Xem mẫu
- NHỮNG XU THẾ MỚI CỦA CÔNG NGHỆ TRONG GIÁO DỤC
GS.TS. Nguyễn Quý Thanh
TS. Tôn Quang Cường
Trường ĐHGD, ĐHQGHN
1. Bối cảnh giáo dục và ứng dụng công nghệ trong giáo dục hiện nay
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc UNESCO dự báo:
Công nghệ thông tin (CNTT) sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản và toàn
diện, có hệ thống và mang tính hội nhập cao vào đầu thế kỉ XXI. Sự bùng nổ và phát
triển về công nghệ giáo dục sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi truyền thống,
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền giáo dục mang tính chuyển đổi sâu sắc vì con
người (“dạy học cho mọi người và mỗi người”, “sự gia tăng tri thức và nhu cầu chia
sẻ”, “tập trung hóa kiến thức và dịch chuyển năng lực”, “các yếu tố bền vững, truyền
thống và sự hội nhập trong không gian giáo dục”…). Quá trình này dẫn đến sự cần
thiết phải nhìn nhận lại giá giá trị và ý nghĩa của việc dạy học (giáo dục nói chung)
dưới góc độ mối quan hệ giữa sự phát triển của công nghệ và những thay đổi về bản
chất của quá trình thực thi các chương trình giáo dục.
Vấn đề định hướng chiến lược, định vị bản chất thực của giáo dục càng trở nên
cấp thiết: cần phải đào tạo, hình thành và phát triển những con người của xã hội, cho
xã hội và vì sự phát triển của xã hội. Một hệ thống nội dung thiếu sự gắn kết trực tiếp
với đời sống xã hội, quá hàn lâm, kinh viện, bỏ qua những thứ đang hiện hữu trong
cuộc sống sẽ là những rào cản trong quá trình đào tạo ra những con người của xã hội
hiện nay.
Báo cáo tại Diễn đàn kinh tế thế giới 2016 tại Davos với sự tham gia của hơn
2500 nhân vật ảnh hưởng và quyền lực nhất thế giới đã chia sẻ con số đáng suy ngẫm:
65% số người học vẫn học những thứ liên quan đến nghề nghiệp tương lai mà hiện nay
đã không còn tồn tại; 47% nghề nghiệp hiện nay sẽ được chuyển sang tự động hóa
trong 2 thập kỉ tới và đến năm 2020, hơn 50% nội dung dạy học trong nhà trường các
cấp sẽ không còn hữu dụng trong vòng 5 năm sau đó (Klaus Schwab, 2016).
Những sự thay đổi mang tính thách thức toàn cầu hiện nay đang chịu tác động
của 4 nhóm yếu tố: i). tác động xã hội; ii). hành động chiến lược; iii). tài năng và nhân
lực lao động; iv). tác động công nghệ (Bersin, Deloitte Consulting LLP, 2018). Cũng
trong báo cáo này, Tổ chức Deloitte Consulting đã chỉ rõ 7 nhân tố đột phá
1
- (desruptors) sẽ xuất hiện trong tương lai gần, bao gồm: sự xuất hiện của công nghệ
khắp mọi nơi; cơn bão dữ liệu; sự da dạng và thay đổi nhanh chóng của lớp người thế
hệ trẻ; sự thay đổi nhanh chóng về bản chất của nghề nghiệp; trí tuệ nhân tạo, máy tính
biết nhận thức và robot; tự động hóa trong công việc; và sự bùng nổ đội quân lao động
làm công việc ngẫu nhiên (Deloitte Consulting, 2018).
Không phải ngẫu nhiên khi trong lộ trình tìm kiếm những khả năng dung hòa
các yêu cầu của xã hội với năng lực đáp ứng của nhà trường, cơ hội học tập được cung
cấp và yêu cầu phát triển cá nhân, công nghệ (mà trước hết là công nghệ thông tin -
CNTT) luôn được ưu tiên lựa chọn như một giải pháp “đặt cược niềm tin”! Trong bối
cảnh hiện nay, các thành tố cấu thành nên một quá trình giáo dục, nền giáo dục cần
được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng giữa sự tích lũy, làm giàu và chia sẻ
thông tin, kiến thức phục vụ cho các “công dân số” (digital citizen). Do vậy, sự can dự
của CNTT là điều tất yếu để giải quyết “nhóm mâu thuẫn chính” ngày càng sâu sắc
giữa:
- Sự gia tăng và dịch chuyển dân số, năng lực nghề nghiệp mới, khả năng thích
ứng trước sự thay đổi công việc nhanh chóng (với số lượng việc làm mất đi và xuất
hiện trong thời gian rất ngắn, tần suất cao)…với quá trình giáo dục cho mọi người, cho
mỗi người và học tập suốt đời;
- Sự công bằng trong tiếp cận và nhu cầu đa dạng, không giới hạn về giáo dục,
tiếp cận tri thức mới;
- Tính cạnh tranh về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực (công dân số);
- Quá trình sản xuất của cải và “sản sinh” tri thức; những yêu cầu về năng lực
mới của người học trong thế kỉ 21 và sự đáp ứng của các thiết chế giáo dục, đào tạo…
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định “giáo dục là quốc sách
hàng đầu...; đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển”. Để phù hợp với xu
hướng phát triển chung của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước, nhất thiết phải đổi mới căn bản các quá trình giáo dục theo hướng ứng dụng các
công nghệ mới, phát huy tính tích cực chủ động của người học để nâng cao chất lượng
giáo dục. Tinh thần đó đã được gợi mở và thể hiện xuyên suốt 7 quan điểm chỉ đạo về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của trong Nghị quyết TW 8, khóa XI
của BCH TƯ Đảng (Nghị quyết 29).
2
- 2. Các xu thế công nghệ trong giáo dục hiện nay
Tiếp cận giáo dục, dạy học thông minh được nhắc đến từ những năm đầu thế kỉ
XXI và ngày càng được nghiên cứu và phát triển theo các mô hình đa dạng (4C - Kĩ
năng thế kỉ 21, CBE - dạy học phát triển năng lực, OBE - dạy học theo tiếp cận đầu ra,
dạy học theo mô hình VSK - giá trị, kĩ năng, kiến thức v.v.). Trong đó nhấn mạnh đến
sự chuyển đổi từ cách dạy học truyền thống sang một phương thức mới theo tiếp cận
công nghệ với các mô hình dạy học phi truyền thống.
Về tổng thể, giáo dục thông minh (SMART Education) được hiểu là “sự tích
hợp toàn diện công nghệ, khả năng tiếp cận và kết nối mọi thứ qua Internet bất cứ lúc
nào và ở đâu” (Uskov, V., Howlet, R. Jain, L., 2017); cần phải thực hiện đồng bộ, toàn
diện mọi mặt dựa trên nền tảng ứng dụng CNTT, bao gồm: lớp học thông minh (Smart
Classroom-SmCl), môi trường thông minh (Smart Environment-SmE), người dạy
thông minh (Smart Teacher-SmT), khuôn viên thông minh (Smart Campus-SmC), nhà
trường thông minh (Smart School-SmS). Trong các nghiên cứu, việc đánh giá hoạt
động giáo dục (nhà trường) thông minh được dựa trên các tiêu chí sau: sự sẵn sàng
chấp nhận và thích ứng công nghệ, các chỉ số xác định về ứng dụng công nghệ, mức
độ “thông minh” của các tác vụ, hoạt động trong lớp học, nhà trường, trang bị hạ tầng
cơ sở vật chất.
Trong mô hình “SMARTER Education” các thành tố được thiết lập theo một hệ
thống chỉnh thể, có tác động tương hỗ, thúc đẩy chất lượng và hiệu quả của quá trình
giáo dục. Với các thành tố bao gồm: S (self-directed): tự định hướng; M (motivated):
tạo động lực; A (adaptive): tính thích ứng cao; R (resources): các nguồn lực, tài
nguyên, học liệu mở rộng; T (technology): dựa trên nền tảng công nghệ; E
(engagement): khuyến khích sự tham gia; R (relevance): sự phù hợp. Mô hình này có
thể tác động mạnh vào quá trình giáo dục theo những chiều hướng sau:
- Sự thay đổi trong kì vọng của người học và khả năng đáp ứng của các nhà
trường (khả năng thích ứng, có việc làm và tự tạo việc làm sau tốt nghiệp; khả năng
duy trì và phát triển chuyên môn nghề nghiệp; cơ hội học tập suốt đời…);
- Sự đa dạng hóa các “sản phẩm giáo dục”, quá trình đảm bảo và nâng cao chất
lượng giáo dục nhờ cơ sở dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi giá trị trong giáo dục;
- Sự thay đổi trong mối quan hệ, vai trò, vị trí của người dạy và người học trong
quá trình dạy học, trong hệ sinh thái giáo dục;
3
- - Sự thay đổi của môi trường dạy học, khuôn viên học tập với các dạng học liệu
đa chức năng;
- Sự thay đổi các mô hình quản lí, điều hành trong giáo dục, dạy học trên nền
tảng kĩ thuật số mới.
Về bản chất, với sự trợ giúp của công nghệ mới, giáo dục thông minh cần phải
tạo được một phương thức hoàn toàn khác với giáo dục mang tính đại trà, “đồng
phục”, hướng đến sự phân hóa, cá thể hóa và cá nhân hóa cao độ. Hệ thống kết nối con
người - thông tin - vật thể, máy móc tạo thành một chuỗi liên kết trong đào tạo, nghiên
cứu và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình chuyến đổi thiết chế giáo dục thành
một hệ sinh thái đổi mới và sáng tạo. Như vậy, thay vì cung cấp kiến thức, nội dung
dạy học, “đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” theo chương trình cứng nhắc, các nhà
trường nên đào tạo kĩ năng (sử dụng thông tin, kiến tạo tri thức và ra quyết định), ươm
tạo tài năng, phát triển tầm nhìn cho người học, với mô hình “một người học, đa
chương trình, đa khuôn viên”.
Trong bối cảnh đó có thể nhìn nhận giáo dục như là một quá trình công nghệ,
sản phẩm công nghệ có thể đóng gói, chuyển giao và như là một quá trình ứng dụng,
thẩm thấu các thành tựu của lĩnh vực công nghệ khác.
2.1. Nền tảng số cho giáo dục (Digital education platform)
Năm 2012 UNESCO đã khuyến cáo về xu thế và khả năng giáo dục vượt ra
khỏi những bức tường lớp học và nhà trường truyền thống để vươn tới một không gian
giáo dục “suốt đời” và “hướng vào cuộc sống” (Life-long and life-wide learning), tạo
công bằng, cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người. Cách tiếp cận này đã gợi mở cho
hàng loạt các hình thức giáo dục/dạy học mới (chính thức hoặc không chính thức trên
nền tảng chia sẻ kiến thức và mang tính xã hội sâu rộng), được đặt trong một phạm trù
khái quát là giáo dục số (Digital education), bao gồm một số nền tảng chính:
- E-learning (Electronic learning): Dạy học điện tử với khả năng tổ chức các
không gian giáo dục, học tập mở, khả năng tương tác mạnh mẽ giữa các chủ thể tham
gia và thông tin kiến thức (bao gồm các phương thức dạy học trực tuyến - Online
learning và dạy học hỗn hợp hợp - Blended learning; dạy học đảo ngược - Flipped
learning).
4
- - M-learning (Mobile learning): Dạy học linh hoạt với khả năng đáp ứng tối đa
các nhu cầu học tập, phát triển cá nhân.
- U-learning (Ubiquitous learning): Dạy học linh hoạt tức thời (just in time) với
khả năng đáp ứng, chia sẻ nhanh chóng tại bất kì thời điểm, không gian, địa điểm nào
với bất kì nhu cầu học tập nào của người học.
- Hệ thống khóa học trực tuyến mở rộng (Massive Online Open Courses -
MOOCs), hệ thống khóa học đặc thù riêng cho cá nhân (Small Private Online Courses
- SPOCs): là một nền tảng các khóa học trực tuyến miễn phí đáp ứng tối đa nhu cầu
học tập theo năng lực, sở thích và điều kiện hoàn cảnh cá nhân; tăng cơ hội tiếp cận và
sự tham gia của người học theo phương thức giáo dục mở và trực tuyến.
Các hạ tầng của giáo dục số trong bối cảnh ứng dụng kết nối vạn vận trên nền
tảng Internet (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây hiện nay đã mang lại
nhiều cơ hội và khả năng to lớn giúp cho việc tái tạo, sản sinh tri thức, chia sẻ thông
tin, “san bằng” các rào cản trong việc tiếp cận kiến thức. Đặc biệt, cùng với sự phát
triển của công nghệ, giáo dục số sẽ dần trở thành một “hình thái quan hệ học tập mới”
làm thay đổi mô hình dạy học vốn tồn tại khá lâu theo hệ hình từ trên xuống (Top -
Down) hoặc dưới lên (Bottom - Up) sang hệ hình mạng lưới, mang tính chia sẻ xã hội
(Social sharing) trong đó, người học sẽ trở thành trung tâm của mạng lưới học tập
mang tính xã hội.
2.2. Người học số (Digital learner)
Cùng với các cơ hội tiếp cận công nghệ mới trong giáo dục, người học ngày
càng trở thành “trung tâm của việc học của chính họ”, tự do hơn trong định hướng và
lựa chọn nội dung theo nhu cầu và quá trình học tập, do đó, càng mang dấu ấn “cá
nhân hóa” một cách đậm nét hơn. Mặt khác, công nghệ cũng hỗ trợ và cho phép bất kì
người học nào cũng có thể tìm kiếm, đóng góp, chia sẻ, xử lí dữ liệu, biến họ trở thành
“người đồng sáng tạo ra tri thức mới” để đóng góp vào “trí thông minh của số đông”.
Theo xu hướng này, quá trình dạy học ngày càng hướng đến người học mạnh
mẽ, được chuyển hóa định hướng theo các nhánh:
- Dạy học chính thức theo chương trình được xác lập (bao gồm cả dạy học trực
tiếp và trực tuyến);
- Dạy học theo định hướng cá nhân (các nội dung và hình thức đáp ứng nhu cầu
riêng của cá nhân, định hướng bởi năng lực, tốc độ, sở thích của cá nhân…);
5
- - Dạy học theo định hướng nhóm bên trong một thiết chế tổ chức cụ thể (ví dụ,
một lớp học, trong nhà trường,…) và nhóm mạng lưới (đáp ứng các nhu cầu của nhóm
mạng lưới bên ngoài tổ chức);
- Dạy học ngẫu nhiên (học cái gì, học ở ai, vào bất cứ thời điểm nào theo nhu
cầu cá nhân, “ngẫu nhiên, tình cờ”).
Quá trình số hóa và bình đẳng trong tiếp cận giáo dục số thúc đẩy mạnh mẽ
việc sản sinh nội dung tri thức, biến các nội dung dạy học theo những định dạng thông
thường trước đây thành các gói siêu dữ liệu (Meta-data), “nội dung di động”
(Mobile/potable content) bằng các phương thức khác nhau (trên nền tảng trực tuyến)
đáp ứng nhu cầu của xã hội thông tin.
Trong quá trình tự định hướng học tập, lựa chọn các nội dung phù hợp theo nhu
cầu, phong cách học, sở thích và định hướng nghệ nghiệp của cá nhân, người học số sẽ
lựa chọn các thiết bị di động cầm tay (wearable devices) phù hợp, có khả năng tương
tác đa diện, đa chiều, đa đối tượng; sử dụng các Apps giáo dục (ứng dụng chạy trên
nền tảng thiết bị di động) để kết nối dễ dàng với cơ sở dữ liệu lớn, các nguồn học liệu
số đa định dạng (game học tập, mô phỏng, 3D tương tác, E-book tương tác, video
tương tác 3600…).
Hiện nay, tiếp cận dạy học cho phép sử dụng thiết bị cầm tay trong lớp học
BYOD đang là xu hướng phổ biến hiện nay trong giáo dục trên thế giới. Máy tính
bảng, máy tính xách tay, thiết bị kết nối thông minh (bảng, thiết bị dạy học thông
minh…) cho phép người học sử dụng các nền tảng điện toán đám mây, hạ tầng Web…
để dễ dàng chia sẻ, tương tác trong học tập, thay thế các công cụ thiết bị dạy học
truyền thống (bảng, sách, tài liệu in, đồ dùng thiết bị dạy học trực quan v.v.).
2.3. Người dạy số (Digital teacher/educator)
Ứng dụng các công nghệ mới hiện nay, người học có thể kết nối với các nguồn
thông tin đa dạng về lĩnh vực, phong phú về định dạng, vượt ra khỏi khuôn viên vật lí
của nhà trường. Điều này đặt thêm yêu cầu mới bổ sung vào hệ thống chức năng
nhiệm vụ của người dạy/nhà giáo dục: “nhà kết nối”, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả và đánh giá xác thực các quá trình giáo dục bằng giải pháp công nghệ số. Đây
cũng cơ hội và thách thức đối với các cơ sở đào tạo giáo viên thế hệ mới, những người
sẽ phải làm chủ các công nghệ giáo dục.
6
- Trên nền tảng công nghệ, người dạy thực hiện vai trò kết nối tức thời (just in
time) người học với nguồn dữ liệu, học liệu, kết nối cộng đồng người học với nhau,
các chủ thể liên quan (Stakeholders) và với các môi trường học tập mới (thực-ảo) giàu
tính trải nghiệm. Đồng thời chính “thầy giáo số” cũng là người sẽ hỗ trợ người học
tiếp cận, chấp nhận và truyền cảm hứng cho người học để sử dụng công nghệ, xóa bỏ
hội chứng sợ công nghệ (Technophobia) trên các nền tảng kết nối số, dạy học trực
tuyến, dạy học hỗn hợp, dạy học đảo ngược, tương tác thông minh qua các Apps ứng
dụng… Mặt khác, để thực hiện vai trò kết nối số, người dạy cần liên tục học hỏi, tiếp
cận, cập nhật và quản lí được các nhóm giải pháp công nghệ giáo dục (theo thống kê,
hiện có khoảng 4 lĩnh vực, hơn 30 nhóm giải pháp lớn với hơn 2000 công cụ hỗ trợ
dạy học. Đó là chưa kể đến hàng ngàn Apps dạy học liên tục được cập nhật, bổ sung
và phát triển).
Việc xuất hiện xu hướng sử dụng các Apps hỗ trợ học tập với tư cách là “nhà
giáo ảo”, sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), kết nối
Internet vạn vật (IoT), máy học (Learning machine), học sâu (Deep learning), Robot
dạy học…Các giải pháp này không chỉ nới rộng không gian, cơ hội, làm tăng chất
lượng học tập cho người học mà còn hỗ trợ mạnh mẽ cho “người dạy số” trên các
phương diện: tổ chức quá trình dạy học (trong các thiết chế giáo dục chính thức, không
chính thức và phi chính thức, thu hút sự tham gia, cung cấp các dịch vụ học tập đa
dạng, quản lí và đảm bảo chất lượng…
2.4. Học liệu số (Digital learning resources)
Cùng với sự bùng nố hiện nay của công nghiệp nội dung số (DCI), lĩnh vực
giáo dục nói chung và phát triển học liệu số nói riêng đang đứng trước cơ hội phát
triển mạnh mẽ. Các nguồn dữ liệu thông tin, nội dung kiến thức giáo dục đầu vào được
số hóa (thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ) và chuyển giao qua công cụ số nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao về “đa giác quan hóa” và tương tác mạnh cho người học.
Được phát triển trên nền tảng, công cụ số theo nguyên tắc giàu nội dung, đa định dạng,
tương tác mạnh, tái sử dụng, dễ tiếp cận, tra cứu, chia sẻ và đóng góp… học liệu số
dần trở thành mục tiêu, phương tiện hữu hiệu trong các quá trình giáo dục.
Không chỉ dừng lại ở việc “số hóa văn bản” hay “học liệu mở” như trước đây,
các ứng dụng “game hóa” (gamification) tăng cơ hội nhập vai (immersive) và nhúng
người học vào các môi trường thực-ảo để giải quyết vấn đề; mô phỏng thực tế 3D (3D
7
- simulation), hoạt hình (animation), tạo ảnh (hologram), tạo video, bài giảng bằng trí
tuệ nhân tạo, E-book tương tác…đã giúp học liệu số không chỉ còn thuần túy cung cấp
thông tin, nội dung học tập mà còn tạo khả năng tương tác mạnh với những nội dung
đó cho người học.
2.5. Môi trường học tập số (Digital learning environment )
Việc áp dụng các nền tảng số trong giáo dục tạo ra các cơ hội để: i) kết nối hạ
tầng trong mọi lĩnh vực, mọi khâu của quá trình giáo dục và đào tạo; ii) tăng khả năng
tương tác và sự linh hoạt cho người học trong không gian và thời gian thực-ảo, môi
trường học tập thực-ảo (Physical-cyber environment interaction) dựa trên nền tảng số.
Quá trình tương tác của người học với các sản phẩm của trí tuệ nhân tạo (AI),
ứng dụng Robot trong dạy học, công nghệ nhận diện khuôn mặt (Face recognition),
tâm trắc (Biometrics), nhận diện cảm xúc (Emotive recognition)… sẽ tạo ra các cơ hội
tiếp cận thông tin mới mẻ, đa dạng và hiệu quả hơn đối với học tập cá nhân hóa.
Thực tế ảo (VR)/thực tế tăng cường (AR)/thực tế hỗn hợp (MR)/thực tế tạo ảnh
(CR)… sẽ tạo ra các cơ hội tương tác trong không gian vật chất/ảo, đa chiều, tăng khả
năng tiếp cận, xử lí thông tin; nới rộng không gian, môi trường học tập; phát triển năng
lực tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề.
Trong thời gian tới, công nghệ trong giáo dục được dự báo là sẽ tiếp tục tạo nên
những tiền đề thuận lợi để tổ chức các quá trình giáo dục mới về chất theo những xu
hướng sau: Tăng tính tương tác cá nhân hóa cao độ trong tổ chức hoạt động với người
học với các “gói” nội dung mở, linh hoạt; Tăng cơ hội, lịch trình, thời gian, không gian
học tập mở, lớp học/môi trường học tập ảo; Tạo chuỗi giá trị và gắn kết cao giữa cộng
đồng người học với đơn vị đào tạo (kể cả trường hợp sau khi tốt nghiệp), đơn vị tuyển
dụng; Tạo dựng chuỗi liện kết, hệ sinh thái giáo dục đổi mới và sáng tạo.
3. Sự chuyển đổi số trong Đại học Quốc gia Hà Nội
Mục đích chính trong định hướng phát triển giáo dục thông minh tại Đại học
Quốc gia Hà Nội là tiến tới xây dựng và vận hành mô hình đại học số, hệ sinh thái
trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao sản phẩm tiếp cận công nghệ 4.0, tạo sự liên
kết hữu cơ giữa các đơn vị đào tạo, nghiên cứu, hỗ trợ đào tạo, mang tính liên ngành
cao; đổi mới một cách tổng thể, hệ thống từ công nghệ dạy học đến các hoạt động học
tập, thực tế, giáo trình, học liệu, cơ sở vật chất, năng lực tiếp cận công nghệ của đội
ngũ giảng viên và các nhà nghiên cứu (Kế hoạch thực hiện đổi mới hoạt động giảng
8
- dạy ở ĐHQGHN giai đoạn 2019-2025). Trên cơ sở đó, các đơn vị thành viên chủ động
đề xuất các giải pháp triển khai cụ thể phù hợp với đặc thù của đơn vị mình.
Trong 2 năm trở lại đây ĐHQGHN đã triển khai đồng loạt, có hệ thống các giải
pháp tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ giáo dục số, đại học số, theo hướng áp
dụng các công nghệ dạy học tiên tiến, dạy học cá nhân hóa và phát huy tinh thần khởi
nghiệp, tăng khả năng thích ứng của người học với thị trường lao động, phát huy thế
mạnh của ĐHQGHN ở tính liên thông, liên kết, liên lĩnh vực, cơ sở vật chất và hạ tầng
công nghệ dùng chung, mạng lưới rộng lớn kết nối với các cơ sở đại học uy tín trên thế
giới… Lần lượt hàng loạt các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện được bạn hành,
làm rõ các nhiệm vụ cần thực hiện cho các đơn vị thành viên hướng đến xây dựng đại
học số trong toàn ĐHQGHN. Các đề tài, dự án chuyển đổi theo hướng đầu tư mạnh về
hạ tầng số, nghiên cứu và chuyển giao các qui trình, giải pháp công nghệ giáo dục
(phòng thí nghiệm chuyên đề, thực hành thí nghiệm, thư viện số, lab công nghệ,
trường quay ảo, phát triển học liệu số…). Đồng thời ĐHQGHN cũng đã tổ chức các
hội thảo, hội nghị tập huấn, lấy ý kiến chuyên gia giáo dục, công nghệ, các đơn vị hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ giáo dục trong và ngoài nước (Hàn Quốc, Hoa Kì,
Ireland…) phục vụ trực tiếp cho đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao sản phẩm.
Năm 2018 đáp ứng yêu cầu và xu hướng “giáo dục thông minh” Trường Đại
học Giáo dục đã thành lập Khoa Công nghệ Giáo dục, phát triển một số ngành đào tạo
mới trên nền tảng ứng dụng các công nghệ (Quản trị trường học, Quản trị Công nghệ
Giáo dục, Quản trị chất lượng, Tham vấn học đường) và cơ chế phối thuộc giữa các
đơn vị thành viên trong ĐHQGHN (Trường Đại học Công nghệ, Viện Công nghệ
thông tin, Viện Đảm bảo chất lượng, Trường ĐH Kinh tế...). Chương trình cử nhân
Quản trị Công nghệ Giáo dục được thực hiện theo hướng áp dụng các công nghệ mới
trong giáo dục, dạy học tích cực, tăng cường thực hành, dạy học dựa trên nghiên cứu
và trải nghiệm thực tế, khuyến khích tạo ra các sản phẩm đầu ra có khả năng ứng dụng
cao; tăng thời gian cho sinh viên tự nghiên cứu, thực hiện các dự án học tập. Tính mới,
hiện đại và khả năng đáp ứng xu thế công nghệ 4.0 trong giáo dục của chương trình
thể hiện ở sự cân đối giữa các khối kiến thức học phần về công nghệ, khoa học giáo
dục, khoa học quản trị và hội nhập nghề nghiệp. Cấu trúc linh hoạt theo 2 hướng
ngành (“Quản trị hệ thống thông tin trong giáo dục và đào tạo trực tuyến, ứng dụng
các công nghệ mới trong nhà trường” và “Thiết kế, phát triển và quản trị công nghệ
9
- giáo dục thông minh”), phương thức đào tạo Blended learning mềm dẻo, thực hành hội
nhập nghề nghiệp ngay từ giai đoạn đầu, hệ thống hạ tầng phục vụ đào tạo và nghiên
cứu hiện đại tạo nên sức hấp dẫn nhất định đối với người học. Đây là một chương
trình đào tạo hoàn mới, thí điểm, chưa từng có trong danh mục đào tạo và đáp ứng
đúng theo xu thế xuyên ngành của giáo dục 4.0.
Trong lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, năm 2018-2019 Dự án
“Chương trình đào tạo giáo viên - học giả nghiên cứu cho khu vực Thái Bình Dương:
Ứng dụng công nghệ hình ảnh trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập” (do Quĩ
FIRST, Bộ KH-CN tài trợ) được thực hiện với đối tác Hoa Kì (Trung tâm KHXH-NV
Quốc gia). Dự án nghiên cứu, phát triển và tích hợp các công nghệ địa không gian
(Geospatial Technologies) hỗ trợ thực hiện các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
hoặc ngoài thực địa, dạy học STEM và STEAM ở phổ thông; hệ thống thông tin địa lí
(Geographic Information System - GIS) và công nghệ thực tế tăng cường (Augmented
Reality - AR); công nghệ gắn thẻ địa lí (Geo-tag)… để xây dựng các bài giảng. Các
sản phẩm đầu ra này của Dự án FIRST được cấu trúc, tích hợp và phát triển trong một
dự án giáo dục khác với Đại học Hull (Vương Quốc Anh) nhằm tạo ra các học liệu số
trên nền tảng E-book tương tác thế hệ mới (cho các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học,
Lịch sử, Ngữ văn), dễ dàng đóng gói và phân phát trên các thiết bị di động và ứng
dụng trên điện thoại thông minh. Bên cạnh đó, hệ thống các công cụ, giải pháp công
nghệ được ứng dụng xuyên suốt trong các hoạt động đào tạo, quản lí quá trình dạy học
tại Trường ĐHGD, bước đầu hình thành môi trường dạy học kết nối, cá nhân hóa cao
độ trong dạy học tiếp cận công nghệ 4.0 (hồ sơ dạy học điện tử, phòng học và thiết bị
thông minh HeyU, HeyC, các ứng dụng Web 2.0, BYOD trong dạy học và kiểm tra
đánh giá các học phần…).
4. Kết luận và khuyến nghị
Những dự báo khả quan về xu hướng phát triển mạnh mẽ các công nghệ vật lí,
công nghệ số, sinh học môi trường… của nền công nghiệp 4.0 sẽ là những tiền đề, dữ
kiện tốt để các nhà giáo dục định hướng lại và thực thi các quan điểm một các đúng
đắn. Trong bối cảnh đó, các nhà trường, cơ sở giáo dục (hoạt động trong lĩnh vực công
nghệ giáo dục) nói chung, cơ sở đào tạo giáo viên nói riêng cần có sự chuẩn bị sẵn
sàng để khai thác, thích ứng các lợi ích do công nghệ mang lại.
Quá trình này cần được thực hiện đồng bộ, hệ thống trên các phương diện sau:
- Nhà nước cần có chính sách đầu tư cơ bản (hạ tầng nền tảng và giải pháp
công nghệ lõi cho các cơ sở giáo dục), chính sách huy động xã hội hóa, tạo cơ chế cho
10
- doanh nghiệp tư nhân đầu tư, triển khai công nghệ giáo dục cùng tham gia với nhà
trường trong hoạt động GD-ĐT; thực sự coi giáo dục là bộ phận của nền kinh tế tri
thức, áp dụng một cách linh hoạt, khoa học một số nguyên tắc và tiếp cận hoạt động
của hình thái kinh tế chia sẻ; Xây dựng các khung pháp lí phù hợp nhằm hỗ trợ thúc
đẩy và đánh giá tính hiệu quả các quá trình ứng dụng công nghệ trong giáo dục trước
bối cảnh công nghiệp 4.0 hiện nay;
- Nghiên cứu áp dụng các mô hình quản lí giáo dục theo tiếp cận công nghệ
(IoT, Big Data, Blockchain), quản lí nhà trường theo hướng mở, kết nối, dùng chung
hạ tầng công nghệ, cơ sở dữ liệu lớn; tạo cơ chế cho nhà trường chủ động xây dựng
chương trình tích hợp công nghệ, cho phép sử dụng thiết bị cầm tay kết nối trong lớp
học/nhà trường; quản lí hệ thống tổng thể trên nền tảng công nghệ;
- Đầu tư nâng cấp hạ tầng CNTT cho các cơ sở giáo dục đáp ứng nhu cầu học
tập cá nhân hóa, kết nối mọi chủ thể, đối tượng trong quá trình giáo dục, học mọi nơi,
mọi lúc; đáp ứng chỉ số “thông minh” của môi trường học tập, lớp học và nhà trường;
- Tăng cường năng lực, chỉ số đáp ứng CNTT và thiết bị công nghệ hiện đại cho
đội ngũ giảng viên, nhà giáo dục; phổ cập học vấn số thông qua các chương trình bồi
dưỡng, tập huấn thường xuyên; nhất là đối với đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng chuẩn
nghề nghiệp về ứng dụng CNTT và sử dụng thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo
dục;
- Xây dựng và phát triển các chương trình đào tạo nhân lực về công nghệ giáo
dục, quản trị các công nghệ giáo dục mới; tích hợp giữa công nghệ thông tin và giáo
dục trong các chương trình liên ngành/xuyên ngành; đổi mới chương trình đào tạo giáo
viên theo hướng nhà giáo dục-nhà sử dụng và phát triển công nghệ.
[[1]. https://www.gov.scot/publications/enhancing-learning-teaching-through-use-digital-
technology/pages/11/
[2]. https://www.gov.scot/publications/literature-review-impact-digital-technology-learning-
teaching/pages/13/
Strategic Principles
The following principles were identified as fundamental to effective learning and
teaching supported by digital technology. They were considered when developing this
11
- strategy and should be considered when developing future national and local
approaches to the use of digital technology in learning and teaching.
The best interest of learners - All decisions relating to the provision and
incorporation of digital technology in learning and teaching must be in the best interest
of learners.
Local leadership and national support - Approaches to learning and teaching
enhanced by digital technology work best when adapted to local contexts. It should be
for local leaders to make decisions concerning the use of digital technology to support
education. The Scottish Government and Education Scotland will support these local
decisions by providing advice and guidance.
Partnership working and sharing practice - In order for digital technology to
successfully enhance learning and teaching, partnership working, the sharing of
responsibility and the sharing of practice is essential. Our learners will only be able to
benefit fully from digital technology in education once this collaborative approach is
embedded.
Inclusion and opportunities for all learners - The unique flexibility offered by
digital technology allows educators to tailor their approaches to best suit individual
learners. When learners have the opportunity to learn in a way that best suits them,
they have the best opportunity to improve their educational outcomes.
Integration - Any successful approach to enhancing learning and teaching through the
use of digital technology must be integrated and aligned with relevant policies and
initiatives in both the education and digital sectors.
Sustainability and affordability - The prominence of digital technology in society
has grown rapidly in recent years and this trend shows no sign of slowing down. To
ensure that our children and young people can benefit fully for generations to come, it
is imperative that any developments are both sustainable and affordable.
12
- Evolution - Digital technology is constantly changing both in terms of the technology
itself and the pedagogies used to deliver learning and teaching enhanced by digital
technology. To ensure our children and young people benefit fully, our approaches
will need to be continuously reviewed and improved.
Actions being taken both through and beyond the Skills Investment Plan include:
A refresh of relevant elements of the curriculum, resulting in updated expectations and
an increased focus on digital skills development.
Digital Schools - a new programme bringing together industry and education
representatives to test innovative approaches to high level digital skills development in
secondary schools, using regional pathfinders with a view to developing a national
framework and transforming practice.
Digital World - an industry-led marketing campaign raising awareness of the varied
and attractive careers available to those with requisite digital skills and qualifications.
Digital Xtra - a co-ordinated approach to funding for extra-curricular activities such
as coding clubs, in particular encouraging girls and other under-represented groups to
develop these key skills.
A range of support to build teacher confidence and capacity. For example,
Education Scotland digital development officers offering support in the use of
technology and development of digital skills in primary schools across Scotland; with
new materials and free workshops available through the Barefoot Computing
programme; and a new Digital Schools Award available in primary schools.
Using the Digital Schools framework and other means to explore and respond
to professional development needs at secondary level.
Work to boost the number of Computing Science teachers, encouraging more
to enter the profession with our 'Inspiring Teachers' campaign, increased student intake
targets and efforts to develop innovative routes into the profession.
Ongoing work to expand and refresh the suite of qualifications available to
develop and accredit learners' digital skills (e.g. new National Progression Award in
Cyber Security).
13
- Developing new vocational digital pathways such as digital Foundation and
Graduate Apprenticeships to increase both the numbers of new entrants and
educational routes into the sector. This involves schools, colleges and universities
working in partnership with industry to ensure that these courses remain relevant to
industry requirements.
Plans for a Digital Gender Action Plan (due November 2016) to encourage
more young women to enter the Digital Technologies sector.
Investment in Cyber Security skills and promotion of the careers opportunities
available in this key sector of the digital economy. For example, opportunities for
senior pupils to attend a residential Cyber Camp at Glasgow Caledonian University
and a Cyber Skills day for girls at Napier University, through a partnership with
GCHQ.
A new Digital Skills Partnership building stronger links between employers,
colleges and universities with a view to improved knowledge sharing and the potential
for specific courses to be quality assured. This will ease the transition between
education and employment for many young people.
This wide-ranging series of actions will help to equip all young people with the
digital skills they need to thrive in modern society and the workplace, creating a
pathway into high quality careers in the Digital Technologies sector and wider
economy, thereby increasing national productivity and growth.
14
nguon tai.lieu . vn