Xem mẫu

  1. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |13 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM ĐÁP ỨNG NHU CẦU HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TS. Nguyễn Thị Hiền Oanh Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Trong giáo dục đại học, hai nhiệm vụ song song là giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Để đổi mới giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng cần phải quan tâm hơn nữa vấn đề nghiên cứu khoa học trong các trƣờng đại học. Ngày nay, các cơ sở giáo dục tại Việt Nam đã xác định hoạt động khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của mọi hoạt động. Và cơ sở giáo dục tại Việt Nam cần ứng dụng các hoạt động khoa học và công nghệ để nâng cao trình độ, chất lƣợng của giảng viên, nhà khoa học. Sự phát triển của hoạt động khoa học và công nghệ là động lực và phƣơng tiện để nâng cao chất lƣợng đào tạo. Vì vậy, mục tiêu chính của bài viết này là tìm ra những vấn đề đặt ra ảnh hƣởng đến hoạt động khoa học và công nghệ của các cơ sở giáo dục tại Việt Nam, từ đó đƣa ra các đề xuất để phát triển hoạt động khoa học và công nghệ ở các cơ sở giáo dục tại Việt Nam đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển. Từ khóa: Nghiên cứu khoa học, công nghệ, cơ sở giáo dục đại học, trƣờng đại học, Việt Nam 1. DẪN NHẬP Giảng dạy và nghiên cứu khoa học có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Nghiên cứu khoa học tạo cơ sở, tiền đề, điều kiện nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy trên lớp. Ngƣợc lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học là thƣớc đo năng lực chuyên môn của giảng viên. Nghiên cứu khoa học giúp giảng viên củng cố kiến thức chuyên môn, lựa chọn thông tin, kiến thức, bổ sung thêm lƣợng kiến thức mới để hoàn thiện những kiến thức của mình từ kiến thức chuyên ngành khác. Nghiên cứu khoa học cũng giúp giảng viên có điều kiện đào sâu, nắm bắt chặt chẽ hơn kiến thức chuyên môn mà mình trực tiếp giảng dạy, kịp thời điều chỉnh, bổ sung kiến thức chƣa chuẩn xác trong bài giảng của bình. Nghiên cứu khoa học một mặt vừa giúp cho giảng viên củng cố lại kiến thức chuyên môn, mặt khác có điều kiện mở rộng, hiểu biết nhiều hơn từ những kiến thức từ các chuyên ngành khác. Quá trình tham gia nghiên cứu khoa học sẽ góp phần phát triển tƣ duy, năng lực sáng tạo, khả năng làm việc độc lập, trau dồi tri thức và các phƣơng pháp nhận thức khoa học của giảng viên. Đồng thời, hình thành ở giảng viên những phẩm chất của nhà nghiên cứu. Trong quá trình tham gia nghiên cứu khoa học, giảng viên có thể là thành viên hoặc là chủ nghiệm đề tài. Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân giảng viên sẽ nảy sinh nhiều hƣớng giải quyết khác nhau, quá trình này sẽ giúp bản thân giảng viên rèn luyện và phát triển tƣ duy độc lập, tƣ duy phản biện để bảo vệ lập trƣờng khoa học của mình. Cũng trong quá trình thực hiện, triển khai đề tài, tự bản
  2. 14| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... thân giảng viên sẽ phát triển và hoàn thiện các kỹ năng cần thiết cho việc giảng dạy và nghiên cứu. Đó là những phẩm chất của một ngƣời giảng viên chuyên nghiệp. Nghiên cứu khoa học góp phần khẳng định uy tín của các cơ sở giáo dục đại học. Mỗi một bài viết tham gia hội thảo, đăng tạp chí khoa học trong nƣớc và quốc tế đƣợc đánh giá cao, mỗi công trình khoa học ở mỗi cấp, mỗi bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành gắn với tên cơ sở giáo dục đại học là một lần thƣơng hiệu và uy tín của nhà trƣờng đƣợc thể hiện. Trong những năm gần đây, hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trƣờng đại học có nhiều khởi sắc, đạt đƣợc những bƣớc tiến đáng kể, đƣợc thể hiện rõ nét nhất thông qua số lƣợng các công bố quốc tế, các bài báo khoa học đăng trong các tạp chí khoa học chuyên ngành. Đội ngũ nhà khoa học trong các trƣờng đại học tăng cả về số lƣợng và chất lƣợng, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu đƣợc quan tâm đầu tƣ, hoạt động nghiên cứu khoa học của các trƣờng đại học có những chuyển biến tích cực, các sản phẩm khoa học có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều sản phẩm khoa học đã đƣợc thƣơng mại hóa trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học vẫn chƣa trở thành thế mạnh của các trƣờng đại học, thậm chí với nhiều trƣờng, nó còn là điểm yếu. Kết quả nghiên cứu của các trƣờng đại học Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng; hoạt động nghiên cứu khoa học của các trƣờng vẫn nhỏ lẻ, tản mạn; chƣa có đóng góp nổi bật trong nâng cao chất lƣợng đào tạo và phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều giảng viên vẫn coi trọng nhiệm vụ giảng dạy hơn nhiệm vụ nghiên cứu khoa học nên chất lƣợng các đề tài chƣa cao, việc xã hội hóa đề tài còn thấp,khả năng ứng dụng đề tài nghiên cứu khoa học còn hạn chế. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số thành tựu trong nghiên cứu khoa học của các trƣờng đại học ở Việt Nam hiện nay Các trƣờng đại học của Việt Nam đã đƣợc ƣu tiên tập trung đầu tƣ gần nhƣ mọi nguồn lực tốt nhất có thể của đất nƣớc để trở thành các đầu tàu sáng tạo tri thức mới cho xã hội và là nơi hội tụ của các bậc tri thức thực tài cũng nhƣ mái nhà chung của giới tinh hoa của dân tộc. Tuy nhiên, mức độ đầu tƣ của các nƣớc đối với các hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam là tƣơng đối khác nhau, nên các thành tựu nghiên cứu khoa học của mỗi trƣờng đại học cũng không giống nhau. Trong khi đại học quốc gia, đại học vùng, và một số trƣờng đại học trọng điểm quốc gia đƣợc ƣu tiên đầu tƣ rất lớn, thì không ít cơ sở giáo dục đại học cũng phải tự mình lo cho mình trƣớc. Mặc dù vậy, bức tranh chung là các thành tựu nghiên cứu khoa học của mỗi trƣờng đại học của Việt Nam thời gian qua đều có những bƣớc tiến đáng kể và đạt đƣợc những thành tựu đáng tự hào hơn trƣớc rất nhiều. Các thành tựu trong nghiên cứu khoa học của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam thời gian qua rất đa dạng và phong phú: Thứ nhất, tất cả các trƣờng đại học ở Việt Nam đều đã ý thức đƣợc tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với quá trình nâng cao chất lƣợng đào tạo và cải thiện vị thế của mình trong hội nhập quốc tế. Nhiều trƣờng đại học cho rằng họ không thể nào tiến xa và hội nhập thành công với các nền học thuật tiên tiến trên thế giới nếu thiếu một hệ thống nghiên cứu học thuật vững mạnh và hiệu quả. Nhiều cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã nhận thức đƣợc rằng chỉ có các thành tựu và thành công trong công tác chuyển giao công nghệ mới có thể xác lập đƣợc chỗ đứng vững chắc, tạo ra bản sắc riêng, và phát triển một cách bền vững trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt và hội nhập quốc tế sâu rộng nhƣ hiện nay (Trƣờng Đại học Hà Tĩnh, 2015).
  3. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |15 Cả hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cũng đƣợc ƣu tiên đầu tƣ và giao phó trọng trách phải hoàn thành sứ mệnh lĩnh xƣớng cũng nhƣ dẫn dắt sự nghiệp đổi mới khoa học công nghệ của nƣớc nhà. Đầu tƣ cho khoa học công nghệ trong hệ thống giáo dục đại học chính vì thế cũng đƣợc cho là đầu tƣ cho tƣơng lai dài hạn và các chiến lƣợc phát triển bền vững của đất nƣớc. Bản thân đa phần các cán bộ giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam cũng quán triệt sâu sắc rằng các hoạt động nghiên cứu khoa học không chỉ là một nghĩa vụ bắt buộc đối với từng nhà giáo, mà còn phải trở thành một nhu cầu tất yếu đối với cuộc sống hàng ngày của mỗi trí thức chân chính. Chỉ có nghiên cứu khoa học một cách chất lƣợng và hiệu quả mới có thể nâng cao năng suất lao động và cải thiện trình độ học thuật không chỉ của từng giảng viên, mà còn góp phần nâng tầm vị thế của nền học thuật cũng nhƣ nền giáo dục đại học nƣớc nhà trên trƣờng quốc tế (Nguyễn Thị Hảo, 2019). Nghiên cứu khoa học chính vì thế cũng thƣờng đƣợc xem là một trong những con đƣờng ngắn nhất để các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam có thể hội nhập thành công một cách nhanh chóng và bền vững với các tiêu chuẩn tiên tiến của các nền giáo dục đại học hiện đại của thế giới. Thứ hai là rất nhiều trƣờng đại học của Việt Nam đã xác định đƣợc các mục tiêu cụ thể và đề ra các phƣơng hƣớng cũng nhƣ chiến lƣợc phát triển khoa học công nghệ rất rõ ràng với các lộ trình phù hợp. Nhiều cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam đã xác định đƣợc lộ trình trở thành các trƣờng đại học nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau trong hệ thống chung của cả nƣớc cũng nhƣ trên thế giới. Mặc dù khái niệm, định nghĩa, và thậm chí cả cách hiểu đối với đại học nghiên cứu vẫn còn nhiều dị biệt giữa các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam, nhƣng về cơ bản đa phần các trƣờng đại học đều hình dung đƣợc rằng đại học nghiên cứu phải là các cơ sở giáo dục đại học lấy nghiên cứu khoa học làm nhiệm vụ trọng tâm, lấy kết quả nghiên cứu làm thƣớc đo chính yếu cho các quá trình lao động, và lấy mục tiêu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong cuộc sống làm phƣơng châm hoạt động và sứ mệnh phục vụ của mình đối với ngƣời học, thị trƣờng lao động, và toàn thể xã hội. Dựa trên cơ sở phƣơng hƣớng phát triển và chiến lƣợc phấn đấu chung đó, mỗi cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam tùy vào đặc điểm tình hình và năng lực thực tế của mình đã đƣa ra các kế hoạch phát triển và xây dựng đại học nghiên cứu khác nhau (Vƣơng Quân Hoàng, 2019). Mặc dù vẫn còn hơi sớm để có thể xƣớng danh một vài trƣờng đại học nghiên cứu thực thụ theo đầy đủ ngữ nghĩa của khái niệm này trong bối cảnh hiện nay của nền giáo dục đại học Việt Nam, nhƣng không ít trƣờng đại học hoàn toàn có thể khẳng định rằng mình đang trong quá trình xây dựng các trƣờng đại học định hƣớng nghiên cứu và có thể hoàn thành mục tiêu này trong thời gian tới. Trên cơ sở các định hƣớng xây dựng đại học nghiên cứu, gần nhƣ tất cả các trƣờng đại học của Việt Nam đều cụ thể hóa các mục tiêu nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ này thành các tiêu chí hoạt động và số lƣợng sản phẩm rõ ràng cho mỗi cán bộ giảng viên cũng nhƣ tập thể khoa học của mình. Đến lƣợt mình, đa phần các cán bộ giảng viên của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam cũng đã tự đặt ra cho mình các mục tiêu nghiên cứu và phƣơng hƣớng phát triển khoa học khác nhau để vừa góp phần nâng cao năng lực học thuật vừa phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình trên giảng đƣờng. Cho dù giữa mục tiêu hƣớng đến và kết quả đạt đƣợc trong thực tế lúc nào cũng tồn tại một khoảng cách nhất định, nhƣng việc cả hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, bản thân mỗi cơ sở giáo dục đại học, và đa phần các giảng viên đại học đều đã xác định đƣợc các mục tiêu nghiên cứu và định hƣớng khoa học phù hợp với bản thân mình đã phần nào phản ảnh một bƣớc tiến lớn trong công tác nghiên cứu khoa học của các trƣờng đại học ở Việt Nam thời gian qua.
  4. 16| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... Thứ ba là hầu hết các trƣờng đại học của Việt Nam đều đã đƣa ra đƣợc các chƣơng trình hành động và hệ thống công cụ chính sách hấp dẫn nhằm nâng cao chất lƣợng nghiên cứu khoa học của trƣờng mình (Nguyễn Minh Sản, 2020). Rất nhiều trƣờng đại học của Việt Nam đã có các chính sách thu hút các nhà khoa học đầu ngành trong nƣớc và thậm chí là hàng đầu trên thế giới về làm việc cho mình. Một số trƣờng có tiềm lực đã đƣa ra các chƣơng trình hợp tác và phƣơng thức làm việc rất linh động để tận dụng nguồn chất xám cũng nhƣ kinh nghiệm thực tiễn của giới tinh hoa của đất nƣớc trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ (Minh Hiển, 2020). Tiêu biểu nhất trong số này chính là các chính sách thu hút nhân tài của các đại học quốc gia, đại học vùng, và một số trƣờng đại học có tiềm lực vững mạnh. Ví dụ, hiện VinUni và Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng đã thu hút đƣợc một số lƣợng đáng kể các học giả quốc tế về làm việc cho mình. Tƣơng tự nhƣ vậy, cả Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, và một số trƣờng đại học khác của Việt Nam cũng đã mời đƣợc rất nhiều các chuyên gia và nhà khoa học nổi tiếng của Việt Nam cả trong lẫn ngoài nƣớc về làm việc hoặc hợp tác với mình bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau (Nhật Minh, 2020). Rất nhiều trƣờng đại học ngoài công lập ở phía Nam rất thành công trong việc hợp tác với các doanh nghiệp và mời các doanh nhân tham gia vào các chƣơng trình đào tạo cũng nhƣ ứng dụng thành tựu nghiên cứu của các trƣờng đại học vào trong thực tế hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Một số trƣờng đại học tranh thủ đƣợc các mối quan hệ hợp tác quốc tế của mình để nâng cao năng lực hội nhập trên lĩnh vực khoa học và công nghệ của trƣờng mình. Đáng chú ý nhất ở đây là nâng cao năng suất, năng lực, và số lƣợng công bố quốc tế. Bên cạnh đó, cả các cơ quan chủ quản lẫn phần lớn các trƣờng đại học của Việt Nam đều có rất nhiều chƣơng trình hỗ trợ và chính sách khuyến khích công bố quốc tế rất hấp dẫn. Ngày càng xuất hiện nhiều chƣơng trình khoa học công nghệ và quỹ hộ trợ nghiên cứu khoa học rất bài bản. Nhiều giải thƣởng khoa học danh giá cũng ra đời nhằm tôn vinh các thành tựu nghiên cứu khoa học của giới trí thức nƣớc nhà... Tất cả các nỗ lực đó thực sự đã góp phần tạo ra nhiều sân chơi và môi trƣờng thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam. Thứ tư là kết quả công bố quốc tế của các trƣờng đại học của Việt Nam đƣợc cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây. Số lƣợng các công bố quốc tế của các trƣờng đại học ở Việt Nam đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm qua. Năm 2020, Việt Nam đã công bố 17.028 bài báo quốc tế trong danh mục Scopus và ISI. Con số này tăng 4.462 bài so với năm 2019 (12.566 bài) và tăng gần gấp đôi so với năm 2018 (8.783 bài). Trong số này, cơ sở giáo dục đại học đóng góp đến 94,3% (16.346 bài tính đến ngày 10 tháng 12 năm 2020) (Thanh Hùng, 2020). Tốc độ công bố quốc tế của một số trƣờng đại học có thế mạnh và truyền thống công bố quốc tế của Việt Nam thậm chí tăng gấp đôi chỉ trong vòng vài năm. Thành công dễ nhận thấy nhất trên lĩnh vực này thời gian gần đây là các Trƣờng Đại học Duy Tân ở Đà N ng, Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng ở Thành phố Hồ Chí Minh, và Trƣờng Đại học Phenika ở Hà Nội... Cùng lúc đó, chất lƣợng công bố quốc tế của các trƣờng đại học ở Việt Nam cũng đƣợc nâng cao đáng kể. Các công trình khoa học của các giảng viên đại học ở Việt Nam ngày càng đƣợc công bố nhiều hơn trên các tạp chí và nhà xuất bản có uy tín hàng đầu thế giới. Nhiều giảng viên của các trƣờng đại học của Việt Nam thậm chí công bố đến hàng chục bài báo quốc tế trong một năm và trong một thời gian ngắn (Hồng Hạnh, 2019). Mặc dù việc công bố cùng một lúc quá nhiều bài báo quốc tế trong một thời gian ngắn với nhiều tác giả khác nhau ở nƣớc ngoài có thể gây ra một số nghi ngại nhất định đối
  5. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |17 với một số chuyên gia, nhƣng nhìn chung thì việc công bố quốc tế không còn là một mục tiêu xa vời và quá tầm với đối với nhiều giảng viên đại học ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ năng suất lao động và khả năng nghiên cứu khoa học của nhiều trƣờng đại học chất lƣợng của Việt Nam đã dần dần tiệm cận và hội nhập thành công với các tiêu chuẩn tiên tiến của khu vực và thế giới. Thứ năm, kết quả ứng dụng của các thành tựu nghiên cứu khoa học của các trƣờng đại học ở Việt Nam không chỉ ngày càng đƣợc mở rộng, mà hiệu quả thực tế của nó cũng trở nên rõ ràng hơn trong đời sống hàng ngày. Các ứng dụng thực tiễn của việc nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam rất đa dạng và phong phú, nhƣng dễ nhận thấy nhất là nâng cao chất lƣợng đào tạo của các trƣờng đại học. Trƣớc đây, việc tiếp cận các hệ thống tài liệu học tập của sinh viên đại học thƣờng gặp rất nhiều khó khăn, nhƣng giờ đây gần nhƣ không có trƣờng đại học nào lại không sở hữu một hệ thống đề cƣơng bài giảng và giáo trình phục vụ đào tạo cho riêng mình (Nguyễn Thị Kiều Loan, 2018). Chất lƣợng đào tạo chính vì thế cũng dần đƣợc nâng lên đáng kể. Bên cạnh đó, nhờ kết quả công bố quốc tế đƣợc cải thiện, nên vị thế quốc tế của nhiều trƣờng đại học của Việt Nam đƣợc cải thiện dần trong các bảng xếp hạng quốc tế. Tiêu biểu nhất trong số này là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trƣờng Đại học Tôn Đức Thắng, Trƣờng Đại học Bách khoa Hà Nội... Ngoài ra, uy tín học thuật và vị thế khoa học của nhiều giảng viên đại học của Việt Nam cũng tăng lên rất nhiều thời gian gần đây. Nhờ các thành tựu nghiên cứu khoa học và cống hiến công nghệ của mình cho nền tri thức nhân loại, nhiều trí thức giáo dục đại học của Việt Nam đã đƣợc vinh danh trên trƣờng quốc tế. Một số nhà khoa học của các trƣờng đại học Việt Nam đƣợc mời nắm giữ các vị trí quan trọng trong hệ thống học thuật khu vực và thế giới. Tóm ại, giáo dục đại học là một trong những lĩnh vực đƣợc ƣu tiên đầu tƣ nhiều nhất xét về tổng thể trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam thời gian gần đây. Mặc dù mức độ ƣu tiên đầu tƣ và năng lực thực tế của mỗi trƣờng đại học tƣơng đối khác nhau, nhƣng nhìn chung thì tiềm lực khoa học công nghệ và thành tựu nghiên cứu của tất cả các trƣờng đại học ở Việt Nam đều có những chuyển biến tích cực so với trƣớc đó. Các thành tựu nghiên cứu khoa học của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam thời gian qua rất đa dạng và phong phú, nhƣng rõ nét nhất là rất nhiều trƣờng đại học đã ý thức đƣợc tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học trong quá trình hoạt động của mình. Một số trƣờng đại học không chỉ xác định đƣợc các mục tiêu cụ thể trong chiến lƣợc trở thành các trƣờng đại học nghiên cứu, mà còn đƣa ra đƣợc cách chính sách thu hút nhân tài và có các cơ chế để đƣa việc nghiên cứu khoa học trở thành một hoạt động thƣờng xuyên và liên tục đối với mỗi giảng viên. Kết quả là số lƣợng và chất lƣợng các công bố quốc tế của Việt Nam tăng lên nhanh chóng thời gian qua. Vị thế quốc tế và thứ hạng của một số trƣờng đại học của Việt Nam cũng đƣợc cải thiện trên các bảng xếp hạng giáo dục đại học thế giới. Nhiều chuyên gia nghiên cứu trong các trƣờng đại học của Việt Nam đang đƣợc các nƣớc công nghiệp phát triển săn đón và chào mời với các điều kiện ƣu đãi và hấp dẫn. Chất lƣợng đào tạo của không ít trƣờng đại học ở Việt Nam cũng đƣợc nâng lên rõ rệt nhờ các thành tựu nghiên cứu khoa học. Thực tế đó cho thấy công tác nghiên cứu khoa học của các trƣờng đại học ở Việt Nam thời gian qua đã đạt đƣợc nhiều thành tựu rất đáng tự hào.
  6. 18| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... 2.2. Những vấn đề đặt ra nghiên cứu khoa học ở các trƣờng đại học ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Về nhân lực Đội ngũ nghiên cứu khoa học ở các trƣờng đại học chủ yếu là giảng viên. Việt Nam hiện tại có 237 trƣờng đại học, học viện (gồm 172 trƣờng công lập, 60 trƣờng tƣ thục và dân lập), 5 trƣờng có 100% vốn nƣớc ngoài, 37 viện nghiên cứu khoa học đƣợc giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 31 trƣờng cao đẳng sƣ phạm và 2 trƣờng trung cấp sƣ phạm. Các trƣờng đại học, học viện có 74.991 giảng viên với 59.232 giảng viên trong các cơ sở công lập và 15.759 giảng viên ngoài công lập (Thùy Linh, 2019). Số lƣợng giảng viên tƣơng đối lớn nhƣng số lƣợng giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học không nhiều. Hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên tại các trƣờng đại học Việt Nam hiện nay đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của các cơ sở giáo dục đại học nhƣ: giáo trình, đề cƣơng, bài giảng, tài liệu tham khảo,… khá đầy đủ và có chất lƣợng tốt phục vụ công tác giáo dục, đào tạo. Không chỉ phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học còn đáp ứng nhu cầu xã hội mà nền kinh tế đòi hỏi nhƣ chế tạo các sản phẩm có chất lƣợng, chế tạo máy móc công cụ phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học của giảng viên còn có sức ý quá lớn. Số lƣợng giảng viên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, kể cả những giảng viên có học hàm học vị cao lại rất khiêm tốn. Công tác nghiên cứu khoa học thiếu tính hệ thống, tập trung, đồng bộ, giảng viên nghiên cứu đề tài còn mang tính đơn lẻ, manh mún, nghiên cứu khoa học chƣa thực sự thu hút đông đảo giảng viên tham gia. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo, hiện có 74.991 cán bộ giảng dạy ở các trƣờng đại học và cao đẳng nhƣng chỉ có khoảng 1.100 giảng viên (3%) tham gia nghiên cứu khoa học và rất ít giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu (Ngô Thị Thu Hồng, Phạm Thị Lan Anh (2019). Điều này do nhiều nguyên nhân: cơ chế thu hút, ƣu đãi giảng viên tham gia vào nghiên cứu khoa học chƣa thực sự hiệu quả, thiếu sự liên kết giữa nhà trƣờng với doanh nghiệp để tạo đầu ra cho nghiên cứu. Mặt khác, đội ngũ giảng viên chƣa nhận thức đƣợc tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học, do vậy, hầu hết giảng viên đều chƣa thực sự chủ động đƣa ra các đề tài nghiên cứu. Nhiều đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên các mô hình đã đƣợc nghiên cứu từ trƣớc, hoặc chƣa xuất phát từ nhu cầu thực tế của chính bản thân giảng viên, hoặc nhu cầu của môn học, ngành học. Bản thân chủ thể chính của hoạt động nghiên cứu còn nhiều hạn chế về năng lực nghiên cứu, thiếu tâm huyết trong nghiên cứu thì rất khó nói đến số lƣợng và chất lƣợng các công trình nghiên cứu. Đây là nút thắt cản trở sự phát triển của hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học trong suốt thời gian qua. 2.2.2. Về tài chính Đây là rào cản rất lớn đối với hoạt động nghiên cứu khoa học trong trƣờng đại học. Kinh phí chính là một trong những điều kiện cơ bản, cần thiết để tạo điều kiện, động lực cho các nhà nghiên cứu. Nghiên cứu khoa học cần nguồn kinh phí đủ lớn để tạo ra những công trình có chất lƣợng. Tuy nhiên, hiện nay kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học ở hầu hết các trƣờng đại học lại rất thấp. Kinh phí không những không tạo điều kiện cho hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên mà đối với nhiều giảng viên nó còn trở thành áp lực. Kinh phí thực hiện công trình nghiên cứu quá thấp so với mục tiêu cần đảm bảo chất lƣợng tốt nhất tạo ra áp lực đối với các nhà nghiên cứu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng năm, ngân sách nhà nƣớc
  7. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |19 đầu tƣ cho nghiên cứu khoa học là 2% - 0,5% GDP. Trong số này, Bộ Khoa học công nghệ chỉ nhận đƣợc 8 - 10% tổng chi ngân sách. Nguồn kinh phí này phân chia, dàn trải giữa Trung ƣơng và địa phƣơng, giữa cơ quan này với cơ quan khác. Việc phân bổ kinh phí phần lớn dựa vào số cấp ban đầu và chƣa theo nguyên tắc gắn theo sản phẩm đầu ra, chƣ phân bổ theo số lƣợng cán bộ nghiên cứu. Kinh phí đầu tƣ của các trƣờng đại học là ít nhƣng số lƣợng các sản phẩm khoa học công nghệ lại nhiều hơn so với các viện nghiên cứu trong cả nƣớc. Vì thế, kinh phí thực sự cho nghiên cứu khoa học tại các trƣờng đại học rất hạn chế, đôi khi giảng viên chỉ coi nghiên cứu khoa học là điều kiện bắt buộc phải hoàn thành. Theo số liệu của World Bank năm 2016, đầu tƣ tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong cả nƣớc bình quân giai đoạn 2011-2015 vào khoảng 1,7% ngân sách nhà nƣớc. Trong đó, đầu tƣ tài chính từ ngân sách nhà nƣớc cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong ngành giáo dục khá khiêm tốn và chƣa hợp lý, cụ thể bằng 35% so với đầu tƣ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 86% so với đầu tƣ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Công thƣơng, 44,9% so với Viện Hàn lâm Khoa học công nghệ Việt Nam và 18,3% so với Bộ Khoa học công nghệ. Đáng chú ý, ngân sách nghiên cứu khoa học đầu tƣ cho ngành giáo dục trong những năm qua có xu thế giảm; trong khi số lƣợng các nhà khoa học trong ngành ngày càng tăng, số lƣợng các sản phẩm khoa học công nghệ của các trƣờng đại học đóng góp cho tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia là rất lớn. Cụ thể, số lƣợng các dòng sản phẩm thu đƣợc từ hoạt động nghiên cứu khoa học trên cả nƣớc, số công trình công bố hàng năm của cả nƣớc là gần 10.000 bài/năm (năm 2018), trong đó các cơ sở giáo dục đại học đóng góp tới 70% (Dung Hòa (2020)). 2.2.3. Về thủ tục hành chính Thực tiễn cho thấy những khó khăn về thủ tục hành chính trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học còn nhiều bất cập, cản trở trực tiếp đến tinh thần nghiên cứu của đội ngũ nghiên cứu khoa học tại các trƣờng đại học. TS. Vũ Đình Thành - Hiệu trƣởng Trƣờng đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: “Không phải giảng viên không mặn mà với nghiên cứu nhƣng khi khó về mặt cơ chế quản lý cũng nhƣ việc xét duyệt đề tài, phân bổ ngân sách, thanh toán tài chính,… khiến họ bị nản. Thêm vào đó, sự thiếu thốn về trang thiết bị, phòng thí nghiêm, hóa chất cũng hạn chế việc nghiên cứu. PGS, TS. Phạm Bích San, Phó tổng thƣ ký Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam cũng cho rằng: “Môi trƣờng “hành là chính” làm nhụt ý chí của biết bao nhà nghiên cứu trẻ. Chẳng những thế, ngay cả cách thức chọn đề tài nghiên cứu, cách duyệt đề tài, cách nghiệm thu, và những tiêu cực trong xét duyệt đề tài,…cũng làm cho các nhà khoa học trẻ có tự trọng không dám dấn thân vào khoa học” (Hƣơng Thu, 2013). Do đó, cần tháo gỡ các vƣớng mắc trong thủ tục hành chính, môi trƣờng làm việc để thu hút cán bộ tham gia nghiên cứu, phát huy tối đa trí tuệ của đội ngũ cán bộ trong các cơ sở giáo dục đại học trong nghiên cứu khoa học. 2.2.4. Về công bố quốc tế Bài báo khoa học công bố trên các tập san đƣợc giới khoa học quốc tế công nhận là một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng phản ánh năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học và các trƣờng đại học. Đối với một quốc gia, công bố khoa học đƣợc xem là những thƣớc đo trình độ phát triển khoa học công nghệ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng,
  8. 20| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ và hƣớng tới hiện thực hóa chủ trƣơng tự chủ hóa trong giáo dục đại học, để đáp ứng yêu cầu của hiện thực khách quan, các trƣờng đại học cần tích cực khuyến khích hoạt động công bố quốc tế. Trong những năm gần đây, hoạt động công bố quốc tế đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Theo cơ sở dữ liệu cử Scopus, bài báo của Việt Nam công bố trên các tạp chí khoa học và công nghệ quốc tế giai đoạn 2014 - 2019 tăng gấp 3 lần, từ 4.071 bài lên 12.431 bài. Xét tốc độ tăng trƣởng bình quân hằng năm khoảng 23% trong giai đoạn 2014-2019, đặc biệt tăng mạnh trong hai năm gần đây, với tốc độ bình quan năm 2019 tăng 40,93 so với 2018. Năm 2020, Việt Nam đã công bố 17.028 bài báo quốc tế trong danh mục Scopus và ISI. Con số này tăng 4.462 bài so với năm 2019 (12.566 bài) và tăng gần gấp đôi nếu so với năm 2018 (8.783 bài). Trong số này, các cơ sở giáo dục đại học đóng góp đến 94,3% (16.346 bài tính đến ngày 10 tháng 12 năm 2020). Tuy nhiên, so với các quốc gia ngay trong khu vực, Việt Nam chỉ đứng thứ 5 trong ASEAN về tổng số công bố quốc tế giai đoạn 2014-2019. Số lƣợng công bố của Việt Nam trong giai đoạn này bằng khoảng 44% nƣớc đứng thứ tƣ là Thái Lan, 34% nƣớc đứng thứ 3 là Indonesia, 32% nƣớc đứng thứ 2 là Singapore và bằng khoảng 22% số công bố của nƣớc đứng đầu khu vực là Malaysia (Bộ Khoa học và Công nghệ (2020). Trong hơn 200 trƣờng đại học, chỉ có một số trƣờng đại học tích cực và có hoạt động công bố quốc tế nhƣ Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Duy Tân, Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những top đầu về sản phẩm công bố quốc tế. Các trƣờng đại học khác rất ít, thậm chí chƣa có sản phẩm công bố quốc tế. Rõ ràng để nâng cao năng lực nghiên cứu, khẳng định uy tín, thƣơng hiệu, các trƣờng cần đẩy mạnh hoạt động công bố quốc tế. Sự hạn chế này do nhiều rào cản, cả khách quan lẫn chủ quan. Trong đó rào cản về ngôn ngữ là nguyên nhân lớn gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu ở Việt Nam. Nhiều nhà khoa học trẻ muốn công bố nghiên cứu trên các tập san quốc tế, nhƣng lại không biết viết bài báo sao cho đạt chuẩn mực. Có ngƣời biết cách viết, nhƣng tiếng Anh thì chƣa đủ để có thể soạn một bản thảo hoàn chỉnh. Khả năng ngoại ngữ của các tác giả Việt Nam còn đƣợc cho là một trong những lý do chính khiến các bài báo bị tập san từ chối công bố. Nhà khoa học Việt Nam chƣa quen với văn hóa công bố quốc tế, chƣa nhận thức đƣợc tầm quan trọng và sự cần thiết của hoạt động này. Thậm chí một số ngƣời còn cho rằng nghiên cứu cơ bản mới công bố quốc tế, còn ứng dụng thì không cần. Khoa học hay bất cứ ngành nghề nào đều cần có ngƣời đi trƣớc để hƣớng những ngƣời đi sau, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp tục sự nghiệp. Việt Nam thiếu ngƣời hƣớng dẫn có kinh nghiệm về nghiên cứu khoa học. Điều này dẫn đến thực tế các nhà khoa học trẻ có nhiệt huyết và tài năng muốn làm nghiên cứu nhƣng đành “bó tay”. 2.2.5. Về cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với các nhà khoa học Trong các cơ sở giáo dục đại học, vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào tầm nhìn và nhận thức của lãnh đạo, quyền lợi và chính sách họ đƣợc hƣởng. Nghiên cứu khoa học là một công việc đặc biệt, nhà nghiên cứu cần đƣợc hƣởng các chính sách ƣu đãi đặc biệt. Các nhà khoa học cần đƣợc ƣu đãi về điều kiện làm việc, chế độ lƣơng, phụ cấp xứng đáng. Đƣợc quyền đề xuất nhiệm vụ nghiên cứu và chủ trì các nhóm nghiên cứu, đƣợc tự chủ một số kinh phí nhất định hàng năm cho hoạt động khoa học của mình. Có nhƣ vậy mới khuyến khích đƣợc ngƣời làm nghiên cứu khoa
  9. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |21 học. Tuy nhiên, hiện nay, chế độ đãi ngộ đối với các nhà khoa học vẫn rất hạn chế. Ít nhà khoa học có thể làm khoa học mà sống nhờ khoa học. Điều này không tạo đƣợc động lực đối với các nhà khoa học tham gia nghiên cứu. 2.3. Một số giải pháp để phát triển oạt độn o ọc và công nghệ ở các cơ sở i o dục tại Việt Nam đ p ứng nhu cầu hội nhập và phát triển 2.3.1. Nhó i pháp về cơ sở vật chất, trang thiế và làm vi c Trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ (công nghiệp 4.0), cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, tích hợp với các hoạt động chuyển đổi số giữ vai trò quan trọng, mang tính sống còn đối với hoạt động giảng dạy và khoa học và công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học, góp phần tăng cƣờng năng lực khoa học và công nghệ. Để đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất, các cơ sở giáo dục đại học cần: Đầu tƣ, mua sắm các trang thiết bị áp dụng công nghệ mới trong các phòng thí nghiệm, nhà xƣởng, trang trại thực nghiệm, các trang thiết bị phục vụ công tác nghiên cứu,... đạt tiêu chuẩn quốc tế; phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Đặc biệt, cần tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất thực nghiệm để có đủ điều kiện thực hiện những đề tài sản xuất thử nghiệm (sau khi đã hoàn thành quy trình công nghệ). Chú trọng phát huy vai trò của thƣ viện trong việc phát triển nguồn tài liệu phục vụ hoạt động khoa học và công nghệ: Tính kế thừa trong nghiên cứu khoa học là một yêu cầu bắt buộc. Hầu hết các đề tài, sản phẩm của hoạt động khoa học và công nghệ đều phải tìm hiểu về tình hình và những kết quả nghiên cứu có liên quan của những đề tài trƣớc, sau khi những kết quả khoa học và công nghệ đƣợc ứng dụng vào thực tiễn cũng đƣợc lƣu trữ lại và trở thành tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo. Tất cả đều đƣợc lƣu dƣới dạng tài liệu và các cơ sở dữ liệu của thƣ viện. Vì vậy, thƣ viện cần cung cấp cho nhà nghiên cứu nguồn tài liệu đảm bảo tính đa dạng, chính xác, phù hợp và cập nhật; có các cơ sở dữ liệu đa ngành, chuyên ngành của nƣớc ngoài đƣợc cung cấp bởi những tổ chức, nhà xuất bản uy tín; chọn lọc và cung cấp cho nhà khoa học những nguồn tài nguyên thông tin truy cập mở chất lƣợng. Bên cạnh đó, thƣ viện các cơ sở giáo dục đại học phải đƣợc kết nối để khai thác, chia sẻ nguồn tài nguyên với nhau; có quan hệ trao đổi, hợp tác khai thác, sử dụng thông tin, tƣ liệu với các thƣ viện đại học lớn trên thế giới,... Hỗ trợ cải thiện môi trƣờng làm việc và nâng cao chất lƣợng các hoạt động hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho nhà khoa học. Môi trƣờng làm việc là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hƣởng đến chất lƣợng công việc, góp phần tạo sự đam mê và năng suất làm việc của nhà khoa học. Các cơ sở giáo dục đại học cần tạo nên môi trƣờng làm việc trong đó sự quan tâm từ phía ban lãnh đạo; sự đam mê và hỗ trợ, phối hợp lẫn nhau giữa những nhà khoa học nhằm tạo môi trƣờng làm việc chuyên nghiệp và gắn bó cho nhà nghiên cứu trong quá trình làm việc . 2.3.2. Nhó i pháp về phát tri n đ nghiên c Trong giáo dục, bên cạnh hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế là một trong những yêu cầu đặt ra đối với các giáo viên và nhà khoa học (gọi chung là đội ngũ nghiên cứu). Đây cũng là lực lƣợng chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong đội ngũ nghiên cứu của cả nƣớc. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần:
  10. 22| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... + Đảm bảo chính sách thu nhập cho đội ngũ nghiên cứu: Các cơ sở giáo dục đại học cần có những chính sách ƣu tiên phù hợp hơn nhƣ: tăng thu nhập, phần thƣởng, tiền lƣơng cần thiết để khuyến khích các đội ngũ nghiên cứu. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục đại học cần có chính sách đào tạo, bồi dƣỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ nghiên cứu khoa học. + Nâng cao năng lực nghiên cứu cho đội ngũ giảng viên: Các cơ sở giáo dục đại học nên nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho giảng viên, những ngƣời có kiến thức chuyên môn cao và có cơ hội tiếp cận với nguồn tri thức phong phú. + Tăng cƣờng nâng cao nhận thức cho giảng viên: Mỗi giáo viên phải thấy đƣợc trách nhiệm của mình trong việc tham gia nghiên cứu khoa học. Hoạt động khoa học và công nghệ không chỉ là trách nhiệm mà còn góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho công tác khoa học và giảng dạy chuyên ngành cho giảng viên; giúp giảng viên tìm hiểu, cập nhật những thông tin, kiến thức mới, bổ trợ cho bài giảng của mình sinh động hơn, làm cho bài giảng có tính thời sự, tính khoa học và tính thực tiễn; góp phần hình thành ở giảng viên phẩm chất của nhà khoa học. + Tạo cơ hội cho giảng viên tham gia các khóa đào tạo dài hạn, ngắn hạn ở trong và ngoài nƣớc; thƣờng xuyên tổ chức các lớp bồi dƣỡng ngắn hạn, hội thảo khoa học,... giúp nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu khoa học,… Đƣa văn hóa nghiên cứu vào trong trƣờng học, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, câu lạc bộ nghiên cứu; thƣờng xuyên quan tâm và có chính sách bồi dƣỡng nâng cao năng lực nghiên cứu cho giảng viên, tạo nhiều hoạt động khoa học và công nghệ cho giảng viên tham gia; có chính sách phân công giảng viên có kinh nghiệm dẫn dắt, bồi dƣỡng các giảng viên trẻ, tạo điều kiện cho các giảng viên trẻ tham gia thực hành nghiên cứu, tham gia các nhóm nghiên cứu,... trong các cơ sở giáo dục đại học. + Tạo động lực làm việc cho đội ngũ nghiên cứu: Năng lực nghiên cứu của đội ngũ nghiên cứu là điều kiện cần, động lực nghiên cứu là điều kiện đủ. Khi đội ngũ nghiên cứu không có động lực nghiên cứu, năng lực nghiên cứu sẽ không đƣợc kích hoạt và ngủ yên ở dạng tiềm năng. Vì thế, các cơ sở giáo dục đại học cần tạo động lực nghiên cứu để góp phần tạo ra năng lƣợng và sự hào hứng, đam mê nghiên cứu của đội ngũ nghiên cứu. + Khuyến khích nghiên cứu và thực hiện những đề tài/dự án phù hợp với lĩnh vực những ngƣời nghiên cứu quan tâm và đam mê. + Chi trả kinh phí tham gia các chƣơng trình tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên môn trong và ngoài trƣờng cho đội ngũ nghiên cứu, hỗ trợ kinh phí phù hợp cho các công bố của đội ngũ nghiên cứu trên các tạp chí có chỉ số quốc tế. + Ban hành chính sách xác định phân chia lợi nhuận trong chuyển giao công nghệ đối với nhà nghiên cứu là tác giả đề án, đề tài/dự án, nhằm bảo đảm quyền lợi bản quyền tác giả một cách thích đáng cho nhà nghiên cứu. Nhƣ vậy, đội ngũ nghiên cứu cần có động lực nghiên cứu mới tạo ra năng lƣợng và sự hào hứng, đam mê nghiên cứu, thúc đẩy ngƣời nghiên cứu tự nguyện dấn thân vào hoạt động khoa học và công nghệ, đủ sức vƣợt qua nhiều khó khăn vất vả, chấp nhận hy sinh những nhu cầu khác để dành thời gian và công sức cho hoạt động khoa học và công nghệ. Khi ngƣời đội ngũ nghiên cứu có động lực nghiên cứu càng mạnh mẽ thì năng lực nghiên cứu càng đƣợc phát huy tối đa. Vì vậy, nâng cao đƣợc năng lực nghiên cứu cho là biện pháp rất cần thiết để phát triển hoạt động khoa học và công nghệ ở các cơ sở giáo dục đại học đội ngũ nghiên cứu.
  11. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |23 Phát triển đội ngũ nghiên cứu thông qua việc khuyến khích đội ngũ chuyên viên, nhân viên khối hành chính và học viên, sinh viên trong trƣờng tham gia. Đặc điểm chung của nhóm đối tƣợng này là đều có kiến thức chuyên môn đảm bảo đƣợc chất lƣợng của các đề tài khoa học và công nghệ khi thực hiện. Hơn nữa, hoạt động khoa học và công nghệ không phải là trách nhiệm chính bắt buộc các chuyên viên, học viên, sinh viên,... phải thực hiện. Vì vậy, cần có những chính sách khuyến khích cho hoạt động khoa học và công nghệ dành cho nhóm đối tƣợng này nhƣ: tăng lƣơng, đặt hàng, chính sách đãi ngộ, khen thƣởng,... Làm tốt đề xuất này, giúp cơ sở giáo dục đại học tận dụng đƣợc nguồn nhân lực có s n, nâng cao số lƣợng đội ngũ nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục đại học; giúp độ ngũ chuyên viên nâng cao kiến thức chuyên môn, tiếp cận lĩnh vực mới (môi trƣờng khoa học và công nghệ), khơi dậy đam mê nghiên cứu; đồng thời giúp sinh viên củng cố kiến thức đã học, rèn luyện năng lực nghiên cứu và phát triển nhiều kỹ năng mềm, tạo cơ hội đƣợc tiếp xúc với các nhà tuyển dụng, tăng cơ hội việc làm,... Bên cạnh đó, việc đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá, bổ nhiệm cán bộ nghiên cứu khoa học trên cơ sở những đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu khoa học và cải tiến kỹ thuật kết hợp với những chính sách ƣu đãi để thu hút các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nƣớc tham gia hoạt động cũng là một trong những phƣơng pháp hữu ích đối với nhóm giải pháp về đội ngũ nghiên cứu. Tóm lại, đội ngũ nghiên cứu đƣợc xem là linh hồn, yếu tố quyết định của các hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Giải quyết tốt những giải pháp trên sẽ giúp đội ngũ nghiên cứu yên tâm nghiên cứu, giúp xây dựng nền móng vững chắc cho hoạt động khoa học và công nghệ. 2.3.3. Nhó i pháp về ủ ục hành chính Thủ tục xét duyệt và nghiệm thu đề tài/dự án là nhóm nhân tố quyết định đề tài có đƣợc thực hiện và đƣợc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu hay không. Bên cạnh đó, tính minh bạch của quá trình xét duyệt đề tài/dự án cũng đƣợc các nhà khoa học quan tâm. Để tạo điều kiện cho hoạt động khoa học và công nghệ, các cơ sở giáo dục đại học cần: Ứng dụng Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quy trình đăng ký, nghiệm thu đề tài: các cơ sở giáo dục đại học nên xây dựng một hệ thống, phần mềm quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Trong đó, nhà khoa học có thể tự đăng ký đề tài/dự án của họ. Việc này vừa giúp nhà khoa học có thể tham khảo những đề tài/dự án đã thực hiện để tránh trùng lặp, tự kiểm tra tiến độ thực hiện của mình để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp; giúp xóa bỏ rào cản về thủ tục hành chính, là công cụ hữu ích hỗ trợ đơn vị quản lý hoạt động khoa học và công nghệ dễ dàng hơn trong công tác quản lý, giám sát cũng nhƣ thể hiện sự công khai, minh bạch trong quá trình xét duyệt, nghiệm thu đề tài; đồng thời giúp tinh gọn thủ tục hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ nói riêng và các thủ tục hành chính trong các cơ sở giáo dục đại học nói chung; Quan tâm hoạt động khoa học và công nghệ một cách thƣờng xuyên và liên tục nhằm nâng cao hiệu quả, chú trọng tiếp cận, cập nhật các thành tựu khoa học trong nƣớc và trên thế giới; Thƣờng xuyên rà soát thực tiễn, đƣa ra yêu cầu và xét duyệt những đề tài mang tính đột phá, ứng dụng thực tiễn cao; nâng cao trình độ và hiệu quả quản lý nghiên cứu khoa học, góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học từng bƣớc phát triển, ổn định và có quy trình; Công khai, minh bạch trong suốt quá trình đăng ký, xét duyệt: Tính minh bạch cần phải đƣợc thực hiện liên tục và xuyên suốt, không chỉ thực hiện từ quy trình đầu vào mà còn tăng cƣờng ở các bƣớc giám sát và kiểm tra để hạn chế rủi ro đối với các dự án/đề tài lớn, có tính mới, khó thực hiện và mang tính
  12. 24| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... khoa học ứng dụng cao; kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ và các công bố quốc tế đƣợc công khai trong dữ liệu khoa học công nghệ của cơ sở; Đảm bảo về chất lƣợng, trình độ chuyên môn trong Hội đồng xét duyệt và đánh giá nghiệm thu đề tài/dự án (gọi tắt là Hội đồng). Bên cạnh những giải pháp trên, sự phù hợp về chuyên môn của các thành viên Hội đồng cũng là yếu tố rất cần đƣợc quan tâm. Hội đồng phải có trình độ chuyên môn phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu mới có thể đánh giá chính xác tính thiết thực và sự phù hợp của đề tài/dự án, có những đóng góp bổ sung để định hƣớng về mục tiêu và phƣơng pháp nghiên cứu phù hợp, làm cơ sở để các nhà khoa học phát triển đề tài/dự án và nhân rộng mô hình ứng dụng với quy mô lớn. Vì vậy, đơn vị phụ trách hoạt động khoa học và công nghệ cần đảm bảo đƣợc các thành viên trong Hội đồng có đầy đủ các yếu tố về: Trình độ chuyên môn, năng lực nghiên cứu, khả năng phản biện,... Nhƣ vậy, khi cơ sở giáo dục đại học có thủ tục hành chính đơn giản và thuận tiện sẽ giúp các nhà khoa chuyên tâm hơn về đề tài/dự án họ đang nghiên cứu và khuyến khích đông đảo nhà khoa học tham gia. 2.3.4. Nhóm gi i pháp về đ c c n vố đ cho đ c và công ngh Nguồn tài chính là một trong những yếu tố đóng vai trò then chốt trong hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các kết quả khoa học và công nghệ. Nguồn tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ rất đa dạng, bao gồm nguồn từ ngân sách nhà nƣớc, từ các doanh nghiệp và từ các tổ chức xã hội cả trong nƣớc và ngoài nƣớc. Theo số liệu của World Bank năm 2019, đầu tƣ tài chính từ ngân sách nhà nƣớc cho hoạt động khoa học và công nghệ trong ngành giáo dục có xu thế giảm trong những năm qua, trong khi đã vốn khiêm tốn so với đầu tƣ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của các Bộ, ngành khác. Đầu tƣ cho nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học cả nƣớc chỉ đạt 0,23% GDP trong tổng số gần 6% GDP cho toàn ngành giáo dục. Trong khi đó, số lƣợng các nhà khoa học trong ngành ngày càng tăng, số lƣợng các sản phẩm khoa học công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học đóng góp cho tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia ngày càng lớn, công bố quốc tế năm 2019 của ngành GD&ĐT đạt 85% tổng số công bố quốc tế của cả nƣớc (Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020). Điều này cho thấy, để phát triển hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học, không thể chỉ dựa vào nguồn ngân sách nhà nƣớc mà cần đa dạng các nguồn vốn đầu tƣ bên ngoài từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cả trong nƣớc và ngoài nƣớc bằng việc: + Xây dựng cơ chế tự chủ của cơ sở giáo dục đại học: Với việc ban hành Nghị quyết về việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục công lập giai đoạn 2014-2017 và Nghị định về quy định cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Chính phủ đã xác định cơ chế tự chủ đại học là xu hƣớng tất yếu của các cơ sở giáo dục đại học công lập. Theo đó, đào tạo phải gắn với nhu cầu xã hội và tự chủ đại học gồm có 4 trụ cột chính gồm: Tự chủ về tổ chức bộ máy; tự chủ về nhân sự; tự chủ về tài chính và tự chủ về học thuật. Trong đó, tự chủ tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung tự chủ về bộ máy, nhân sự và học thuật (Nghị Quyết số 77/NQ-CP, ngày 24/10/2014), (Nghị định số 16/2015/NĐ- CP, ngày 14/2/2015). + Tăng cƣờng gắn kết hợp tác về khoa học và công nghệ với các địa phƣơng để góp phần giải quyết các vấn đề lớn của địa phƣơng, nhất là các địa phƣơng đặt trụ sở trƣờng, nên phối hợp chặt chẽ với các sở Khoa học và Công nghệ để triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao kỹ thuật công nghệ tại địa phƣơng, tạo điều kiện cho giảng viên tìm hiểu và gắn kết
  13. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |25 với thực tiễn của các địa phƣơng; từ đó, làm cơ sở cho giảng viên xác định hƣớng nghiên cứu góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn đang đặt ra của từng địa phƣơng, thu hút nguồn đầu tƣ từ các chính sách của địa phƣơng. + Tạo lập thị trƣờng cho khoa học và công nghệ, khuyến khích chuyển giao công nghệ: Thiết lập môi trƣờng và tạo điều kiện cho thƣơng mại hóa các sản phẩm nghiên cứu phát triển của các cơ sở giáo dục đại học với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; phát triển các mô hình doanh nghiệp khoa học - công nghệ và đào tạo trong trƣờng đại học. Các cơ sở giáo dục đại học cần xác định đƣợc việc hợp tác với doanh nghiệp trong hoạt động chuyển giao công nghệ là nhu cầu sống còn. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học nên thành lập trung tâm chuyển giao khoa học công nghệ làm cầu nối giữa nhà khoa học với các doanh nghiệp; xây dựng mạng lƣới có sự kết nối chặt chẽ giữa nhà trƣờng và doanh nghiệp; xây dựng đội ngũ, cấu trúc và quy trình linh động để có thể đẩy nhanh tiến độ và đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và Nhà nƣớc; nghiên cứu và phát triển các đề tài/dự án mang tính thực tiễn, cập nhật và phù hợp với nhu cầu cụ thể của từng doanh nghiệp; Nghiên cứu ứng dụng và khuyến khích các doanh nghiệp liên kết, đầu tƣ nghiên cứu phát triển các sản phẩm khoa học kĩ thuật, công nghệ chất lƣợng cao và đào tạo, bồi dƣỡng nhân lực khoa học công nghệ cho các xí nghiệp, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; Huy động vốn từ các tổ chức, quỹ tài trợ, viện trợ trong và ngoài nƣớc: Để phát triển hoạt động khoa học và công nghệ, bên cạnh việc sử dụng nguồn tài chính từ nguồn vốn nhà nƣớc và doanh nghiệp, việc huy động vốn từ các tổ chức, quỹ tài trợ và viện trợ là một yêu cầu cấp thiết. Một số tổ chức, Quỹ tài trợ cho hoạt động khoa học và công nghệ nhƣ: Tổ chức phát triển Liên hợp quốc (United Nations Development Programme - UNDP), Ngân hàng thế giới (World Bank - WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (Asian Development Bank - ADB),...và các tổ chức của Việt Nam nhƣ: Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (National Foundation for Science and Technology Development - AFOSTED); Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Hà Nội (Hanoi Foundadion for Science anh Technology Development - HNFOSTED); Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF),... Để xin tài trợ từ những nguồn này, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng đội ngũ chuyên trách các hoạt động liên quan (tìm kiếm nguồn tài trợ, thực hiện các thủ tục hành chính,..); linh động trong cơ chế chính sách đối với hoạt động thu hút vốn đầu tƣ (đặc biệt là vốn đầu tƣ nƣớc ngoài); thực hiện những đề tài mới, lĩnh vực nghiên cứu mang tính cộng đồng, thúc đẩy sự phát triển của xã hội và phù hợp với tiêu chí tài trợ của từng tổ chức/quỹ cụ thể. 2.3.5. Nhóm gi i pháp về đ p tác quốc tế về c và công ngh Xu hƣớng toàn cầu hóa và sự bùng nổ của khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy giáo dục đại học của mỗi quốc gia đổi mới không ngừng, đặc biệt là hội nhập quốc tế để cập nhật nhanh chóng những xu thế mới, tri thức mới. Trong một thế giới không ngừng biến đổi với các thách thức ngày càng tăng, trọng trách nặng nề của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng là cung cấp nguồn nhân lực chất lƣợng cao để thích ứng, tồn tại và phát triển ở môi trƣờng cạnh tranh khốc liệt. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, các cơ sở giáo dục đại học cần có năng lực mang tính toàn cầu với những mối quan hệ có tính chất quốc tế dƣới nhiều hình thức: Áp dụng các chuẩn quốc tế đối với đề tài/dự án, sản phẩm khoa học trong đánh giá, xét duyệt, nghiệm thu đề tài; Tích cực mở rộng hợp tác nghiên cứu khoa học: tăng số lƣợng các chƣơng trình giảng dạy bằng tiếng nƣớc ngoài, liên kết đào tạo, công nhận tín chỉ, liên thông chƣơng trình với các trƣờng đại học nƣớc ngoài có uy tín; xây dựng chính sách thu hút sinh viên, nhà
  14. 26| Phần I. Những vấn đề chung về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng... khoa học nƣớc ngoài đến học tập và nghiên cứu tại Việt Nam, đóng góp cho các cơ sở giáo dục đại học bằng các kết quả nghiên cứu và các công bố quốc tế; Hợp tác đa phƣơng và song phƣơng: Tham gia vào các Hội đồng tiêu chuẩn về giáo dục đại học quốc tế; đặt mục tiêu phấn đấu trở thành cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn quốc tế, nằm trong bảng xếp hạng các trƣờng đại học danh tiếng trong khu vực, châu lục và thế giới. Với việc phát triển hoạt động hợp tác quốc tế giúp các cơ sở giáo dục đại học phát triển hoạt động khoa học và công nghệ; đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chuyên môn, ngoại ngữ, đủ có khả năng đáp ứng môi trƣờng làm việc quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học. 3. KẾT LUẬN Trong giai đoạn hội nhập và phát triển, khoa học - công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nƣớc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ khoa học và công nghệ từng bƣớc khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lƣợng sản phẩm, bảo vệ môi trƣờng, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội; góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đƣờng lối, chính sách, phát triển kinh tế, văn hóa, con ngƣời Việt Nam...( Đảng cộng sản Việt Nam, 2021). Với các trƣờng đại học, nghiên cứu khoa học không thể thiếu đƣợc trong việc góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo, tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc cán bộ, giảng viên tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong những biện pháp cần thiết để hƣớng đến nâng cao chất lƣợng đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đồng thời bắt kịp với xu thế đào tạo của các trƣờng đại học uy tín trên thế giới trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2020), Hợp tác phát triển khoa học công nghệ nh m i m i căn ản toàn diện giáo dục ào tạo, https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=6745. [2]. Bộ Khoa học và Công nghệ (2020), Hệ thống thông tin thống kê khoa học và công nghệ (2020), Sơ ược công ố quốc tế của Việt Nam năm 2019 và một số ại diện tiêu biểu của thành phố Hồ Chí Minh. http://thongke.cesti.gov.vn. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội ại biểu toàn quốc lần thứ XIII., https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap- hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii. [4]. Hảo, N.T (2019), Nghiên cứu khoa học – Nhiệm vụ rất quan trọng của giảng viên trong thời ại c ch mạng hoa học công nghệ 4.0, http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu- khoa-hoc-nhiem-vu-rat-quan-trong-cua-giang-vien-trong-thoi-dai-cach-mang-khoa-hoc-cong- nghe-4-0-180.html . [5]. Hạnh, H (2019), Điểm danh 30 trường ại học Việt Nam có công ố quốc tế nhiều nhất, https://dantri.com.vn/giao-duc-huong-nghiep/diem-danh-30-truong-dai-hoc-viet-nam-co-cong- bo-quoc-te-nhieu-nhat-20191226094442667.htm [6]. Hiển, M (2020), Thu hút chuyên gia nư c ngoài hoạt ộng khoa học công nghệ tại Việt Nam, http://vpcp.chinhphu.vn/Home/Thu-hut-chuyen-gia-nuoc-ngoai-hoat-dong-KHCN-tai-Viet- Nam/20203/27271.vgp
  15. Kỷ yếu hội thâo phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực |27 [7]. Hoàng, V.Q (2019), Về vai trò của nghiên cứu trong giáo ục Việt Nam thời ại 4.0, http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/ve-vai-tro-cua-nghien-cuu- trong-giao- duc-viet-nam- thoi-dai-4-0-5498, [8]. Hòa, D (2020), Nghiên cứu khoa học trong các trường ại học: Hạn chế và chất ượng, http://daidoanket.vn [9]. Hồng, N.T.T & Anh. P.T.L (2019), Tháo gỡ những khó hăn trong nghiên cứu khoa học tại các trường ại học ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, https://tapchitaichinh.vn [10]. Hùng, T (2020), Việt Nam có hơn 17.000 bài báo ược công ố quốc tế năm 2020 https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/so-bai-bao-cong-bo-quoc-te-cua-viet-nam-tang- manh- 697444.html [11]. Linh, T (2019), Những con số n i bật trong giáo dục ại học Việt Nam. Tạp chí điện tử giáo dục Việt Nam. Truy cập ngày 02/01/2022, từ https://giaoduc.net.vn [12]. Loan, N.T.K (2018), Vai trò của Hoạt động nghiên cứu khoa học đối với sinh viên, http://vienspxh.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/seo/vai-tro-cua-hoat-dong-nghien-cuu- khoa- hoc-doi-voi-sinh-vien-85588 [13]. Minh, N (2020), Thu hút chuyên gia nư c ngoài hoạt ộng hoa học công nghệ tại Việt Nam, https://giaoduc.net.vn/tieu-diem/thu-hut-chuyen-gia-nuoc-ngoai-hoat-dong-khoa-hoc-cong- nghe-tai- viet-nam-post207585.gd [14]. Sản. N. M (2020), Vai trò của nghiên cứu hoa học trong ào tạo, bồi ưỡng tại Học viện Hành chính Quốc gia, https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/03/19/vai-tro-cua-nghien-cuu-khoa-hoc- trong-dao-tao-boi-duong-tai-hoc-vien-hanh-chinh-quoc-gia/ [15]. Thu, H (2013), Làm khoa học không thể tự biện, tự sư ng, từ https://vnexpress.net [16]. Trƣờng Đại học Hà Tĩnh (2015), Vai trò của nghiên cứu khoa học ối v i sinh viên, http://htu.edu.vn/tin-tuc-su-kien/vai-tro-cua-nghien-cuu-khoa-hoc-doi-voi-sinh-vien.html
nguon tai.lieu . vn