- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Nội dung quan trọng của Hiệp định TPP và các quan điểm tận dụng cơ hội từ TPP của Việt Nam
Xem mẫu
- NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA HIỆP ĐỊNH TPP
VÀ CÁC QUAN ĐIỂM TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ TPP
CỦA VIỆT NAM
TS. Trần Mạnh Dũng
TS. Trương Văn Tú
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng qua việc tham
gia ký kết các hiệp định thương mại như TPP, FTA, gia nhập AEC… Theo đó, nó
phát sinh rất nhiều cơ hội nhưng cũng tạo ra đầy thách thức cho kinh tế Việt Nam
và các doanh nghiệp Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả tổng
hợp những nội dung quan trọng nhất của TPP và chỉ ra cơ hội và thách thức mà
Việt Nam cần nắm bắt và vượt qua.
Từ khóa: TPP, thương mại quốc tế, Việt Nam.
1. Giới thiệu
Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một thỏa thuận
thương mại tự do (FTA) với sự tham gia của 12 quốc gia Hợp tác Kinh tế châu Á
Thái Bình Dương (APEC) từ bốn khu vực khác nhau: Đông Á (Malaysia,
Singapore, Brunei, Việt Nam, Nhật Bản), Châu Đại Dương (Australia, New
Zealand), Mỹ Latin (Chile, Peru) và Bắc Mỹ (Hoa Kỳ, Canada, Mexico). TPP
được xây dựng dựa trên quan hệ đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (được gọi là thỏa thuận P4) bao gồm Singapore, Chile, New Zealand và
Brunei, có hiệu lực vào năm 2006. Đến năm 2008, Hoa Kỳ tuyên bố tham gia vào
P4 nhưng không phải Hiệp định P4 cũ mà các bên sẽ đàm phán một Hiệp định
hoàn toàn mới, gọi là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Sau đó,
các nước Australia và Peru cũng tuyên bố tham gia TPP. Từ khi TPP được hình
thành, Việt Nam đã được các nước TPP mời tham gia và đã tham gia đàm phán
ngay từ những ngày đầu nhưng chưa phải thành viên chính thức mà là thành viên
liên kết.
323
- TPP, một thỏa thuận xuyên khu vực, được đánh giá là một Hiệp định
thương mại đa phương giàu tham vọng, toàn diện và tiêu chuẩn cao của thế kỉ
XXI. Nó cho phép mở rộng hơn nữa các thành viên của mình thông qua điều
khoản gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 12 nước tham gia có tổng
GDP hơn 28.000 tỷ đô la, chiếm 40% tổng GDP và hơn 30% tổng thương mại
toàn cầu nên các dây chuyền cung ứng sẽ có động lực dịch chuyển về khu vực
này, tạo ra lợi thế và lợi ích kinh tế to lớn cho tất cả các nước tham gia.
2. Các nội dung quan trọng của TPP
2.1. Cắt giảm thuế nhập khẩu
Nguyên tắc chung của TPP là đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với tất cả các
dòng thuế. Với một số ít dòng thuế nhạy cảm, có thể áp dụng hạn ngạch thuế
quan hoặc hình thức giảm thuế đáng kể, với điều kiện là phải được cả 11 nước
còn lại chấp nhận.
Về dệt may, để hưởng thuế suất ưu đãi của Hiệp định, sẽ phải đáp ứng quy
tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”. Quy tắc này về dài hạn sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư vào công nghiệp dệt, giúp nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
may xuất khẩu và giúp ngành dệt may phát triển bền vững hơn.1 Tuy nhiên, để
đáp ứng yêu cầu được hưởng ưu đãi ngay của các doanh nghiệp tại các nước chưa
mạnh về công nghiệp dệt, Hiệp định TPP có một danh mục “nguồn cung thiếu
hụt”. Theo danh mục này, các doanh nghiệp sẽ có quyền nhập khẩu một số chủng
loại vải, sợi từ nước thứ ba (ngoài TPP) để làm ra sản phẩm may mà vẫn được
hưởng ưu đãi. Ngoài ra, có một số cơ chế linh hoạt khác để ngành dệt may có thể
được hưởng ưu đãi nhiều hơn ngay khi Hiệp định có hiệu lực mà không quá phụ
thuộc vào quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”.
2.2. Mở cửa dịch vụ và đầu tư
Trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, nghĩa vụ chính là không phân biệt đối xử,
bao gồm (i) không phân biệt đối xử giữa các nước thành viên với nhau (dành đãi
ngộ tối huệ quốc) và (ii) không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư - cung cấp dịch
vụ trong nước với nhà đầu tư - cung cấp dịch vụ nước ngoài (dành đãi ngộ quốc
1
Trên thực tế, để đón đầu TPP và FTA với EU, từ năm 2013 đã có nhiều doanh nghiệp quyết định đầu
tư vào công nghiệp dệt với tổng vốn đầu tư lên đến hàng trăm triệu đô la.
324
- gia).2 Nước nào có nhu cầu phân biệt đối xử thì bảo lưu biện pháp phân biệt đối
xử đó trong Phụ lục kèm theo Hiệp định.
Mọi biện pháp quản lý, nếu không có yếu tố phân biệt đối xử, đều được
phép duy trì mà không cần phải bảo lưu trong Hiệp định.
Với mục tiêu thu hút mạnh đầu tư vào khu vực TPP (chiếm 40% GDP và
30% thương mại toàn cầu), các nước đặt ra kỳ vọng rất cao cho lĩnh vực dịch vụ
và đầu tư.
Các cam kết về dịch vụ và đầu tư của Việt Nam về cơ bản là tương đương
với mức độ mở cửa hiện hành.
2.3. Mua sắm của các cơ quan Chính phủ
Các nước TPP thống nhất đưa ra một bộ quy tắc khá toàn diện về đấu thầu
mua sắm của các cơ quan Chính phủ. Các quy tắc này không áp dụng với các gói
thầu vì mục đích an ninh quốc phòng, các gói thầu có giá trị dưới một mức nhất
định và các trường hợp khác mà đã ghi nhận trong đàm phán. Các quy tắc này
chủ yếu là:
- Về cơ bản sẽ sử dụng hình thức đấu thầu quốc tế rộng rãi để lựa chọn nhà
thầu từ các nước TPP;
- Không áp dụng các điều kiện dự thầu mang tính ưu tiên đối với nhà thầu
cũng như hàng hóa và dịch vụ trong nước, trừ các trường hợp được bảo lưu;
- Minh bạch thông tin và thủ tục tại tất cả các khâu;
- Có quy định để bảo đảm liêm chính trong quá trình đấu thầu và xây dựng
quy trình xem xét khiếu nại của nhà thầu.
TPP không yêu cầu mở cửa thị trường mua sắm của chính quyền địa
phương (tỉnh, thành phố) và cũng không yêu cầu mở cửa thị trường mua sắm
phục vụ an ninh quốc phòng.
Kết quả đàm phán mà Việt Nam đạt được trong lĩnh vực mua sắm của các
cơ quan Chính phủ là cân bằng và phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam.
2.4. Doanh nghiệp Nhà nước
Các nghĩa vụ chính của Hiệp định bao gồm:
- Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) phải hoạt động theo cơ chế thị trường;
2
Tức là Việt Nam cho phép nhà đầu tư trong nước được hoạt động kinh doanh, với các điều kiện ra
sao thì cũng áp dụng như thế cho các nhà đầu tư từ các nước TPP.
325
- - Các DNNN không được có hành vi phản cạnh tranh khi có vị trí độc
quyền, gây ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư;
- Minh bạch hóa một số thông tin như tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, báo cáo
tài chính đã được kiểm toán và công bố.
- Nhà nước không trợ cấp quá mức, gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích của nước khác.
Các nghĩa vụ của Hiệp định được áp dụng đối với các DNNN mà tại đó Nhà
nước nắm giữ hơn 50% vốn điều lệ. Tuy nhiên, chỉ khi các DNNN này có doanh
thu vượt quá một ngưỡng nhất định thì mới chịu sự điều chỉnh của Hiệp định.
Việt Nam bảo lưu loại trừ tất cả các doanh nghiệp có hoạt động liên quan
tới quốc phòng an ninh. Với các DNNN khác, Việt Nam chấp nhận cạnh tranh
bình đẳng trên thị trường. Nhà nước sẽ vẫn hỗ trợ các DNNN nhưng mức hỗ trợ
sẽ không tới mức gây bất bình đẳng lớn và ảnh hưởng tiêu cực tới thương mại,
đầu tư giữa các nước TPP. Việt Nam cũng đồng ý minh bạch thông tin về DNNN
khi có yêu cầu, trừ các thông tin ảnh hưởng tới quốc phòng an ninh hoặc thuộc
phạm vi bí mật kinh doanh của doanh nghiệp.
2.5. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
TPP hướng đến các tiêu chuẩn cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT),
đặc biệt là với dược phẩm. Đồng thời, các nước cũng cần có cơ chế thực thi hiệu
quả việc bảo hộ quyền SHTT trên lãnh thổ nước mình, kể cả tại biên giới và trong
môi trường internet. Đặc biệt, phải có quy định cho phép xử lý hình sự các vụ
việc xâm phạm quyền SHTT gây thiệt hại lớn cho người sở hữu quyền SHTT.
Cách tiếp cận này đi xa hơn cách tiếp cận trong WTO (chỉ xử lý hình sự khi xâm
phạm ở quy mô thương mại và thu lợi bất chính).
TPP cũng yêu cầu các nước cho phép khả năng xử lý hình sự một số hình
thức xâm phạm quyền SHTT mới xuất hiện như thiết kế các phần mềm phá mã
điện tử để phục vụ sao chép lậu, câu trộm để phát tán tín hiệu truyền hình cáp …
Việt Nam đồng ý với các tiêu chuẩn của TPP nhưng sẽ thực hiện cam kết
theo lộ trình, phù hợp với trình độ phát triển và năng lực thực thi của Việt Nam.
2.6. Thuế xuất khẩu
Hiệp định TPP yêu cầu các nước nỗ lực xóa bỏ thuế xuất khẩu vì coi đây là
một hình thức trợ cấp gián tiếp cho doanh nghiệp trong nước (được mua nguyên
liệu với giá rẻ). Việt Nam đồng ý với nỗ lực này nhưng phải theo lộ trình hợp lý,
đồng thời bảo lưu quyền áp dụng thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có ý
326
- nghĩa quan trọng đối với thu ngân sách như dầu thô và các loại than đá sản xuất
trong nước.
2.7. Thương mại và môi trường
TPP đưa ra các yêu cầu liên quan đến thương mại và môi trường như:
- Cam kết bảo vệ môi trường theo các quy định của các điều ước quốc tế đã
hoặc sẽ tham gia, có chế tài trong trường hợp vi phạm.
- Không áp dụng các hình thức trợ cấp nghề cá gây ảnh hưởng tiêu cực đến
các loài thủy sản đang bị đánh bắt quá mức nhưng có lộ trình để rà soát lại chính
sách và điều chỉnh chính sách (nếu cần thiết).
- Theo đúng các quy định trong nước, đưa ra hình thức phù hợp để hợp tác
xử lý vi phạm pháp luật về môi trường ở nước ngoài.
Cùng với quá trình tham gia các diễn đàn về môi trường, Việt Nam đã có rất
nhiều cải cách trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, các cam kết trong lĩnh vực môi
trường về cơ bản là phù hợp với hệ thống pháp luật cũng như điều kiện, hoàn
cảnh và năng lực thực thi của Việt Nam.
2.8. Thương mại điện tử
TPP đặt ra các yêu cầu chính đối với thương mại điện tử (TMĐT) như sau:
- Không phân biệt đối xử sản phẩm số và không áp thuế xuất nhập khẩu/phí
nội địa đối với sản phẩm số.
- Quyền truy cập, lưu chuyển thông tin trên internet.
- Nếu không phải vì các mục tiêu công cộng chính đáng thì không yêu cầu
đặt trang thiết bị (máy chủ) tại nước sở tại như là điều kiện để cấp phép đầu tư
hay cung cấp dịch vụ.
Mọi biện pháp quản lý internet nhằm bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự
an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục vẫn được phép áp dụng.
2.9. Minh bạch hóa và chống tham nhũng
Các nước TPP đưa ra nhiều nguyên tắc về tăng cường minh bạch như đăng
tải mọi dự thảo pháp luật trên trang thông tin điện tử duy nhất, cho phép khu vực
doanh nghiệp tham gia ý kiến trong quá trình hoạch định chính sách, cho phép
các đối tượng quan tâm được đóng góp ý kiến vào các nội dung được thảo luận ở
các Ủy ban của TPP trong tương lai ...
327
- Ngoài ra, các nước đồng ý đưa nội dung minh bạch một số nguyên tắc của
Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) mà hầu hết các thành
viên TPP (ngoại trừ Brunei) đã tham gia.
2.10. Nội dung khác
Cũng như các hiệp định FTA khác, Hiệp định TPP còn có nhiều quy định
liên quan đến thương mại và đầu tư như quy định về các hàng rào kỹ thuật trong
thương mại, các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm,
các quy định về hải quan và tạo thuận lợi cho thương mại, các quy định về môi
trường đầu tư, về bảo hộ đầu tư (trong đó có việc cho phép nhà đầu tư được kiện
Chính phủ trong một số trường hợp đặc biệt như khi Chính phủ tước đoạt tài sản
của nhà đầu tư)... Tuy nhiên, quy định trong những lĩnh vực này của TPP là
tương đồng với các hiệp định về thương mại đầu tư khác mà Việt Nam đã ký kết
hoặc với các quy định hiện hành của pháp luật.
3. Cơ hội và thách thức khi gia nhập TPP
3.1. Cơ hội
Tham gia TPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên sẽ giúp
nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế, giúp
Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa
dạng hóa quan hệ quốc tế.
Về mặt kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, trong điều kiện
các yếu tố khác đều thuận lợi, TPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 23,5
tỷ đô la vào năm 2020 và 33,5 tỷ đô la vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ tăng thêm
được 68 tỷ đô la vào năm 2025. 3 Theo các nghiên cứu này, Việt Nam có thể là
quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 nước tham gia TPP.
Đối với xuất khẩu, các nước trong đó có các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
Nhật Bản và Canada giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của Việt Nam sẽ
tạo ra “cú hích” lớn. Riêng ngành dệt may, theo dự đoán thì kim ngạch xuất khẩu
có thể tăng đáng kể. Theo tính toán, cứ 1 tỷ đô la kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm các loại. Như vậy, nếu kim ngạch dệt may
tăng, có thể tạo ra nhiều việc làm mới. Ngoài ra, với quy mô xuất khẩu đủ lớn,
Việt Nam sẽ có điều kiện thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm và sản xuất
3
Tăng thêm ở đây là so với kịch bản không có TPP. Toàn bộ trị giá tăng thêm này đã được quy đổi về
giá cố định.
328
- nguyên phụ liệu. Đây là mặt tích cực của quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, giúp
Việt Nam tăng giá trị nội địa cho hàng may xuất khẩu và giúp ngành may phát
triển bền vững trước các đối thủ cạnh tranh tiềm năng.
Tương tự dệt may, các mặt hàng giày dép của Việt Nam cũng sẽ có cơ hội
tăng đáng kể về xuất khẩu. Với các mặt hàng nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
sản (khu vực nông nghiệp), cơ hội tăng xuất khẩu cũng được cho là rất lớn.
Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam và các nước có được các cơ hội mới từ
chuỗi cung ứng mới, được hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Các nước TPP
chiếm tới 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu, lại bao gồm các thị trường lớn
như Hoa Kỳ, Nhật Bản, chắc chắn sẽ mở ra rất nhiều cơ hội khi chuỗi cung ứng
mới hình thành. 4 Một số tập đoàn, công ty đa quốc gia trên thế giới đã cân nhắc
đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu biến Việt Nam trở thành một trong những cứ
điểm quan trọng trong chuỗi sản xuất của họ. Tham gia TPP sẽ giúp xu hướng
này phát triển mạnh hơn, là điều kiện quan trọng để nước ta bước sang giai đoạn
phát triển các ngành mới, có hàm lượng công nghệ cao hơn.
Cam kết trong TPP về dịch vụ và đầu tư dự kiến sẽ có tác dụng tích cực
trong việc cải thiện môi trường đầu tư, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng khi Hiệp
định TPP có hiệu lực. Ngoài ra, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ của Việt Nam
cũng dễ tiếp cận thị trường của các nước tham gia TPP hơn, tuy tác động này
không lớn do khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường
nước ngoài còn chưa cao.
Các doanh nghiệp của Việt Nam cũng sẽ có điều kiện tham gia vào thị
trường mua sắm công của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada... Theo số liệu của Hoa Kỳ,
chỉ tính riêng mua sắm công các loại hàng hóa, vật dụng văn phòng thông thường
của các cơ quan chính quyền Liên bang Hoa Kỳ hàng năm đã vào khoảng từ 10 tỷ
đến 12 tỷ đô la. Đây cũng là một kênh tiêu thụ hấp dẫn đối với hàng xuất khẩu
của Việt Nam.
Cũng như tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tham gia TPP,
một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp tục
hoàn thiện thể chế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường, một trong ba đột phá
chiến lược mà Đảng ta đã xác định; hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng
4
Trên thực tế, cạnh tranh giữa các tập đoàn trên thế giới hiện nay không chỉ là cạnh tranh giữa họ với
nhau mà còn là cạnh tranh giữa các chuỗi cung ứng. Hầu hết các nước TPP đã có FTA với nhau nên
giữa các nước này đã hình thành các chuỗi cung ứng cho nhau. Tham gia TPP sẽ là cơ hội để Việt
Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng này.
329
- trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam, đồng thời giúp Việt Nam có thêm
cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch
và dễ dự đoán hơn; từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt, hoàn thiện và tăng cường công tác bảo hộ quyền SHTT sẽ mở ra cơ hội
thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng tri thức cao như sản xuất dược
phẩm, trong đó có thuốc sinh học (đặc biệt là với vắc-xin và một số sản phẩm mà
Việt Nam có bước phát triển mạnh trong các năm qua).
Về mặt xã hội, tham gia TPP sẽ tạo ra các cơ hội giúp nâng cao tốc độ tăng
trưởng. Hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá
đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế cũng giúp Việt Nam có thêm nguồn lực để
cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Do nhập
khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với Việt Nam phần lớn là không
cạnh tranh trực tiếp, nên nếu có một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội, Việt Nam có thể xử lý được các vấn đề xã hội nảy
sinh do tham gia TPP. Đặc biệt, do Hiệp định TPP bao gồm cả các cam kết về bảo
vệ môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ
được thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp Việt Nam tăng
trưởng bền vững hơn.
Về thể chế, tương tự như WTO, Hiệp định TPP với các tiêu chuẩn rất cao
về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ máy Nhà nước sẽ giúp Việt
Nam tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hoàn
thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh cải cách
hành chính; tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương và phòng chống tham
nhũng, lãng phí và quan liêu.
3.2. Thách thức
Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng luôn đi
kèm với các rủi ro và thách thức. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cũng như của
nước ta trong 30 năm đổi mới, hội nhập vừa qua cho thấy mặt thuận lợi là cơ bản,
chủ yếu; rủi ro và thách thức là có thể kiểm soát được nếu có sự thống nhất về
nhận thức rủi ro và hành động để phòng chống rủi ro, vượt qua thách thức.
3.2.1. Thách thức về kinh tế
Thương mại hàng hóa
Với một số chủng loại nông sản mà Hoa Kỳ và một số nước khác trong TPP
(Australia, New Zealand, Chile) có thế mạnh, sức ép cạnh tranh là khá lớn khi
330
- thuế được đưa về 0%, trong đó nổi bật là thịt lợn, thịt gà. Đây là những mặt hàng
mà Việt Nam đã sản xuất được nhưng sức cạnh tranh còn yếu. Một số nông sản
khác cũng sẽ gặp khó khăn nhưng ở mức độ thấp hơn vì những sản phẩm này
Việt Nam vẫn phải nhập khẩu với số lượng lớn, trong nước dù sao cũng đã quen
với cạnh tranh, đó là sản phẩm sữa, đậu tương, ngô và nguyên liệu sản xuất thức
ăn gia súc.
Một số sản phẩm công nghiệp mà nước ngoài có thế mạnh cũng có thể gây
khó khăn cho sản xuất của Việt Nam như giấy, thép, ô tô. Tuy nhiên, có cơ sở để
cho rằng sức ép cạnh tranh sẽ không nhiều vì sản phẩm của Việt Nam hướng đến
phân khúc thị trường trung bình trong khi sản phẩm của các nước TPP thường
hướng đến phân khúc thị trường cao cấp.
Một số sản phẩm các nước TPP có sản xuất, thuế nhập khẩu của Việt Nam
đang được duy trì ở mức cao, nhưng việc hạ thuế về 0% chủ yếu sẽ gây giảm thu
thuế nhập khẩu là chính, không gây ra sức ép cạnh tranh, bao gồm bánh kẹo, chất
tẩy rửa, đồ trang sức, sản phẩm kim loại (chủ yếu là đồ bếp), điều hòa không khí,
đồ nội thất, xe mô tô phân khối lớn, rượu, thuốc lá.
Để vượt qua thách thức này, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp - chăn nuôi,
Việt Nam sẽ phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội đổi mới mô hình
tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt coi trọng cơ cấu lại ngành nông
nghiệp, tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng khoa học & công nghệ... để sản
phẩm nông nghiệp của Việt Nam đủ sức đứng vững trên sân nhà5. Với những
chương trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp như việc triển khai cánh đồng mẫu
lớn Việt Nam cần sớm rút kinh nghiệm để nhân rộng và phát triển hợp lý trong
tương lại. Theo kết quả đàm phán, mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông
nghiệp cũng sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ
cấu lại.
Với các sản phẩm khác, giải pháp chủ yếu cũng là kéo dãn lộ trình giảm
thuế để có thời gian tái cơ cấu sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư quy mô lớn
và áp dụng công nghệ cao để nâng dần sức cạnh tranh. Theo hướng đó, lộ trình
cần được sử dụng một cách chủ động, hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại vào lộ trình
dẫn đến chậm đổi mới và từ đó là bị động, lúng túng khi thách thức đến. Đặc biệt,
cần đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi doanh nghiệp
5
Hiện nay, nhiều Tập đoàn lớn của Việt Nam đã quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với các
công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến trên thế giới. Với công nghệ và phương thức quản lý hiện đại,
các sản phẩm do các Tập đoàn này làm ra hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trên sân nhà.
331
- đều nhận thức được cơ hội và thách thức của TPP nói riêng cũng như tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các FTA thế hệ mới nói chung.
Thương mại dịch vụ và đầu tư
Mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư sẽ không ảnh hưởng tới quyền chủ
động của Nhà nước trong quản lý, cụ thể là không ảnh hưởng tới quyền áp dụng
các biện pháp quản lý không mang tính phân biệt đối xử, theo các tiêu chí minh
bạch, áp dụng chung. Nói cách khác, mở cửa theo TPP chỉ làm tăng cạnh tranh
thương mại, không ảnh hưởng tới quyền quản lý của Nhà nước nhằm đáp ứng các
mục tiêu công cộng, chính đáng và vì vậy, không gây ra tác động bất lợi cho an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền riêng tư của công dân cũng như thuần
phong mỹ tục trong xã hội.
Với các lĩnh vực còn lại, kết quả đàm phán dự kiến sẽ không gây xáo trộn
lớn vì đa phần tương đương với độ mở hiện hành.
3.2.2. Thách thức về hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế
Các tiêu chuẩn cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của bộ
máy Nhà nước sẽ đặt ra những thách thức lớn cho bộ máy quản lý. Tuy nhiên,
đây cũng là những tiêu chuẩn mà Việt Nam đang hướng đến để xây dựng một
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực sự của dân, do dân và vì dân, với
đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực, kỷ luật, kỷ cương. Chính phủ
sẽ chủ động xây dựng chương trình để thực hiện các tiêu chuẩn cao này của TPP.
Để thực thi cam kết trong TPP, sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi một số quy định
pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường …
Tuy nhiên, như kinh nghiệm gia nhập WTO đã chỉ ra, với sự chuẩn bị nghiêm túc
và nỗ lực cao, Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện thành công khối lượng công
việc này, nhất là khi Việt Nam được quyền thực hiện theo lộ trình.
3.2.3. Thách thức về xã hội
Cạnh tranh tăng lên khi tham gia TPP có thể làm cho một số doanh nghiệp,
trước hết là các doanh nghiệp vẫn dựa vào sự bao cấp của Nhà nước, các doanh
nghiệp có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu rơi vào tình trạng khó khăn,
kéo theo đó là khả năng thất nghiệp trong một bộ phận lao động sẽ xảy ra. Tuy
nhiên, do phần lớn các nền kinh tế trong TPP không cạnh tranh trực tiếp với Việt
Nam, nên ngoại trừ một số ít sản phẩm nông nghiệp, dự kiến tác động này là có
tính cục bộ, quy mô không đáng kể và chỉ mang tính ngắn hạn.
332
- Đồng thời, với cơ hội mới có được, Việt Nam sẽ có điều kiện để tạo công ăn
việc làm mới, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang các ngành mà Việt Nam thực
sự có lợi thế cạnh tranh.
3.2.4. Thách thức về thu ngân sách
Do tỷ trọng thu ngân sách từ thuế nhập khẩu đang giảm dần qua các năm,
việc xóa bỏ thuế nhập khẩu lại được thực hiện theo lộ trình, nên về cơ bản sẽ
không gây tác động lớn và đột ngột. Bên cạnh đó, khi xóa bỏ thuế nhập khẩu theo
lộ trình, thu ngân sách từ thuế nhập khẩu có thể giảm nhưng bù lại, số thu từ các
sắc thuế khác sẽ tăng lên do sản xuất, kinh doanh phát triển, không những đủ để
bù đắp số thu mất đi từ thuế nhập khẩu mà còn bổ sung thêm cho ngân sách nhà
nước. Việc tính toán tác động của Hiệp định TPP lên nguồn thu từ hàng nhập
khẩu, vì vậy, cần được xem xét theo cả 2 hướng. Thực tiễn cho thấy việc giảm
thuế nhập khẩu theo cam kết WTO và theo 8 FTAs đã có hiệu lực không ảnh
hưởng tiêu cực tới thu ngân sách. Tổng thu từ hàng nhập khẩu vẫn tăng đều hàng
năm kể từ năm 2006.
Với thuế xuất khẩu, do Việt Nam giữ lại thuế xuất khẩu đối với một số mặt
hàng quan trọng nhất như dầu thô, than đá, một số loại khoáng sản kim loại nên
dự kiến tác động đến thu ngân sách sẽ không đáng kể.
4. Vị trí của Việt Nam và quan điểm hướng đến TPP
Trước năm 2010, phần lớn các hiệp định FTA mà Việt Nam tham gia đều
trong khuôn khổ ASEAN với các nước đối tác và chủ yếu tập trung ở khu vực
Đông Á. Sự gần gũi về vị trí địa lý kết hợp với quan hệ thương mại tự do đã khiến
trên 60% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam gắn với khu vực Đông Á.
Với các nước có trình độ phát triển cao và cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu
có tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa của Việt Nam (như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand), các FTA về cơ bản đem lại hiệu ứng tăng trưởng xuất
khẩu như mong đợi. Với những nước có cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu cạnh
tranh với Việt Nam (như Trung Quốc, các nước ASEAN, Ấn Độ), hiệu ứng tăng
trưởng xuất khẩu và giảm nhập siêu chưa được như mong muốn.
Xuất phát từ đây, thúc đẩy đàm phán ký kết FTA với một số nước ở các khu
vực khác có thị trường tiêu thụ lớn và cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu mang tính
bổ sung cho cơ cấu hàng hóa của Việt Nam là một trong những giải pháp quan
trọng giúp Việt Nam tạo dựng được cơ cấu thị trường cân đối, ổn định lâu dài,
333
- phục vụ cho công cuộc chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với tầm nhìn đó, từ năm 2010, Việt Nam đã đồng thời khởi động đàm phán
TPP và đàm phán FTA với Liên minh châu Âu, Liên minh kinh tế Á - Âu (gồm
Nga, Bêlarus, Kazacxtan, Ácmênia và Kirơgixtan), Hàn Quốc và Khối các nước
EFTA (Nauy, Thụy Sỹ, Aixơlen, Lichtenxtai)6.
Tuy là nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, nhưng các nước đánh giá cao
việc Việt Nam tham gia đàm phán TPP vì các lý do sau đây:
Một là, trong những năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã chứng tỏ là một
quốc gia năng động, nhất quán thi hành đường lối đổi mới; nghiêm túc trong việc
thực thi cam kết quốc tế; có môi trường chính trị ổn định và đang có vai trò ngày
càng quan trọng trong khu vực; là một đối tác quan trọng trong hiện tại và tương
lai, có thể giúp tăng ảnh hưởng của TPP.
Hai là, Việt Nam có quy mô dân số đáng kể, nền kinh tế phát triển năng
động, hứa hẹn trở thành thị trường có sức mua lớn, là điểm đến được doanh nghiệp
các nước, nhất là tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hết sức quan tâm.
Ba là, Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Việt Nam tham gia
thành công vào TPP là bằng chứng thuyết phục về việc Hiệp định TPP thực sự
quan tâm đến các nước đang phát triển (thông qua các biện pháp đa dạng để hỗ
trợ một nước đang phát triển thực thi các tiêu chuẩn cao của Hiệp định). Đây là
yếu tố quan trọng, giúp thu hút các nước có trình độ phát triển kinh tế chưa cao
cùng tham gia vào TPP để TPP có thể mở rộng trong tương lai.
5. Kết luận
Kể từ khi chính thức khởi động vào tháng 3 năm 2010, đàm phán TPP đã
trải qua hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp Bộ
trưởng. Lãnh đạo các nước TPP cũng đã nhiều lần gặp nhau để thảo luận các biện
pháp thúc đẩy đàm phán. Có thể nói TPP là FTA có tần suất đàm phán và cấp
tham gia đàm phán cao nhất trong số các FTA mà Việt Nam đã tham gia. Cuối
cùng thì các nước cũng đã thống nhất ký kết TPP và nó sẽ có hiệu lực trong vòng
khoảng 2 năm tới.
Gồm 30 chương với các chủ đề, Hiệp định TPP được hy vọng sẽ tạo ra một
mô hình mới về hội nhập và hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi hơn nữa cho
6
Trong số các FTA này, Việt Nam đã kết thúc đàm phán với Liên minh Kinh tế Á - Âu và Hàn Quốc;
đồng thời đạt được thỏa thuận nguyên tắc về việc kết thúc đàm phán với Liên minh châu Âu.
334
- dòng chảy thương mại và đầu tư và nếu có thể thì biến TPP thành hạt nhân để
hình thành một khu vực thương mại tự do chung cho toàn khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Qua đó, những nước chưa có quan hệ FTA với Hoa Kỳ như Nhật
Bản, Nea Zealand, Malaysia và Việt Nam đều mong muốn thông qua TPP để thiết
lập FTA với Hoa Kỳ và tiếp cận thị trường rộng lớn này.
Thông qua nghiên cứu này, ta thấy cơ hội cũng nhiều khi gia nhập TPP
nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ. Tuy nhiên, việc tham gia TPP cũng
như hội nhập kinh tế sâu rộng của kinh tế Việt Nam với thế giới là khách quan.
Mặc dù thách thức nhiều nhưng không phải là chúng ta không vượt qua được, vấn
đề ở đây là vai trò điều tiết của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như sự vận
động tích cực của chính các doanh nghiệp thì hy vọng rằng chúng ta sẽ tận dụng
được thời cơ này để phát triển kinh tế và phát triển doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu này, theo nhóm tác giả thì việc cần làm ngay từ phía các cơ
quan quản lý Nhà nước là tuyên truyền phổ biến nội dung cơ bản của TPP đến với
những người quan tâm và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, nhiều
hình thức cần được triển khai như (i) truyền thông qua các bài viết nghiên cứu;
các bài nói chuyện; phóng sự; tin tức; phim ảnh; (ii) biên soạn và phát hành các
ấn phẩm thông tin tuyên truyền; tài liệu giáo trình; sách chuyên khảo...; (iii) tổ
chức sự kiện, hội thảo, hội nghị, buổi tọa đàm; (iv) websites, email, tư vấn nghề
nghiệp; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về TPP, FTAs ...
Từ phía chính các doanh nghiệp Việt Nam, cần tự nghiên cứu kết hợp với
tham gia các hội thảo và các kênh truyền thông khác để hiểu về nội dung cơ bản
của TPP, FTAs ... để tự xác định xem mình đang đứng ở đâu trong quá trình triển
khai thực hiện TPP, FTAs; qua đó xác định các mặt mạnh và điểm yếu mà mình
hiện có để nhận diện được các rủi ro và đưa ra các biện pháp đối phó với các rủi
ro nảy sinh. Trước khi để nhận được sự giúp đỡ của Nhà nước và các cơ quan liên
quan; các doanh nghiệp phải tự giải quyết với chính vài toán mà mình đang phải
đương đầu. Không phải chỉ có thách thức mà TPP và FTAs mang lại mà nó còn
mở ra rất nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển.
335
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Claude Barfield (2011), ‘The Trans-Pacific Partnership: a model for
twenty-first-century trade agreement’. International Economic Outlook,
No. 2, June.
2. Brock R. Williams (2013) ‘Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries:
Comparative Trade and Economic Analysis.
3. Jefferey H. Bergstrand (1985), ‘The gravity equation in international
trade: some microeconomic foundations and empirical evidence’,
Review of Economics and Statistics, 67(3), pp.474-481.
4. Peter Egger (2000), ‘A note on the proper econometric of the gravity
equation’, Economics Letters, 66 (1), pp. 25-31.
5. Saw Rojid (2006), ‘COMESA trade potential: a gravity approach’,
Applied Economics Letters, 13(14), pp.947-951.
6. Shiro Armstrong (2011), ‘Australia and the Future of the Trans-Pacific
Partnership Agreement, Working Paper Series No. 71.
7. The China-ASEAN FTA forms the world’s largest FTA, comprising 1.9
billion consumers and US$4.3 trillion in trade.
336
nguon tai.lieu . vn