Xem mẫu

  1. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI  PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được trình bày theo hai cách sau: ­ Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính ­ Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân tích mà đồ án sử  dụng. Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính, không  được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở phần sau (Chương 2). Phân tích khái quát tình hình tài chính Để  đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so sánh tổng tài   sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể  thấy được sự  thay đổi quy   mô vốn mà doanh nghiệp sử  dụng trong kỳ  cũng như  khả  năng huy động vốn của doanh   nghiệp. Tuy nhiên, số tổng cộng của tài sản và nguồn vốn tăng giảm là do nhiều nguyên nhân  khác nhau, do đó cần đi sâu phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế  toán. Tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Hai loại tài sản này   được hình thành chủ  yếu từ  nguồn vốn chủ  sở  hữu, nhưng cân đối này chỉ  mang tính lí   thuyết tức là nguồn vốn chủ sở hữu chủ doanh nghiệp đủ  trang trải các loại tài sản cho các   hoạt động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Thực tế thường xảy ra 1 trong 2   trường hợp sau: ­ Trường hợp doanh nghiệp thừa nguồn vốn, không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.
  2. ­ Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn để  trang trải tài sản nên doanh nghiệp phải đi vay   hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài. Qua phân tích các mối quan hệ cân đối, cho thấy số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng (hoặc   đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và nợ phải trả. Bên cạnh đó, trong phân tích tổng quát ta còn tính toán và so sánh các chỉ tiêu tỉ suất tài trợ đẻ  thấy được khả năng đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của công ty   (phần này được trình bày trong phân tích kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp). Bên cạnh đó,  về  khả  năng thanh toán cũng cần được quan tâm chú ý (được trình bày  ở  phần nhu cầu và   khả năng thanh toán) Phân tích chi tiết tình hình tài chính Trong phân tích chi tiết tình hình tài chính ta đi phân tích tình hình phân bổ vốn, xem xét doanh   nghiệp đã phân bổ vốn hợp lí và phát huy hiệu quả chưa? Để phân tích, ta tiến hành xác định   tỉ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu kì và cuối kì và so sánh sự thay đổi về tỉ trọng giữa   đầu kì và cuối kì nhằm tìm ra nguyên nhân của sự chênh lệch này. Qua so sánh ta thấy được  sự  thay đổi về  số  lượng, quy mô và tỉ  trọng của từng loại vốn. Để  có thể  thấy được tình   hình thay đổi của tài sản là hợp lí hay không cần đi sâu nghiên cứu sự biến động của tài sản.  Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ để  tạo tiền đề  tăng năng  suất lao động và sử dụng vốn đầu tư  có hiệu quả  hoặc đầu tư  tài chính dài hạn được xem   xét thông qua các chỉ tiêu: Tỉ suất đầu tư chung, tỉ suất đầu tư tài sản cố định, tỉ suất đầu tư  tài chính dài hạn. Bên cạnh đó việc phân tích kết cấu nguồn vốn; phân tích tình hình công nợ  và khả năng thanh toán; phân tích hiệu quả và khả năng sinh lợi của vốn; phân tích tình hình  đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được phân tích một cách cụ thể và được  trình bày cụ thể trong Chương 2 của đồ án này. Phân tích các hoạt động tài chính và phân tích các tỷ lệ tài chính.
  3. Phân tích các tỷ lệ tài chính Trong phân tích tài chính, các tỷ lệ tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm chính.  Đó là: nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ  lệ  về  khả  năng hoạt động, nhóm tỷ  lệ  về  khả  năng sinh lãi. Nhìn chung, mối quan tâm trước  hết của các nhà phân tích tài chính là tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh  không? Liệu doanh nghiệp có khả  năng đáp  ứng được những khoản nợ  đến hạn không?  Nhưng tuỳ theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích tài chính chú trọng nhiều hơn   đến nhóm tỷ  lệ  này hay nhóm tỷ  lệ  khác. Chẳng hạn, các chủ  nợ  ngắn hạn đặc biệt quan   tâm đến tình hình khả  năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư  dài hạn   quan tâm nhiều hơn đến khả  năng hoạt động có lãi và hiệu quả  sản xuất kinh doanh. Họ  cũng cần nghiên cứu tình hình về  khả  năng thanh toán để  đánh giá khả  năng của doanh  nghiệp đáp  ứng nhu cầu chi trả  hiện tại và xem xét lợi nhuận để  dự  tính khả  năng trả  nợ  cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ lệ cân đối vốn vì sự thay  đổi tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ. Các tỷ lệ tài chính cung cấp cho người phân tích khá đầy đủ các thông tin về từng vấn đề cụ  thể liên quan tới tài chính doanh nghiệp. Nhiệm vụ của người phân tích là phải tìm hiểu mối  liên hệ giữa các nhóm tỷ lệ để từ đó đưa ra kết luận khái quát về toàn bộ tình hình tài chính   doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích nên lưu ý rằng một tỷ lệ tài chính riêng rẽ  thì tự nó không nói lên điều gì. Nó cần phải được so sánh với tỷ lệ ở các năm khác nhau của   chính doanh nghiệp đó và so sánh với tỷ lệ tương ứng của các doanh nghiệp hoạt động trong  cùng ngành. Mỗi nhóm tỷ lệ trên bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp các tỷ lệ được lựa chọn  sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả bốn nhóm tỷ lệ thường dùng để phân tích và đánh   giá hoạt động tài chính doanh nghiệp. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán:
  4. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình các doanh   nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ  sở hữu mà còn cần đến nguồn tài trợ  khác là vay   nợ. Việc vay nợ này được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau.   Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để  đi đến quyết định có cho doanh nghiệp vay nợ  hay không thì họ đều quan tâm đền khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản phải  có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Việc phân tích các tỷ  lệ về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được rủi ro trong quan hệ  tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được  khả năng chi trả thực tế để từ đó có biện pháp kịp thời trong việc điều chỉnh các khoản mục  tài sản cho hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán. Các tỷ lệ về thanh toán bao gồm: Hệ số thanh toán hiện hành Là tỷ  lệ  được tính bằng cách chia tài sản lưu động cho nợ  ngắn hạn. Tài sản lưu động  thường bao gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn   kho); còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín  dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả khác...Cả tài sản lưu động và nợ  ngắn hạn đều có thời hạn nhất định ­ tới một năm. Tỷ lệ khả năng thanh toán chung là thước  đo khả  năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ  các khoản nợ  của   các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai  đoạn tương ứng với thời hạn của các khoản nợ đó. Công thức của khả năng thanh toán chung như sau: Hệ số thanh toán hiện hành(ngắn hạn) = Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn
  5. Tỷ lệ này có giá trị càng cao thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng tốt   và ngược lại. Nêú khả năng thanh toán chung nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không đủ khả năng  thanh toán nợ  ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu con số này quá cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã  đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động so với nhu cầu. Thông thường thì phần vượt trội đó sẽ  không sinh thêm lợi nhuận. Vì thế mà việc đầu tư đó sẽ kém hiệu quả. Vấn đề  này đòi hỏi   nhà doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý. Hệ số thanh toán nhanh: Một tỷ lệ thanh toán chung cao chưa phản ánh chính xác việc doanh nghiệp có thể  đáp ứng   nhanh chóng được các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn với chi phí thấp hay không vì  nó còn phụ thuộc vào tính thanh khoản của các khoản mục trong tài sản lưu động và kết cấu   của các khoản mục này. Vì vậy, chúng ta cần phải xét đến hệ số thanh toán nhanh của doanh   nghiệp. Hệ số thanh toán nhanh được tính bằng cách chia tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn.  Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể  nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao  gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn và các khoản phải thu. Hàng tồn kho là tài sản khó chuyển  thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ  bị lỗ  khi đem bán. Do vậy, tỷ  lệ  khả  năng  thanh toán nhanh cho biết khả  năng hoàn trả  các khoản nợ  ngắn hạn không phụ  thuộc vào  việc bán dự trữ (tồn kho). Hệ số thanh toán nhanh (thanh toán tức thời) = Tiền + Đầu tư ngắn hạn + Khoản phải thu Nợ ngắn hạn Nói chung tỷ lệ này thường biến động từ 0,5 đến 1. Tuy nhiên, cũng giống như trương hợp   của hệ  số  thanh toán ngắn hạn để  kết luận giá trị  của hệ  số  thanh toán tức thời là tốt hay   xấu cần xét đến đặc điểm và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ  hơn 0,5 thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn
  6. Tỷ  lệ  này được dùng để  đo lường phần vốn góp của các chủ  sở  hữu doanh nghiệp so với   phần tài trợ của chủ nợ cho doanh nghiệp. Nó còn được coi là tỷ lệ đòn bẩy tài chính và có ý   nghĩa quan trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn chủ sở hữu của   doanh nghiệp để  thể  hiện mức độ  tin tưởng vào sự  bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu  chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản   xuất kinh doanh là do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ,  các chủ doanh nghiệp vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra,   các khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí cho vốn vay là chi phí   trước thuế. Những doanh nghiệp có tỷ  lệ  này thấp phải chịu rủi ro lỗ  ít hơn khi nền kinh tế  suy thoái   đồng thời có lợi nhuận kỳ  vọng thấp hơn so với doanh nghiệp có tỷ  lệ  này cao trong nền   kinh tế  bùng nổ. Hay nói cách khác, những doanh nghiệp có tỷ  lệ  nợ  cao có nguy cơ  lỗ  lớn   nhưng lại có cơ  hội nhận được lợi nhuận cao. Tuy lợi nhuận kỳ vọng cao nhưng phần lớn   các nhà đầu tư đều rõ´t so? rủi ro. Vì thế quyết định về sử dụng nợ phải được cân bằng giữa   lợi nhuận và rủi ro. Trên cơ sở phân tích kết cấu nguồn vốn, doanh nghiệp sẽ nắm được khả  năng tự  tài trợ  về  mặt tài chính, mức độ  chủ  động trong sản xuất kinh doanh hay những khó khăn mà doanh   nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản Hệ số nợ = Nợ Tổng tài sản Tỷ  lệ này được sử dụng để xác định nghĩa vụ  của chủ doanh nghiệp đối với các chủ  nợ  đã   góp vốn cho doanh nghiệp. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này   càng thấp thì các khoản nợ  càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.   Trong khi đó, các chủ sở hữu  ưa thích tỷ lệ  nợ cao vì họ  muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và  
  7. muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi  vào trạng thái mất khả năng thanh toán. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ  sử  dụng nợ  của doanh nghiệp người ta tính mức độ  đòn bẩy tài chính (Degree of Financial  Leverage ­ DFL) của doanh nghiệp. Mức độ   ảnh hưởng của DFL được xác định như  là tỷ  lệ  thay đổi về  doanh lợi vốn chủ  sở  hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả. DLF = Q (P ­ V) ­ F Q (P ­ V) – F ­ 1 Trong đó: Q là sản lượng P là giá bán đơn vị sản phẩm V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm F là chi phí cố định I là chi phí lãi vay phải trả Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ  lớn để  trang trải lãi   vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay   đã đủ  lớn để  trang trải lãi vay phải trả  thì chỉ  cần một sự  gia tăng nhỏ  về  sản lượng cũng   mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở hữu. Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi Tỷ lệ này được xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho lãi tiền vay. Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi Lãi tiền vay
  8. Khả  năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ  lợi nhuận đảm bảo cho khả  năng trả  lãi hàng  năm. Việc không trả  được các khoản nợ này có thể  làm cho doanh nghiệp bị phá sản. Cùng  với tỷ lệ nợ trên tổng tài sản, tỷ lệ này giúp ta thấy được tình trạng thanh toán công nợ  của  doanh nghiệp tốt hay xấu. Một tỷ lệ nợ trên tổng tài sản cao cộng với khả năng thanh toán lãi  thấp so với mức trung bình của ngành sẽ  khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc  muốn gia tăng nợ. Khả năng độc lập về tài chính Khả năng độc lập về tài chính = Vốn chủ sở hữu Vốn trung và dài hạn Tỷ lệ này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh  của doanh nghiệp. Tỷ lệ này càng lớn thì tài sản của doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy   nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí vay nợ và việc tăng vốn cổ phần cổ phần có   thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh nghiệp. Tỷ lệ về cơ cấu tài sản Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ  cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp cần phải xem   xét việc sử dụng vốn đó như  thế  nào để  đáp ứng yêu cầu kinh doanh và nâng cao hiệu qủa  kinh tế  của đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ  vốn hay kết cấu tài sản của doanh  nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không, có phù hợp   với đặc điểm loại hình kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có   ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ về cơ cấu tài sản = Tài   sản   cố   định   hoặc   tài   sản   lưu  động Tổng tài sản
  9. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị  nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của  doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động Các tỷ  lệ  về  khả  năng hoạt động được sử  dụng để  đánh giá hiệu quả  sử  dụng nguồn vốn   của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp được đầu tư cho các loại tài sản khác nhau  như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc   đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của  từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ  tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ  yếu trong các tỷ  lệ  này nhằm tính tốc độ  quay   vòng của một số  đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ  lệ  này cho ta   những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh khoản của  doanh nghiệp. Vòng quay tiền Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc giữ tiền   và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong  kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ  doanh nghiệp có thể  dữ  trữ  với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên,  tiền được lưu giữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu   vốn đang phổ  biến  ở  các doanh nghiệp thì việc giữ  quá nhiều tiền sẽ  gây ứ  đọng vốn, hạn  chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm.  Thứ hai, do có giá trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm phát, tiền sẽ  bị mất giá. Vì  vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho   doanh nghiệp. Vòng quay tiền = Doanh thu thuần
  10. Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ bán Vòng quay hàng tồn kho Dự  trữ  và tồn kho thường chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản lưu động của doanh nghiệp. Vì  vậy, một mặt ta phải giới hạn mức dự trữ này ở  mức tối ưu, mặt khác tăng vòng quay của  chúng. Dự trữ là một khoản đầu tư cần thiết để đảm bảo tính liên tục của sản xuất và không   bỏ  lỡ  cơ  hội trong kinh doanh. Khoản đầu tư  này được giải phóng sau khi sản phẩm được  tiêu thụ. Vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh   doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng công thức dưới đây. Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần Hàng tồn kho Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần hàng tồn kho được bán ra trong kỳ kế toán   và có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu vốn luân chuyển. Con số này càng cao chứng tỏ khả  năng bán ra càng lớn. Trên góc độ chu chuyển vốn thì hệ số quay vòng tồn kho lớn sẽ giảm   bớt được số vốn đầu tư vào công việc này, hiệu quả sử dụng vốn sẽ cao hơn. Tuy nhiên, khi  phân tích cũng cần phải chú ý đến những nhân tố khác ảnh hưởng đến hệ số quay vòng tồn   kho như  việc áp dụng phương thức bán hàng, kết cấu hàng tồn kho, thị  hiếu tiêu dùng, tình  trạng nền kinh tế, đặc điểm theo mùa vụ của doanh nghiệp, thời gian giao hàng của nhà cung   cấp... Biến động của chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cung cấp cho ta nhiều thông tin. Việc giảm  vòng quay vốn hàng tồn kho có thể  do chậm bán hàng, quản lý dự  trữ  kém, trong dự  trữ  có  nhiều sản phẩm lạc hậu. Nhưng việc giảm vòng quay hàng tồn kho cũng có thể  là kết quả  của quyết định của doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi biết trước giá cả  của  chúng sẽ tăng hoặc có thể có sự gián đoạn trong việc cung cấp các nguyên vật liệu này (có   đình công, suy giảm sản xuất). Ngược lại, việc tăng vòng quay hàng tồn kho có thể do những  
  11. cải tiến được áp dụng trong khâu bán hàng hay hàng hoá của doanh nghiệp đạt chất lượng   cao, kết cấu hợp lý. Đây là điều đáng khích lệ. Còn nếu doanh nghiệp duy trì mức tồn kho   thấp thì cũng làm cho hệ số quay vòng hàng tồn kho tăng cao nhưng điều này đôi khi gây ra   tình trạng thiếu hàng để bán và ảnh hưởng đến việc tăng doanh thu. Kỳ thu tiền bình quân Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu là điều khó tránh khỏi.  Nhờ bán chịu, doanh nghiệp có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường và duy trì thị  trường truyền thống, do đó có thể  giảm hàng tồn kho, duy trì được mức sản xuất, nâng cao  hiệu quả  sử dụng máy móc, thiết bị. Hơn nữa, nó còn có thể  mang lại lợi nhuận tiềm năng  cao hơn nhờ việc tăng giá do khách hàng mua chịu. Song việc bán hàng chịu cũng đẩy doanh  nghiệp vào tình trạng phải đối mặt không ít với các rủi ro. Đó là giá trị  hàng hoá lâu được   thực hiện dẫn đến giảm tốc độ  chu chuyển của vốn, đặc biệt trong tình trạng thiếu vốn   doanh nghiệp phải huy động nguồn tài trợ  cho việc bán chịu; một điều đáng lo ngại hơn là   rủi ro về khả năng thu nợ, chi phí đòi nợ. Vì vậy, nhiệm vụ của người quản lý doanh nghiệp   là phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình quân và có biện pháp rút ngắn thời gian này. Kỳ thu tiền bình quân được tính theo công thức sau (đơn vị của công thức này là ngày): Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu thuần x 360 Trong phân tích tài chính, chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong   thanh toán của doanh nghiệp. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: ­ Tính chất của việc doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu: Một số doanh nghiệp có chính  sách mở rộng bán chịu và chấp nhận kéo dài thời hạn thanh toán hơn các đối thủ  cạnh tranh  để phát triển thị trường.
  12. ­ Tình trạng của nền kinh tế: Khi tình hình thuận lợi các doanh nghiệp có khuynh hướng dễ  dàng chấp nhận bán chịu và ngược lại. Nếu chấp nhận tăng thời gian bán chịu cho khách   hàng mà không tăng được mức tiêu thụ thì đó là dấu hiệu xấu về tình hình kinh doanh. Doanh   nghiệp cần phải thay đổi chính sách tiêu thụ để giữ khách hàng hoặc nâng cao khả năng cạnh   tranh của sản phẩm. Nhưng tình trạng đó cũng có thể  là do khách hàng gặp khó khăn trong  chi trả  nhất là ở  vào thời kỳ  kinh tế suy thoái. Tình huống đó gây khó khăn dây chuyền cho  các doanh nghiệp bán chịu. ­ Chính sách tín dụng và chi phí bán hàng chịu: khi lãi suất tín dụng cấp cho các doanh nghiệp   để tài trợ cho kinh doanh tăng, các doanh nghiệp có xu hướng giảm thời gian bán chịu vì nếu   tiếp tục kéo dài thời hạn sẽ rất tốn kém về chi phí tài chính. ­ Ngoài ra độ  lớn của các khoản phải thu còn phụ thuộc vào các khoản trả trước của doanh  nghiệp. Vòng quay vốn lưu động Vòng quay vốn lưu động = Doanh thu thuần Vốn lưu động Chỉ  tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số  vòng quay tăng   chứng tỏ  hiệu quả sử dụng vốn tăng và ngược lại. Chỉ  tiêu này còn được gọi là hệ  số  luân   chuyển. Đẩy nhanh tốc độ  luân chuyển vốn sẽ  góp phần giải quyết nhu cầu về  vốn cho   doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định Chỉ  tiêu này cho biết một đồng tài sản cố  định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong   kỳ. Tài sản cố  định  ở  đây được xác định là giá trị  còn lại tới thời điểm lập báo cáo tức là   bằng nguyên giá tài sản cố định trừ đi hao mòn luỹ kế. Hiệu   suất   sử   dụng   tài   sản   cố  = định
  13. Doanh thu thuần Giá trị còn lại của tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tổng tài sản Tỷ lệ này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thể hiện số  vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Hệ số này làm rõ  khả năng tận dụng vốn triệt để  vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng  quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhận cho doanh nghiệp đồng thời   làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Hiệu   suất   sử   dụng   tổng   tài  = sản Doanh thu thuần Tổng tài sản Các tỷ lệ về khả năng sinh lời Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì thế khác với các tỷ  lệ  tài chính phân tích  ở  trên chỉ  phán ánh hiệu quả  từng hoạt động riêng biệt của doanh   nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và  hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chung của các doanh nghiệp là làm sao để  một đồng vốn bỏ  ra mang lại hiệu quả cao nhất và khả  năng sinh lời nhiều nhất. Để  đánh  giá khả năng sinh lời người ta dùng các chỉ tiêu sau: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Chỉ tiêu trên phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này có thể  tăng giảm giữa các kỳ  tuỳ  theo sự  thay đổi của doanh thu thuần và chi phí. Nếu doanh thu  
  14. thuần giảm hoặc tăng không đáng kể trong khi đó chi phí tăng lên với tốc độ lớn hơn sẽ dẫn   đến lợi nhuận sau thuế giảm và kết quả là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm thấp. Khi đó, doanh  nghiệp vẫn cần xác định rõ nguyên nhân của tình hình để có giải pháp khắc phục. Doanh lợi vốn chủ sở hữu Được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế  cho vốn chủ  sở  hữu. Nó phản ánh khả  năng sinh lời của vốn chủ  sở hữu và được các nhà đầu tư  đặc biệt quan tâm khi họ  quyết   định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu  của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Ta xét các nhân tố  ảnh hưởng đến doanh lợi   vốn chủ sở hữu như sau: Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần X Doanh thu thuần Tổng tài sản x Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu Như vậy, doanh lợi vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba nhân tố: ­Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. ­Hiệu suất sử dụng tổng tài sản. ­Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.
  15. Vì vậy, khi xem xét sự biến động của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta cần phân tích sự thay đổi  của cả ba yếu tố trên để đưa ra những kết luận đúng đắn. Doanh lợi vốn Đây là chỉ  tiêu tổng hợp nhất được dùng để  đánh giá khả  năng sinh lời của một đồng vốn   đầu tư (ROA). Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi  so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi hay lợi nhuận sau thuế để  so sánh   với tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường sử  dụng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài  sản. Doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Tổng tài sản Phân tích các hoạt động tài chính Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là bảng nguồn vốn và sử dụng   vốn (bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và mục đích   sử dụng các nguồn vốn. Trong phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, người ta thường xem xét sự  thay đổi  của các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo   số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Để lập được bảng này, trước hết phải liệt kê sự thay đổi của các khoản mục trên bảng cân  đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột sử dụng vốn và   nguồn vốn theo nguyên tắc: Sử dụng vốn: tăng tài sản hoặc giảm vốn. Nguồn vốn: giảm tài sản hoặc tăng vốn.
  16. Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là cơ  sở  để  tiến hành phân tích tình hình  tăng giảm nguồn vốn, sử  dụng vốn, chỉ  ra những trọng điểm đầu tư  vốn và những nguồn  vốn chủ  yếu được hình thành để  tài trợ  cho những đầu tư  đó. Từ  đó có giải pháp khai thác  các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh Vốn lưu động thường xuyên Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản bao gồm tài sản lưu   động và tài sản cố định. Để hình thành hai nguồn tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương  ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử  dụng trong khoảng thời gian dưới   một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung  cấp và nợ ngắn hạn phải trả khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh, nó   có thời hạn trên một năm và bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay nợ trung hạn và   dài hạn. Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư  để  hình thành tài sản cố  định (TSCĐ), phần dư  của nguồn vốn dài hạn được đầu tư để hình thành tài sản lưu động (TSLĐ). Chênh lệch giữa   nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định hay giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn được gọi là   vốn lưu động thường xuyên. Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào độ lớn của  vốn lưu động thường xuyên. VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn ­ TSCĐ = TSLĐ ­ Nợ ngắn hạn Có 3 trường hợp có khả năng xảy ra như sau: ­ Vốn lưu động thường xuyên > 0, nghĩa là nguồn vốn dài hạn lớn hơn tài sản cố định, phần   dư  thừa đó đầu tư  vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động lớn hơn nợ  ngắn hạn   nên khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.
  17. ­ Vốn lưu động thường xuyên = 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài trợ  cho tài sản cố  định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính   như vậy là lành mạnh. ­ Vốn lưu động thường xuyên 
  18. ­ Giảm tài sản cố định thông qua nhượng bán. Những thay đổi tài sản lưu động hoặc nợ  phải trả  ngắn hạn không làm thay đổi vốn lưu   động thường xuyên, bởi vì việc tăng của một loại tài sản lưu động sẽ  dẫn đến hoặc giảm   một loại tài sản lưu động khác, hoặc tăng một dòng nợ  ngắn hạn. Chẳng hạn, khi bán sản   phẩm tồn kho sẽ  làm giảm tồn kho và tăng tương  ứng  ở  mục nợ  phải thu (nếu bán chịu),  hoặc tăng tiền mặt (nếu bán thu tiền ngay). Ta cũng cần chú ý là chính sách khấu hao có tác   động lớn vào vốn lưu động thường xuyên, nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ khấu hao nhanh  thì vốn luân chuyển sẽ cao hơn so với áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Vốn lưu động thường xuyên thể hiện mức độ an toàn, đảm bảo cho doanh nghiệp chống lại   rủi ro làm mất giá trị  tài sản hoặc rủi ro làm giảm tốc độ  luân chuyển vốn dự  trữ. Vì vậy,   mọi biến động của vốn lưu động thường xuyên phải được chú ý theo dõi. Tại các thời điểm   khác nhau có ba tình huống xảy ra: ­ Tăng vốn lưu động thường xuyên. Trong trường hợp này, an toàn của doanh nghiệp tăng vì phần lớn tài sản cố  định được   nguồn vốn dài hạn tài trợ. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng để  đạt được sự  an toàn đó, doanh  nghiệp phải tăng nợ  dài hạn. Nếu khối lượng nợ  dài hạn càng lớn sẽ  dẫn đến chi phí tài   chính càng cao, từ  đó làm giảm kết quả  kinh doanh. Nếu tăng vốn lưu động thường xuyên   bằng việc tăng vốn chủ  sở  hữu thì tình hình tài chính doanh nghiệp được cải thiện, nhưng   doanh nghiệp phải chịu chi phí sử  dụng vốn cao hơn nợ  vay và có thể  phải chia sẻ  quyền   kiểm soát doanh nghiệp. Do vậy, quyết định tăng vốn lưu động và tăng bằng cách nào đòi hỏi   một quyết định đúng. Mặt khác, khi vốn lưu động thường xuyên đã tài trợ đủ cho tài sản cố định còn dư thừa, nếu   sử  dụng vốn lưu động thường xuyên tài trợ  toàn bộ  cho tồn kho không phải là quyết định   quản trị  tốt, vì có thể  doanh nghiệp đã sử  dụng nguồn vốn dài hạn tốn kém cho đầu tư  tài   sản ngắn hạn mà lẽ ra việc sử dụng này phải do tín dụng ngắn hạn tài trợ. ­ Giảm vốn lưu động thường xuyên
  19. Khi một doanh nghiệp giảm vốn lưu động thường xuyên sẽ làm cho mức độ an toàn tài chính   của doanh nghiệp giảm xuống. Tuy vậy, nếu việc giảm vốn này nhằm tài trợ cho các khoản  đầu tư  sinh lời mới góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì cũng cần quan tâm xem   xét kỹ. ­ Giữ ổn định vốn lưu động thường xuyên Tình huống này thể  hiện tình trạng giữ   ổn định các hoạt động của doanh nghiệp; để  điều  chỉnh cơ  cấu đầu tư  do lợi nhuận không tăng hoặc mức tăng trưởng giảm lâu dài, khi cần   đánh giá thực trạng của tình huống này cần tiến hành nghiên cứu nguồn có khả  năng tạo ra  lợi nhuận để xem xét. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Tại một thời điểm nào đó, vốn lưu động thường xuyên chỉ  rõ mức độ  an toàn mà doanh   nghiệp có được nhằm tài trợ  cho chu kỳ  kinh doanh của nó. Vì thế  ta phải nghiên cứu một   cách đầy đủ  bằng cách so sánh giữa vốn lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn lưu động   thường xuyên. Vậy nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là gì? Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho   một phần tài sản lưu động, đó là hàng dự trữ và các khoản phải thu (tài sản lưu động không   phải là tiền). Như vậy, nhu cầu vốn lưu động thường xuyên phụ thuộc vào ba tham số: dự trữ, tồn kho và   sản phẩm dở  dang; nợ  phải thu; nợ  ngắn hạn. Nhưng tầm quan trọng c ủa ba tham s ố này   thay đổi theo tính chất của ngành và mức độ  hoạt động, điều kiện quản lý và những biến   động giá cả. Vì vậy, ta cần phải xem xét sự  biến động của nhu cầu vốn lưu động thường  xuyên theo tính chất của ngành và mức độ hoạt động, điều kiện quản lý và những biến động   giá cả. Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Dự trữ và các khoản phải thu ­ Nợ ngắn hạn ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và tính chất của ngành mà doanh nghiệp hoạt động:   nhìn chung có mối liên hệ  chặt chẽ giữa nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và giá trị  gia  
  20. tăng do doanh nghiệp tạo ra. Các doanh nghiệp có giá trị  gia tăng thấp và chu kỳ  sản xuất   kinh doanh ngắn (ngành thương mại) thì nhu cầu vốn lưu động thường xuyên nhỏ  thậm chí   âm do dự  trữ ít và tận dụng được nguồn kinh phí từ  bán chịu của nhà cung cấp. Các doanh   nghiệp có giá trị gia tăng cao và chu kỳ sản xuất dài thường có nhu cầu vốn lưu động thường   xuyên lớn. Đó là các doanh nghiệp chấp nhận bán hàng chịu trong thời gian dài và khối lượng  tồn kho lớn (doanh nghiệp công nghiệp chế tạo máy). Tuy nhiên một số doanh nghiệp có thể  giảm vốn lưu động thường xuyên bằng cách yêu cầu khách hàng ứng trước cho những hợp   đồng mà họ đang thực hiện. ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và mức độ hoạt động diễn ra theo chu kỳ: nợ phải thu  từ  khách hàng và nợ  phải trả đối với nhà cung cấp gần như tỷ lệ thuận với doanh thu. Tuy   nhiên, dù tình hình tiêu thụ bị chậm lại thì nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cũng không  giảm ngay vì những đơn đặt hàng đã ký kết không thể huỷ bỏ, dự trữ và tồn kho vẫn tăng do   tốc độ bán hàng chậm lại. ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và sự  biến động giá cả: trong thời kỳ  lạm phát, nhu  cầu vốn lưu động thường xuyên tăng vì việc tăng nợ phải trả không đủ bù đắp mức tăng các   khoản tồn kho và nợ  phải thu, nhất là trong ngành công nghiệp. Tình trạng đó làm cho các   doanh nghiệp phải vay mượn nhiều hơn để  tài trợ  cho các nhu cầu vốn lưu động thường  xuyên. ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và quản lý: quản lý tồn kho cũng như quản lý bán chịu   cho khách hàng là tiền đề làm tăng hay giảm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên. Khi tốc độ  vòng quay dự trữ tăng để giảm dự trữ cũng như tăng cường nhận ứng trước của khách hàng   sẽ góp phần làm giảm nhu cầu vốn lưu động thường xuyên và ngược lại. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên có thể nhận các giá trị sau: ­ Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ  ngắn hạn. Tại đây các sử dụng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn  hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để 
nguon tai.lieu . vn