Xem mẫu

  1. NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP NGÀNH MÍA ĐƯỜNG ThS. NCV. Ma Ngọc Ngà Viện Kinh tế Việt Nam Tóm tắt Sau 30 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về một số mặt hàng nông sản như: gạo, cao su, cà phê, hạt điều và thủy sản... Nông nghiệp Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế của mình là một ngành kinh tế cung cấp sinh kế cho 9,53 triệu hộ dân nông thôn và 68,2% dân số (60 triệu người), đóng góp 18%-22% GDP cho nền kinh tế và 23-35% giá trị xuất khẩu với mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài cùng cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực1. Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng với việc tham gia đàm phán, ký kết thêm nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và liên khu vực. Năm 2015, Việt Nam đã ký FTA với Hàn Quốc và Liên minh kinh tế Á-Âu, kết thúc đàm phán FTA với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Bối cảnh hội nhập sâu rộng này đã tạo thêm nhiều cơ hội và cả thách thức cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập, hàng nông sản Việt Nam có cơ hội tiếp cận nhiều thị trường mới, được hưởng các ưu đãi về thuế quan, nhưng bên cạnh đó cũng phải chịu sức ép cạnh tranh ngày càng lớn ở cả thị trường trong và ngoài nước. Hội nhập kinh tế là vấn đề tất yếu. Để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hội nhập, các ngành kinh tế và các doanh nghiệp phải có được khả năng cạnh tranh nhất định. Trong tất cả các ngành nông nghiệp của Việt Nam thì có lẽ mía đường là một trong những ngành ít có khả năng cạnh tranh nhất, đặc biệt trong bối cảnh Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) chuẩn bị bước vào lộ trình thực hiện. Vì vậy, mục đích của bài viết dưới đây trước hết là nhằm xem xét tổng thể về thực trạng, triển vọng của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, tiếp theo sẽ phân tích cụ thể về những điểm mạnh, yếu, cơ hội và triển vọng đối với ngành mía đường - một trong những ngành phải đối mặt với nhiều thách thức nhất trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay và trong tương lai. 1 Trang Trần, “Hành trang cho nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Tài chính, 3/2015. 667
  2. 1. Ngành nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Một trong những đóng góp quan trọng của khu vực nông nghiệp đó là xuất khẩu nông sản tăng liên tục trong nhiều năm qua, đặc biệt kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (2007). Xuất khẩu nông sản đã vượt ngưỡng 20 tỷ USD, và khu vực nông nghiệp được đánh giá là tạo ra thặng dư thương mại, đem lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để nhập khẩu công nghệ và trang thiết bị phục vụ công nghiệp hóa2. Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản giai đoạn 2007-2014 30 24.96 25 22.91 22.57 21.78 20 16.51 15 14.22 13.07 Tỷ USD 11.2 10 5 0 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trong bối cảnh chung của nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn của suy thoái kinh tế, nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất có thặng dư xuất khẩu giai đoạn 2010 - 2013. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp đạt 3,3%, vượt mục tiêu Chính phủ đề ra và tăng 11,2% so với năm 2013, tiếp tục là lĩnh vực tạo ra giá trị thặng dư cao với 9,5 tỷ USD. Trong đó, có 10 mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD3. Đó là những kết quả khả quan đánh dấu sự phục 2 Phạm Quang Diệu (2015), “Tăng trưởng nông nghiệp 30 năm đổi mới - Sự cần thiết cho một tư duy mới về đất lúa cho xuất khẩu gạo và an ninh lương thực”, Kỷ yếu Hội thảo “Tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt Nam (1986-2015)”, Viện Kinh tế Việt Nam, tháng 11/2015. 3 “Ngành nông nghiệp Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế”, http://www.omard.gov.vn/site//vi-VN/50/ 15761/10115/Nga%CC%80nh-Nong-nghie%CC%A3p-Vie%CC%A3t-Nam-tang-cuo%CC%80ng- ho%CC%A3i-nha%CC%A3p-quo%CC%81c-te%CC%81.aspx, truy cập ngày 20/12/2015. 668
  3. hồi và tăng trưởng trở lại của nông nghiệp, đồng thời góp phần củng cố sức mạnh cho ngành nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung vượt qua những thách thức có thể gặp phải trong năm 2015 và những năm tiếp theo. Cơ hội và thách thức trong hội nhập Trước bối cảnh hội nhập sâu rộng trong năm 2015, đặc biệt là sau khi TPP được ký kết, nông nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, đồng thời cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức nhất định. Quan hệ xuất nhập khẩu với các nước TPP đóng vai trò quan trọng đối với thương mại nông sản Việt Nam. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước thành viên TPP đều tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây, trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng nhanh hơn. Điều đó chứng minh rằng Việt Nam là quốc gia có lợi thế tương đối về nông nghiệp so với hầu hết các quốc gia thành viên. Biểu đồ 2. Kim ngạch xuất khẩu sang các nước TPP trong tổng kim ngạch một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam Đơn vị tính: Tỷ USD 30 25 20 15 Các nước còn lại TPP 10 5 0 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Nguồn: Đặng Kim Khôi, tính toán từ số liệu Tổng cục Hải quan (2015) Trong các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam, gỗ (và các sản phẩm về gỗ) và tôm là 2 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất (hơn 5 tỷ USD), nhóm hàng xuất khẩu lớn thứ 2 là cá tra và các cây công nghiệp (cà phê, điều, tiêu, cao su). Mỹ và Nhật Bản là 2 đối tác lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu mặt hàng gỗ, thủy sản và cây công nghiệp, Malaysia là đối tác lớn nhập khẩu gạo 669
  4. và cao su của Việt Nam. Như vậy, có thể thấy rằng những năm gần đây, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang TPP mới chỉ tập trung vào một số mặt hàng và một số ít thị trường lớn. Vì vậy, TPP sẽ mở ra cơ hội cho nông nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng xuất khẩu và khai thác các thị trường tiềm năng, đặc biệt là một số thị trường lớn như Canada, Mexico hay Australia. Đây cũng là cơ hội giúp Việt Nam cân bằng lại quan hệ thương mại với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định. Ngoài ra, tham gia TPP cũng là cơ hội để Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định này với 11 nước thành viên, rõ ràng trong số đó có những nước không có lợi thế về nông nghiệp như Singapore hay Brunei, cộng với việc bị ép giảm hàng rào bảo hộ nông nghiệp thì có thể họ sẽ chuyển nguồn đầu tư sang Việt Nam. Khi có đầu tư nước ngoài, bên cạnh việc tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, điều quan trọng nhất là nền nông nghiệp Việt Nam sẽ hấp thụ được khoa học kỹ thuật mới, thay đổi được phương thức sản xuất truyền thống kém hiệu quả. Gia nhập TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn và nâng cao giá trị gia tăng cho Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh những cơ hội và những triển vọng như trên, nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập TPP cũng phải đối mặt với không ít những thách thức. Thách thức rõ nét nhất đối với nông nghiệp Việt Nam là phải chịu sự cạnh tranh gay gắt khi những quy định về cắt giảm thuế suất của TPP được thực hiện. Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ do sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, thiếu thông tin nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường thế giới, thị trường nhập khẩu và thị trường trong nước. Bên cạnh đó, Việt Nam thiếu vốn và công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ kỹ thuật thông minh nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu và kiểm soát dịch bệnh, hạn chế trình độ lao động và nguồn lực cùng việc vận dụng công cụ hữu ích trong thương mại quốc tế nhằm tái lập công bằng thương mại và giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, môi trường chính sách chưa hoàn thiện, đầy đủ, chưa được thực hiện đồng bộ hóa và thiếu biện pháp chế tài, tồn tại hạn chế trong thực thi quy định. Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ, ngoài TPP, Việt Nam còn ký kết những cam kết thương mại khác như FTA Việt Nam - Hàn Quốc, FTA Cộng đồng kinh tế ASEAN... Khi những cam kết thương mại này chính thức bước vào lộ trình thực hiện, nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức chưa từng có. Thực tế sản xuất với quy mô nhỏ lẻ, manh mún; tình trạng chuyển dịch cơ cấu 670
  5. nông nghiệp còn mang tính tự phát, sản xuất chủ yếu theo tín hiệu thị trường ngắn hạn cộng thêm trình độ sản xuất công nghiệp chế biến còn thấp so với các nước cùng với các yếu tố tác động khách quan như khí hậu, dịch bệnh…Đây sẽ là những thách thức đặt ra cho toàn ngành nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng. 2. Ngành mía đường trước ngưỡng cửa hội nhập Thực trạng nền kinh tế Việt Nam cho thấy có khá nhiều ngành dù có tiềm năng lớn nhưng khả năng cạnh tranh lại rất yếu. Mía đường là một trong số những ngành như vậy. 2.1. Thực trạng ngành mía đường Việt Nam Với diện tích mía khoảng hơn 300 nghìn ha, Việt Nam hiện là một trong 10 nước có diện tích trồng mía lớn nhất thế giới. Những năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển ngành mía đường và hiện giá đường của Việt Nam đang ở mức cao gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi so với nhiều nước trên thế giới. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này được rất nhiều các nghiên cứu chỉ ra là do: sản xuất nhỏ, manh mún, thiếu vùng nguyên liệu, năng suất mía thấp, công nghệ sản xuất lạc hậu… dẫn đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao. Lẽ ra, người nông dân phải được hưởng lợi từ chính sách, mức giá này. Tuy nhiên, trên thực tế, đa phần người trồng mía rất khó sống được bằng nghề. Vì vậy, hiện nay, ở nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long - vùng trồng mía lớn nhất Việt Nam, người nông dân đã bỏ cây mía để chuyển sang các loại cây trồng khác. Khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam rất yếu do từ trước đến nay Nhà nước vẫn thực hiện chính sách bảo hộ. Từ khi ngành mía đường ra đời cho đến nay, cả các nhà máy đường và nông dân đều ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước. Nhưng có một thực tế là chính sách bảo hộ này không thể tiếp tục được lâu dài bởi theo cam kết với ASEAN, đến năm 2018 Việt Nam phải xóa bỏ bảo hộ với mặt hàng đường và theo các hiệp định thương mại tự do khác, đặc biệt là TPP thì mức độ hội nhập kinh tế sẽ ngày càng sâu rộng. Khi Việt Nam xóa bảo hộ tất yếu sẽ đặt người nông dân và doanh nghiệp mía đường trước áp lực cạnh tranh, buộc họ phải vận động để tồn tại. Bên cạnh đó, khi tham gia TPP, với việc tận dụng thuế suất xuất khẩu 0% từ 11 quốc gia có nền công nghiệp phát triển, ngành mía đường Việt Nam có cơ hội nhập khẩu máy móc hiện đại phục vụ chế biến thay cho công nghệ lạc hậu lỗi thời như hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là sản phẩm đường của các nước thành viên TPP sẽ có mặt 671
  6. ở thị trường Việt Nam, trong đó có Australia - nước xuất khẩu đường đứng thứ 3 thế giới. Nếu không thay đổi sớm, ngành đường sẽ có nguy cơ “thua ngay trên sân nhà”. Bởi trong 12 nước thành viên TPP, giá thành sản xuất đường Việt Nam hiện nay cao hơn nhiều so với 11 nước còn lại. Cùng với áp lực đến từ các thành viên TPP, tới đây khi Hiệp định mậu dịch hàng hóa ASEAN có hiệu lực, hàng rào hạn ngạch nhập khẩu đường trong các nước Đông Nam Á sẽ được dỡ bỏ, ngành đường còn phải cạnh tranh trực tiếp với đường Thái Lan, vốn được người tiêu dùng Việt ưa chuộng từ nhiều năm nay. Do giá thành và giá nội địa cao nên hàng năm có một lượng lớn đường nhập lậu vào Việt Nam từ Thái Lan qua cửa khẩu biên giới với Campuchia. Tuy không có tính toán đáng tin cậy, nhưng con số này được một số người trong ngành cho rằng vào khoảng 300-400 ngàn tấn/năm. Theo Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngành mía đường đang ở tình trạng sản xuất cung vượt cầu, nếu không nâng cao khả năng cạnh tranh, Việt Nam khó có thể cạnh tranh với sản phẩm của các nước có lợi thế trong thời gian tới, đặc biệt khi thời điểm cắt giảm thuế theo các cam kết hội nhập ngày càng đến gần. Bởi vậy, giá thành sản phẩm phải bằng hoặc thấp hơn; đồng thời phải cạnh tranh từ các khâu nguyên liệu, trồng trọt, giống… Đồng thời, quá trình hội nhập kinh tế sẽ tạo sự cạnh tranh rất quyết liệt cho các doanh nghiệp không những trên thị trường thế giới mà còn ngay tại trong nước. Tuy nhiên, hiện nay một số nhà máy đường chưa thực sự tìm hiểu, đánh giá về các thách thức và có chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập. Thêm vào đó, quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ chưa được các doanh nghiệp quan tâm để tạo nên mối quan hệ hữu cơ gắn bó. Ngoài một số doanh nghiệp có ký kết hợp đồng với các hộ tiêu thụ lớn, còn lại đều phụ thuộc vào sức mua của thị trường. Việc xuất, nhập khẩu đường vẫn theo cơ chế “xin - cho” nên hạn chế sự năng động và tạo ra sự không công bằng giữa các doanh nghiệp, vấn đề lợi ích nhóm cũng là một trong những rào cản đáng kể ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành. Ngoài ra, đường lậu hoành hành với số lượng lớn nhưng không có cơ sở pháp lý thiết thực chống việc kinh doanh đường nhập lậu cũng là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của ngành. Trong bối cảnh thực hiện tự do hóa thương mại, ngành mía đường Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức. 672
  7. 2.2. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với ngành mía đường Điểm mạnh: Ngành mía đường Việt Nam hiện có vùng nguyên liệu với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng phù hợp cho canh tác cây mía. Ngoài ra, Nhà nước cũng có quy hoạch vùng trồng mía tương đối rõ ràng. Đây là điểm mạnh, đồng thời cũng là tiềm năng để có thể phát triển ngành mía đường. Mía đường là một trong những ngành có khá nhiều doanh nghiệp hoạt động, hiện có khoảng trên dưới 40 doanh nghiệp hoạt động trong ngành. Ngoài ra, mía đường cũng là ngành được hưởng chính sách bảo hộ nhiều nhất từ phía Nhà nước. Sở dĩ ngành mía đường Việt Nam có được chỗ đứng an toàn ở thị trường nội địa mà không gặp sự cạnh tranh khốc liệt của các quốc gia xuất khẩu đường lớn trên thế giới là nhờ chính sách và các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước. Đây là một điểm mạnh, đồng thời cũng là một rào cản đối với sự phát triển của ngành này. Điểm yếu: Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khó xây dựng mô hình “cánh đồng mẫu lớn” trong canh tác mía nên năng suất mía thấp, dẫn đến giá thành cao nhưng chất lượng sản phẩm lại kém hơn so với nhiều nước khác. Nông dân với kĩ thuật canh tác lạc hậu, không tự sản xuất được mía giống, phụ thuộc đầu vào (hiện nay 95% giống mía được nhập từ Đài Loan); tỷ lệ cơ giới hóa thấp, hiện nay tỷ lệ này ở Việt Nam chỉ khoảng 10-20%, chủ yếu ở khâu làm đất, trong khi đó tỷ lệ cơ giới hóa trong canh tác cây mía ở các nước như Brazil hay Thái Lan đạt khoảng 80-90%. Doanh nghiệp mía đường của Việt Nam hiện nay so với những năm trước đã có những bước cải thiện đáng kể về kĩ thuật, công nghệ sản xuất, tuy nhiên vẫn tương đối lạc hậu, các nhà máy chế biến chủ yếu có công suất thấp. Ngoài ra, một điểm yếu nữa của ngành đó là thiếu sự liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi, đặc biệt là giữa nông dân và doanh nghiệp - 2 tác nhân chính của chuỗi giá trị ngành mía đường. Nhà nước vẫn thực hiện chính sách bảo hộ bằng thuế quan đối với ngành này trong nhiều năm qua làm cho khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam trở nên rất yếu, thậm chí có thể nói là không có khả năng cạnh tranh. Cơ hội: Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng mở ra cơ hội cho ngành mía đường đổi mới khoa học kĩ thuật, tiếp thu công nghệ hiện đại, học tập được kinh nghiệm phát triển của các nước tiên tiến, đặc biệt khi thực hiện TPP, ngành mía đường Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm của Australia - nước sản xuất và xuất khẩu đường thứ 3 thế giới. Ngoài ra, đây cũng là cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước thành viên TPP bởi Ấn Độ và Thái Lan là 2 đối thủ cạnh tranh trực tiếp không thuộc TPP nên giảm được phần nào sự cạnh tranh; bên cạnh đó thị trường nội địa vẫn còn nhiều tiềm năng để có thể khai thác. 673
  8. Thách thức: Tham gia TPP, ngành mía đường Việt Nam sẽ phải cạnh tranh trực tiếp với đường nhập khẩu từ Australia. Bên cạnh đó, trong cam kết thương mại với Cộng đồng Kinh tế ASEAN, ngành đường Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với Thái Lan. Theo dự kiến, cuối năm 2015, khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN hình thành, Việt Nam sẽ áp dụng mức thuế suất ưu đãi trong hạn ngạch 5% đối với cả đường trắng và đường thô cho các thành viên ASEAN. Ðến năm 2018, sẽ xóa bỏ bảo hộ đối với mặt hàng đường, đồng nghĩa với việc tự do hóa nhập khẩu đường của các nước ASEAN. Ngoài ra, trong bối cảnh suy thoái và bất ổn của kinh tế thế giới, ngành mía đường Việt Nam cũng sẽ phải chịu những tác động không nhỏ. Bởi vậy, trong bối cảnh ngành sản xuất mía đường trong nước còn nhiều hạn chế, bất cập, đời sống người nông dân trồng mía bấp bênh thì những áp lực hội nhập kinh tế quốc tế càng đòi hỏi ngành mía đường phải cơ cấu lại toàn diện. 2.3. Những vấn đề tồn tại đối với sự phát triển của ngành mía đường Có thể thấy rằng, ngành mía đường Việt Nam từ trước đến nay luôn tồn tại 5 vấn đề cơ bản: Thứ nhất, năng suất cây mía thấp: Ngoài các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long do có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên năng suất mía đạt khoảng 60-70 tấn/ha, còn lại hầu hết các vùng nguyên liệu mía trên cả nước chỉ đạt năng suất trung bình khoảng 40-50 tấn/ha, trong khi đó năng suất mía bình quân của thế giới là 80 tấn/ha. Thứ hai, diện tích trồng mía nhỏ lẻ, phân tán. Các vùng trồng mía lại đang phải cạnh tranh với các loại cây trồng khác do người nông dân không “mặn mà” với cây mía. Do vậy, những năm gần đây, diện tích trồng mía của cả nước có xu hướng giảm. Thứ ba, giá thành cao: Để sản xuất được 1 tấn đường, chi phí nguyên liệu của Việt Nam hiện nay cao gấp đôi chi phí của Ấn Độ hay Thái Lan (mà chi phí nguyên liệu chiếm tới 80% chi phí sản xuất), vì vậy giá thành đường của Việt Nam cũng cao hơn nhiều so với các nước. Thứ tư, các nhà máy đường hầu hết có quy mô nhỏ, công suất thấp. Cả nước hiện có khoảng 40 nhà máy đường thì phần lớn trong số đó là công suất nhỏ (chỉ khoảng 1000 tấn mía/ngày), thiết bị, máy móc, kĩ thuật lạc hậu nên chất lượng đường thấp. 674
  9. Thứ năm, chính sách bảo hộ của Nhà nước gây nên sự ỷ lại cho người nông dân và các doanh nghiệp trong ngành dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu. Bên cạnh đó, sự phân bổ không hài hòa về lợi ích giữa người nông dân và doanh nghiệp cũng là một trong những rào cản phát triển của ngành. Đây là vấn đề vô cùng nghiêm trọng trong bối cảnh hội nhập. Ngoài ra, những năm gần đây, vấn đề đường nhập lậu qua biên giới cũng hết sức bất cập. Người Việt vốn khá ưa chuộng đường Thái Lan, vì vậy, khi đường Thái Lan nhập lậu vào Việt Nam đã gây ra sức ép đáng kể đối với thị trường nội địa. 2.4. Giải pháp Để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam và để ngành này có thể tồn tại và phát triển được trong bối cảnh hội nhập thì cần phải làm những việc sau đây: Một là, phải quy hoạch lại vùng nguyên liệu của các nhà máy, tổ chức vùng nguyên liệu mía theo hướng thâm canh cao, tập trung. Hướng dẫn nông dân có định hướng lâu dài trong sản xuất, khắc phục tình trạng phát triển tự phát diện tích mía khi thấy giá cao, gây ra tình trạng thừa nguyên liệu, cần phải gắn lợi ích của người nông dân với nhà máy thông qua hợp đồng kí kết giữa 2 bên, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa 2 tác nhân này trong chuỗi giá trị ngành mía đường. Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu để nâng cao năng suất, chất lượng và giảm được chi phí vận chuyển. Hai là, các nhà máy cần đổi mới phương thức quản lý, tổ chức sản xuất, mạnh dạn đầu tư cho việc hiện đại hóa khoa học, kĩ thuật, công nghệ sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành. Ba là, Nhà nước cần xóa bỏ dần chính sách bảo hộ đối với ngành này theo một lộ trình cụ thể để người nông dân và doanh nghiệp chủ động từng bước thích nghi với những biến động của cơ chế chính sách và của thị trường. Nhờ đó, doanh nghiệp nào mạnh, có năng lực thì sẽ tồn tại và phát triển được trong hội nhập, ngược lại, doanh nghiệp yếu kém sẽ bị đào thải. Bốn là, cần phải điều tiết sản lượng đường để giữ giá trong nước, đối phó với tình trạng đường nhập lậu. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời. Về lâu dài cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan liên quan như hải quan, biên phòng, an ninh,... trong việc rà soát và ngăn chặn tình trạng nhập lậu đường trái phép qua biên giới. 675
  10. Trên đây là những nghiên cứu sơ lược ngành mía đường Việt Nam về thực trạng cũng như một số giải pháp mà tác giả đề xuất đối với ngành này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành mía đường Việt Nam thực sự là một bài toán khó đòi hỏi sự can thiệp mạnh mẽ và quyết liệt từ phía Nhà nước, đồng thời người nông dân và các doanh nghiệp cũng cần có ý thức tự nâng cao năng lực, bên cạnh đó cũng cần tích cực, chủ động hơn nữa trong hội nhập. 3. Kết luận Để có thể đứng vững trong hội nhập đòi hỏi toàn ngành nông nghiệp phải chủ động và nắm bắt được cơ hội mà hội nhập mang lại nhằm mở rộng quan hệ thương mại với các thị trường tiềm năng cũng như thu hút các làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu. Để làm được điều này, trước hết, các sản phẩm nông sản của Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã phải đa dạng, giá thành hợp lý, đồng thời cũng phải đảm bảo khâu cung ứng kịp thời cho nhà nhập khẩu… Theo đó, nhiều nhà khoa học cho rằng nông nghiệp Việt Nam cần phát triển trên cơ sở thực hiện một nền nông nghiệp đa chức năng và phải đầu tư nhiều hơn trong nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư vào nông nghiệp cũng như nâng cao năng lực cho nông dân để họ có thể tự tổ chức sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng. Xin mượn lời của người đứng đầu ngành nông nghiệp Việt Nam - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát để thay lời kết cho bài viết này: “Giải pháp quan trọng nhất để tiếp tục duy trì tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong năm 2015 và những năm tiếp theo đó là thực hiện toàn diện và sâu sắc hơn chủ trương về tái cơ cấu ngành. Tập trung cao độ nỗ lực vào những sản phẩm nông sản có thị trường và có lợi thế của Việt Nam...”. Tái cơ cấu nông nghiệp trước hết là chuyển từ sản phẩm có giá trị thấp và tiềm năng thị trường thấp sang sản phẩm có giá trị cao và tiềm năng thị trường cao. Đồng thời, cần tiến hành quy hoạch vùng chuyên canh và giám sát thực hiện quy hoạch đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, các mặt hàng nông sản mà Việt Nam có lợi thế. 676
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Quang Diệu (2015), “Tăng trưởng nông nghiệp 30 năm đổi mới - Sự cần thiết cho một tư duy mới về đất lúa cho xuất khẩu gạo và an ninh lương thực”, Kỷ yếu Hội thảo “Tổng kết 30 năm phát triển kinh tế Việt Nam (1986-2015)”, Viện Kinh tế Việt Nam, tháng 11/2015. 2. Đặng Kim Khôi (2015), “Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP): Cơ hội và triển vọng đối với nông nghiệp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Dự báo Kinh tế - xã hội phục vụ lập kế hoạch trung hạn trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tháng 12/2015. 3. “Ngành nông nghiệp Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế”, http://www.omard.gov.vn/site//vi-VN/50/15761/10115/Nga%CC%80nh- Nong-nghie%CC%A3p-Vie%CC%A3t-Nam-tang-cuo%CC%80ng- ho%CC%A3i-nha%CC%A3p-quo%CC%81c-te%CC%81.aspx, truy cập ngày 20/12/2015. 4. Lưu Thanh Đức Hải (2009), “Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh mía đường ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Khoa học, Đại học Cần Thơ, số tháng 12/2009. 5. Báo cáo Ngành mía đường Việt Nam năm 2012-2013, Ngân hàng Sacombank 6. Báo cáo Ngành mía đường Việt Nam, Ngân hàng Vietinbank (2014) 7. Trang Trần, “Hành trang cho nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Tài chính, 03/2015. 8. Website Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: www.mard.gov.vn 9. Website Hiệp hội mía đường Việt Nam: www.vinasugar.vn 10. Website của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc: www.fao.org 11. Báo Nhân dân điện tử: www.nhandan.org.vn 12. Website Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn 13. Báo cáo Hội nghị tổng kết vụ sản xuất mía đường 2014-2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 14. Website Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn 677
nguon tai.lieu . vn