại không hiệu biển không có lớp bảo vệ bề mặt, các hóa quả với tỷ lệ nhiễm khuẩn cao. Như vậy, tỷ lệ chất khử trùng rất dễ làm tổn thương các mô 100% mẫu không tạp nhiễm khuẩn, nấm phần tế bào (Polne-Fuller, 1987; Baweja và ctv., nào phản ánh việc sử dụng quá liều kháng sinh 2009). Thực tiễn thí nghiệm cho thấy, xử lý của nghiên cứu dẫn đến tỷ lệ mẫu hình thành rong với hóa chất ở nồng độ cao trong thời mô sẹo thấp. Ngoài ra, nghiên cứu xác định gian dài sẽ gây ra hiện tượng mẫu cấy hoại mẫu cấy có đường kính lớn hơn 2 mm cho TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 23
  7. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 tỷ lệ hình thành mô sẹo cao hơn so với mẫu thí nghiệm quan trọng hơn việc bổ sung chất có đường kính nhỏ hơn. Có thể mẫu có kích kích thích sinh trưởng bởi vì khi rong sụn đã thước nhỏ thường là nhánh mới sinh trong quá thích nghi với môi trường thí nghiệm thì đã tự trình thích nghi ở phòng thí nghiệm nên các tế tổng hợp đủ chất kích thích sinh trưởng cần bào còn non, lớp vỏ mẫu cấy mỏng dẫn đến thiết để phát sinh mô sẹo một cách tự nhiên. khả năng ngấm chất kháng sinh nhiều gây ức Việc bổ sung thêm chất điều tiết sinh trưởng chế sinh trưởng. Điều này đã được Reddy và có thể làm mất cân bằng auxins và cytokinins ctv., (2003) và Sulistiani và ctv., (2012) làm hoặc bị thừa, không cần thiết. sáng tỏ trong nghiên cứu của mình. Như vậy, V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT kích thước mẫu cấy của mẫu cấy có ảnh hưởng Kết luận đến tỷ lệ cảm ứng mô sẹo trong nuôi cấy mô. Việc nghiên cứu phát sinh mô sẹo ở rong Kết quả thử nghiệm chỉ ra rằng agar 1,5% sụn làm nguyên liệu tái sinh thành cây giống ở cho hiệu quả cảm ứng tạo mô sẹo cao nhất với rong sụn đã bước đầu được thử nghiệm thành 59,26% số mẫu cấy hình thành mô sẹo dạng công với tỷ lệ mô sẹo đạt được lên tới 45,16% sợi sau 14 ngày nuôi cấy. Các nồng độ agar sau 14 ngày cảm ứng. Việc hình thành mô sẹo còn lại cho tỷ lệ cảm ứng mô sẹo từ 22-40%. có thể được bắt đầu từ sau 5 ngày cấy và chỉ Kết quả này tương tự nghiên cứu của Reddy kéo dài được khoảng 10 ngày. và ctv., (2003), với nồng độ agar 1,5% cho 82% mẫu cấy hình thành mô sẹo sau 2 tuần, Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra quá trình trong khi nồng độ 0,8% tỷ lệ này thấp hơn phát sinh mô sẹo phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhiều (Reddy và ctv., 2003). Ở nồng độ agar như kích thước mẫu cấy, nồng độ agar sử dụng 2%, tỷ lệ hình thành mô sẹo thấp hơn hẳn có làm môi trường. Bước đầu xác định việc hàm thể do môi trường có độ cứng cao, giữ lại dinh lượng agar làm mô trường cấy mẫu thích hợp dưỡng và mẫu rong không đủ khả năng thẩm là 1,5%; mẫu cấy có đường kính > 2 mm sẽ thấu dinh dưỡng từ thạch. Điều này chứng tỏ cho hiệu quả phát sinh mô sẹo cao. Ngoài ra, rằng, tính chất vật lý của môi trường mà cụ thể nuôi thích nghi rong trong phòng thí nghiệm là độ cứng của thạch có ảnh hưởng đến việc trước khi tạo mô sẹo là điều kiện bắt buộc thực hình thành mô sẹo. hiện. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra, bổ sung Đề xuất chất điều tiết sinh trưởng BA (6 - benzyl Mặc dù đã tạo được mô sẹo trong phòng aminopurine) không làm tăng tỷ lệ hình thành thí nghiệm, tuy nhiên đây chỉ là kết quả bước mô sẹo ở rong sụn. Điều này tương tự nhận đầu. Cần phải làm thêm nhiều lần thí nghiệm định của Reddy và ctv., (2003) nhưng trái với để khẳng định được quy trình ổn định và hiệu nhận định của các tác giả khác, rằng việc bổ quả. Ngoài ra, tốc độ phát triển của mô sẹo còn sung chất điều tiết sinh trưởng làm tăng tỷ thấp và hiện tượng chết trắng vẫn xảy ra trên lệ cảm ứng mô sẹo và sự phát triển của mô nhiều mẫu cấy. Cần phải nghiên cứu xác định sẹo rong biển (Dawes và Koch, 1991; Huang được nguyên nhân và phương án khắc phục. và Fujita, 1997; Yokoya và Handro, 2004; Việc xử lý vô trùng mẫu cấy bằng hỗn Yokoya và ctv., 2004; Munoz và ctv., 2006; hợp kháng sinh bước đầu cho hiệu quả cao Sulistiani và ctv., 2012). Theo Reddy và ctv., nhưng mất nhiều thời gian và chi phí cao. Cần (2003), việc thích nghi rong sụn trong phòng nghiên cứu thử nghiệm một số phương pháp 24 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
  8. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 vô trùng khác như các loại hóa chất khử trùng Polne-Fuller, M., Gibor, A., 1987. Calluses and nhanh như cồn, formol nồng độ thấp… callus-like growth in seaweeds: induction and culture. Hydrobiologia, 151/152:131– TÀI LIỆU THAM KHẢO 138. Tài liệu tiếng Việt Reddy, C.R.K., Kumar, G.R.K., Siddhanta, A.K., Đào Duy Thu, Nguyễn Văn Nguyên và Trần Mai Tewari, A., Eswaran, K., 2003. In vitro Đức, 2014. Hiện trạng nghề trồng rong sụn somatic embryogensis and regeneration of (Kappaphycus alvarezii, Doty) ở Việt Nam. somatic embryos from pigmented callues Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông of Kappaphycus alvarezii (Doty) Doty thôn, tháng 9/2014:221-228. (Rhodophyta, Gigartinales). Journal of Tài liệu tiếng Anh Phycology, 39(3): 610-616. Baweja, B., Sahoo, D., García-Jiménez, P., Reddy, C., Jha, B., Fujita, Y., Ohno, M., 2008. Robaina, R.R., 2009. Seaweed tissue culture Seaweed micropropagation techniques and as applied to biotechnology: Problems, their potentials: an overview. Journal of achievements and prospects. Phycological Applied Phycology, 20(5): 609-617. Research, 57: 45 - 58. Reddy, C.R.K., Gupta, V., Jha, B., 2010. Dawes, C.J., Koch, E.W., 1991. Branch, Developments in biotechnology of red microprapagule and tissue culture of the algae. In Red algae in the genomic age. J. red alga Eucheuma denticulatum and Seckbach & D.J. Chapman (Eds.), Springer Kappaphycus alvarezii farmed in the Netherlands. 13: 307-341. Philippines. Journal of Applied Phycology, Sulistiani, E., Soelistyowati, D.T., Alimuddin 3: 247–257 & Yani, S.A., 2012. Callus induction and Dawes, C.J., Trono, G.C., Lluisma, A.O., filaments regeneration from callus of cottonii 1993. Clonal propagation of Eucheuma seaweed (Doty) collected from Natuna denticulatum and Kappaphycus alvarezii for Islands, Riau Islands Province. Biotropia, 19 Philippines seaweed farms. Hydrobiologia, (2): 103 -114. 260/261: 379–83 Tatewaki, M., 1989. The simple method of Huang, W., Fujita, Y., 1997. Callus induction and seaweed axenic culture. The Korean Journal thallus regeneration in some species of red of Phycology, 4(2): 183-189. algae. Phycological Research. 45:105–11. Yeong, H.Y., Phang, S.M., Reddy, C.R.K., Kumar, G.R., Reddy, C.R.K., Jha, B., 2007. Callus Khalid, N., 2014. Production of clonal induction and thallus regeneration from planting materials from Gracilaria changii callus of phycocolloid yielding seaweeds and Kappaphycus alvarezii through tissue from the Indian coast. Journal of Applied culture and culture of G. changii explants Phycology, 19:15–25 in airlift photobioreactor. Journal of Applied Muñoz, J., Cahue-López, A.C., Patiño, R., Robledo, Phycology, 26: 729-746. D., 2006. Use of plant growth regulators in Yokoya, N.S., West, J.A., Luchi, A.E., 2004. micropropagation of Kappaphycus alvarezii Effect of plant growth regulator on callus (Doty) in airlift bioreactors. Journal of formation, growth and regeneration in axenic Applied Phycology, 18:209 – 218. tissue culture of Gracilaria tenuistipitata and Gracilaria perplexa (Gracilariales, Rhodophyta). Phycological Research, 52: 244-54. TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015 25
  9. VIEÄN NGHIEÂN CÖÙU NUOÂI TROÀNG THUÛY SAÛN 2 TISSUE CULTURE OF COTTONI SEAWEED (Kappaphycus alvarezii, Doty): PRELIMINARY RESULTS OF IN VITRO CALLUS INDUCTION Dao Duy Thu1*, Pham Thi Mat1, Vu Thi Hoai1, Nguyen Van Nguyen1 ABSTRACT The callus is an essential material to produce propagules in seaweed tissue culture technology. The study presents preliminary results of experimental callus induction in Kappaphycus alvarezii using culture medium PES at salinity of 28‰; aseptic culture condition with a mixture of antibiotics; and callus induction in temperature of 25°C (±1°C), cool white fluorescent irradiance of 5 μmol photons m−2 s−1 and light regime with light:dark equals 12:12. The results showed that all experimental explants were not contaminated. The primary result showed that callus induction rate was 45.16% and earliest callus could appear after 5 day cultivation. The callus induction depended strongly on size of explants, agar concentration in medium and not depend on the plant growth regulator addition. Keywords: Cottoni seaweed, Kappaphycus alvarezii, callus induction, Vietnam Người phản biện: ThS. Võ Minh Sơn Ngày nhận bài: 29/5/2015 Ngày thông qua phản biện: 03/8/2015 Ngày duyệt đăng: 07/8/2015 1 Research Institute for Marine Fisheries * Email: ddthu@rimf.org.vn 26 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015
nguon tai.lieu . vn