Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn NHỮNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI TRONG CÔNG TÁC GIÁO DƯỠNG Ở CÁC TRƯỜNG HỌC SINH MIỀN NAM TRÊN HẬU PHƯƠNG MIỀN BẮC THỜI KỲ 1955 – 1975 Decisive factors in educational success in the schools for Southern students on the rear of North Vietnam period 1955 – 1975 TS. Phan Thị Xuân Yến Trường Đại học Sài Gòn Tóm tắt Công tác giáo dưỡng ở các trường học sinh miền Nam trên hậu phương miền Bắc được đặt ra ngay khi hoàn thành việc chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơnevơ. Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và sự chăm sóc đặc biệt của Bác Hồ là nhân tố quyết định thắng lợi trong công tác giáo dưỡng của hệ thống trường đặc biệt này. Để chuyển các nhân tố quyết định ấy thành động lực của hoạt động giáo dưỡng, cùng với việc tổ chức thành công những mô hình giáo dưỡng, còn cần đến những nỗ lực chỉ đạo thực tiễn của ngành giáo dục và đội ngũ những người thầy tận tâm vì học sinh – con em thân yêu. Đó cũng là bài học thiết thực cho công tác giáo dục hiện nay. Từ khóa: giáo dưỡng, hậu phương miền Bắc, mô hình giáo dục, trường học sinh miền Nam Abstract The education work in the schools for southern students on the rear of North Vietnam was set up right after the completion of the transfer of troops under the Geneva Agreement. The concerns of the Party and Government leaders and the special cares of Uncle Ho were the decisive factors in the educational success of this special school system. In order to turn these decisive factors into the driving force of educational activities, together with the successful organization of educational models, there were practical guidance efforts of the education sector and the teachers devoted to students and children. It is also a practical lesson for the current educational work. Keywords: education, rear of Northern Vietnam, educational model, schools for Southern students 1. Đặt vấn đề với miền Nam trong hoàn cảnh đất nước bị Trường học sinh miền Nam là loại chia cắt, mà còn thể hiện một quyết tâm trường nội trú đặc biệt, loại hình nhà đầu tư cho giáo dục ở một bộ phận đặc biệt trường mà trong đó học sinh được chăm – học sinh miền Nam. Trong điều kiện khó sóc nuôi dưỡng, giáo dục tập trung tại khăn, thiếu thốn, cả nước tập trung cho trường, hoàn toàn bằng sự đầu tư của nhà chiến tranh, vẫn có thể dành cho học sinh nước và đóng góp của nhân dân. Việc “bao sự chăm sóc nuôi dưỡng theo hình thức nội cấp” như thế không chỉ do chính sách đối trú; Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ Email: xuanyenphan64@gmail.com 62
  2. PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN và lãnh đạo các cấp các ngành vẫn có thể số này có một số học sinh được tổ chức ăn quan tâm chăm sóc đến việc chăm lo đào ở tại ký túc xá, số còn lại là ở nhờ nhà đồng tạo thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng. bào địa phương. (Bộ giáo dục, 1958, p.3) 2. Nội dung Ngay từ khi triển khai công việc tập 2.1. Chủ trương và sự quan tâm chỉ kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở đạo trực tiếp của Đảng, Bác Hồ về giáo phải dẫn các cháu ra Bắc học tập, vì chỉ có dục học sinh miền Namsau chuyển quân ở miền Bắc mới có điều kiện cho các cháu tập kết học hành nên người. Bác dặn đồng chí Cuộc chuyển quân tập kết theo Hiệp Hoàng Quốc Việt: “nhắc nhở các cấp, các định Giơ-ne-vơ được tiến hành từ tháng ngành quân, dân, chính ở miền Nam thực 9/1954, cho đến ngày 16/5/1955, toàn bộ hiện nghiêm túc và chuẩn bị chu đáo việc lực lượng cách mạng miền Nam tập kết ra đưa thiếu nhi, học sinh miền Nam tập kết miền Bắc là 182.046 người, gồm quân đội theo đúng tiêu chuẩn, chính sách, khẩn (kể cả tình nguyện quân ở Miên và Lào) là trương và đảm bảo an toàn” (Nhiều tác 82.519 người; cán bộ dân chính, đồng bào, giả, 2000, tr.15). Người chỉ đạo đồng chí học sinh là 99.527 người. Số học sinh miền Nguyễn Văn Tạo (Bộ trưởng Bộ Lao Nam tập kết là 12.089 em, trong đó có Động, Trưởng ban Đón tiếp lực lượng tập 7.000 học sinh liên khu V, gần 5.000 học kết tại Sầm Sơn (Thanh Hóa): “Chú là sinh ở Nam bộ và 300 học sinh ở Bình Trị người miền Nam, chú hiểu tâm tư tình cảm Thiên. Ngoài số học sinh tập kết còn có cũng như sự cần thiết trong sinh hoạt, đời 421 em ở Liên khu V tự túc ra Bắc; 216 em sống của các cô, các chú trong đó ra, cả cụ ở Nam bộ vượt giới tuyến ra Bắc. (Bộ Giáo lớn tuổi cũng như các cháu thiếu nhi. Vậy dục, 1995, tr.2) chú phải thay mặt Đảng, Chính phủ tiếp Thành phần học sinh miền Nam đa số đón thế nào để tỏ được sự yêu thương, lo là con em cán bộ, chiến sỹ, con em gia lắng, thắm tình của Đảng và Nhà nước đối đình có công với đất nước, bộ đội miền với đồng bào miền Nam ruột thịt như chú Nam, một số theo cha mẹ đi tập kết, một số biết, ở miền Nam không có cái rét cắt thịt xin ra Bắc học tập theo tiêu chuẩn tự túc như ở miền Bắc đâu, phải có đầy đủ quần (Liên khu V). Bên cạnh đó còn có một số áo ấm và chăn bông cho tất cả, có khăn tự động ra Bắc không bằng đường tập kết quàng cổ cho cụ già, xà phòng và chăn (vượt tuyến), một số không có tiêu chuẩn bông cho các cô có con mọn”. (Ban Thống nhưng theo các đồng chí bộ đội ra, một số nhất Trung ương, 1956, p.13) là con em đồng bào hồi hương xin ra Bắc... Bác đề nghị Trung ương, Chính phủ và Trong năm học 1955-1956 và 1956-1957, các địa phương “cần phải đào tạo và bồi có thêm 1.623 học sinh miền Nam và trên dưỡng thế hệ cán bộ kế cận phục vụ cách 850 học sinh đang gửi học rải rác ở các mạng miền Nam nói riêng và cho cách tỉnh. (Bộ Giáo dục, 1957, tr.2) mạng Việt Nam nói chung. Đào tạo học Học sinh miền Nam học ở các trường sinh miền Nam không những do yêu cầu Nam Định, Thái Nguyên, Hà Nội là 4.077 trước mắt của cách mạng miền Nam mà em, trong đó có 134 em học vỡ lòng, 3.192 còn là lợi ích lâu dài cho Tổ quốc, của dân em học cấp I, II; 670 em học cấp III. Trong tộc Việt Nam” (Hồ Chí Minh, 1976, tr.20). 63
  3. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) Theo đó các trường học sinh miền Nam đồng bào Hoa; trường cho học sinh vượt thực hiện chiến lược “hạt giống đỏ” với tuyến; trường Dân tộc Trung ương cho học nhiệm vụ nuôi và dạy học sinh theo mục sinh người dân tộc.v.v. tiêu: “Trong việc giáo dục và học tập phải Bộ Giáo dục lo phần chuyên môn chú trọng các mặt: đạo đức cách mạng, nghiệp vụ, các trường học sinh miền Nam giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ đóng ở đâu thì chính quyền ở đó, từ cấp thuật, lao động và sản xuất… đào tạo tỉnh đến địa phương đều có trách nhiệm thành những người thừa kế xây dựng xã chăm lo hoạt động của nhà trường theo hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên…, học thẩm quyền và khả năng của mình, với tinh phải đi đôi với hành, giáo dục phải gắn thần Bắc – Nam một nhà, thương yêu như liền với xã hội” (Hồ Chí Minh, 2000, ruột thịt. Các Bộ, ngành có liên quan như: tr.10). Ngày 31/8/1960, trong thư gửi cán Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Bộ Lương thực, Bộ bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường Nội thương… đều thành lập bộ phận và các lớp bổ túc văn hóa, Bác nhắc nhở: chuyên trách lo công tác phục vụ cho miền “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị Nam, trước hết là phục vụ các trường học của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản sinh miền Nam đóng tại các địa phương xuất và đời sống của nhân dân, phải phối trên miền Bắc. hợp nhà trường - xã hội - gia đình”. (Hồ Ngày 17/9/1956 Thủ tướng Chính phủ Chí Minh, 1972, tr.561) ra thông tư số 4116-A7 về tiêu chuẩn thu 2.2. Chỉ đạo thực tiễn của ngành giáo nhận con cán bộ, công nhân viên vào dục đối với học sinh miền Nam trường học sinh miền Nam nội trú: Hệ thống trường học sinh miền Nam - Con cán bộ công nhân viên miền trên đất Bắc được ra đời bao gồm ba cấp Nam thuộc các ngành quân, dân, chính học I, II, III và đã trở thành một bộ phận đảng, không kể cấp bậc nào, cha hoặc mẹ đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân, có tiêu chuẩn tập kết thì được thu nhận. đặt dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của - Cán bộ miền Nam được điều động ra Bộ Giáo dục và sự phối hợp của nhiều bộ, công tác miền Bắc trong thời kỳ kháng ngành TW và các địa phương. Hệ thống chiến, gia đình vợ con vẫn ở trong Nam, trường học sinh miền Nam được hình lúc hòa bình lập lại vợ con mới ra miền thành và phát triển trên miền Bắc hậu Bắc thì con cũng được thu nhận. phương, trong hơn 20 năm kháng chiến - Cán bộ có con ở lại miền Bắc nhưng chống Mỹ cứu nước (1954-1975), gồm hoạt động ở miền Nam trong thời kỳ kháng nhiều quy mô và loại hình thích hợp với chiến hoặc đã hy sinh về nhiệm vụ ở miền từng đối tượng, từng giai đoạn, có những Nam hoặc công tác ở xa thì con cũng được yêu cầu và nhiệm vụ, chức năng cụ thể thu nhận. khác nhau, có những hoạt động và hiệu quả - Đối với cán bộ có 3, 4 cháu thì chỉ phong phú. Ngoài ra, còn xây dựng một số nhận 1, 2 cháu vì trường còn chật chội, số trường đặc thù cho các đối tượng đặc biệt, còn lại sẽ được chiếu cố bằng học bổng rồi ở đó có nhiều con em miền Nam theo học, qua năm sau sẽ thu nhận. như: trường Bổ túc công nông cho người Chế độ chính sách đối với con em lớn tuổi hoặc quá tuổi; trường cho con em miền Nam là một trong những biểu hiện 64
  4. PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN sinh động của sự quan tâm sâu sắc của Trong thư gửi các cháu và các cán bộ Đảng và Nhà nước đối với cách mạng miền các trường miền Nam ngày 1/6/1955, Bác Nam, cần thiết và chính đáng, không chỉ có căn dặn thầy, cô giáo và cán bộ công nhân ý nghĩa chính trị, mà còn thể hiện tình cảm viên “Nên yên tâm công tác. Phải hiểu và trách nhiệm của nhân dân miền Bắc đã rằng không có công tác gì vẻ vang bằng được hòa bình tự do, đối với đồng bào việc chăm nom bồi dưỡng cho các cháu là miền Nam đang phải chịu ách áp bức của những người chủ tương lai của nước nhà. chế độ Mỹ-Diệm. Bộ Giáo dục chỉ đạo cho Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang ấy, các cô, các trường xây dựng bộ máy trực tiếp quản các chú phải thật thà đoàn kết, nâng cao lý và tổ chức nuôi dạy học sinh với các tinh thần trách nhiệm, không nên “đứng chức năng rạch ròi và cụ thể. Bộ Giáo dục núi này trông núi nọ”, muốn thay đổi công cùng các cơ quan ban ngành có liên quan, tác, kèn cựa, địa vị. Phải thương yêu các khẩn trương chuẩn bị những cơ sở, trường cháu như con em ruột thịt của mình, không lớp cho các em, đồng thời nghiên cứu nắm nên phân biệt bỉ thử các cháu vùng này hay cụ thể từng đối tượng, từng khu, từng vùng khác. Cháu nào cũng là con em đại miền, kịp thời tổ chức phân loại, quản lý gia đình ta, cũng là do Đảng và Chính phủ các trường để tổ chức nuôi dạy và học tập giao cho các cô, các chú phụ trách nuôi cho học sinh miền Nam. dạy. Trong công tác, trong học tập, các cô, 2.3. Những người thầy – cô tận tâm các chú nên cố gắng thi đua, trao đổi kinh vì học sinh – con em thân yêu nghiệm, để cùng nhau tiến bộ không Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng. Trong thời gian ở đây, gần Đảng, là “không có thầy giáo thì không có giáo gần Chính phủ, gần Bác, các cháu và các dục…, phải xây dựng đội ngũ những người cô, các chú nên hăng hái học tập và công thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là tác: sao cho đến ngày nước nhà thống “giáo”, phải thật thà yêu quý nghề mình…, nhất, trở lại quê hương, các cháu và các phải có chí khí cao thượng, phải tiên ưu cô, các chú đều là những người gương mẫu hậu lạc phải yên tâm công tác, thật thà, về tư tưởng, đạo đức, cũng như về mọi mặt đoàn kết, phải yêu thương các cháu như khác” (Nhiều tác giả, 2004, tr.90-91). con em ruột thịt của mình, phải luôn ra sức Việc chăm nuôi trong trường học sinh thi đua công tác và học tập, thật thà, phê miền Nam rất đặc biệt và rất thành công. bình và tự phê bình để cùng nhau tiến bộ Đó là quá trình lấy tình thương và trách mãi” (Hồ Chí Minh, 1976, p.19). Người nhiệm để chăm sóc, nuôi dưỡng và truyền chỉ rõ: “Các thầy cô giáo có nhiệm vụ rất dạy cho học sinh tình thương và trách nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho nhiệm trong quá trình rèn luyện, học tập, dân tộc. Vậy giáo dục còn nhằm mục đích lao động để trưởng thành. Nhà trường đồng phụng sự nhân dân… Trường học của thời là gia đình, thầy, cô giáo là người chúng ta là trường học của chế độ nhân chăm nuôi, dạy dỗ học sinh như con em dân, nhằm mục đích đào tạo những công ruột thịt của mình. dân và cán bộ tốt, những người chủ tương Việc chăm sóc nuôi dưỡng học sinh lai tốt của nước nhà”. (Hồ Chí Minh, 2000, miền Nam, nhất là các cháu bé còn ít tuổi tr.561-562) có nhiều khó khăn vất vả, nhưng các 65
  5. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) trường đã tìm mọi cách để thực hiện nhiệm lẫn nhau. Các thầy cô giáo bộ môn và mọi vụ “ươm mầm” cho tốt. Một giáo viên cán bộ khác, kể cả các chị tiếp liệu, các cô trường học sinh miền Nam số 18 (Thái cấp dưỡng đều là những chị ruột thịt đáng Bình) kể lại: “Trường đóng ở nhà dân, rải để các em tin cậy và yên tâm gửi gắm vui rác khắp các xóm làng thuộc xã Trực Nội. buồn của mình. Tất cả đều gắn bó với nhau Tất cả thầy, cô, chú cùng các cháu sống ở trong tình thương và trách nhiệm. Các em nhà dân. Ở thôn Ký Con thuộc xã này có 3 tự thực hiện mọi nề nếp sinh hoạt, từ việc xóm, mỗi xóm một lớp học, lớp nào cũng gấp gọn chăn màn, quét dọn sạch sẽ nhà ở, có đủ một phụ trách thiếu niên, một giáo lớp học. Ngòai giờ học các em còn tự đào viên và một bảo mẫu. Cả 3 lớp ăn chung ao, đắp đường sá, trồng trọt, chăm sóc cây một bếp do các cô cấp dưỡng người địa cối, tô điểm bồn hoa, cây cảnh với niềm phương nấu. Công việc hàng ngày của khao khát làm cho trường mình, mái ấm chúng tôi là buổi sáng giao cho các cô của mình ngày càng khang trang, sạch đẹp giáo dạy các cháu học vần, buổi chiều sinh hơn”(Nhiều tác giả, 2000, tr.169). hoạt tập thể. Công việc tắm giặt cho các Nhà trường là một mái nhà chung tràn cháu hàng ngày do các chị bảo mẫu lo… ngập tình thương. Học sinh ăn, ở, học tại Cuối ngày, tất cả giáo viên, phụ trách thiếu trường, kể cả những ngày lễ, tết, ngày hè. niên cả 3 xóm họp nhau lại trao đổi kinh Thầy, cô giáo nuôi dạy làm việc suốt ngày, nghiệm. Tất cả các cháu đều còn quá nhỏ, suốt năm; ngày lễ, tết càng bận rộn hơn. lần đầu xa cha mẹ,lại sống tập thể, chúng Một thầy giáo kể lại: “Hàng ngày bất kể tôi phải uốn nắn từng ly từng tý, từ cách ăn nắng mưa, lạnh, nắng, các anh chị tiếp cách ở, cách giữ trật tự vệ sinh, đến việc liệu, với chiếc xe đạp cọc cạch, đỡ 2 chiếc làm quen với chữ. Có cháu lúc ngủ chỉ sọt to, từ sáng tinh mơ có mặt ở các chợ giành chỗ ngủ bên cô giáo, hoặc lúc đi ăn trên, chợ dưới tìm mua rau, quả thực nếu không phải cái chén, đôi đũa của cháu phẩm. Những lúc thực phẩm khan hiếm, thì nhất định không ăn; hoặc lúc bị ghẻ lở, các anh chị len lỏi vào tận các thôn xóm, nhất định không cho các cô bảo mẫu tắm… mua cho được con gà, quả bí… trưa về mồ Cứ thế ngày này qua ngày khác, chúng tôi hơi, mồ kê ướt đẫm cả áo. Ngày hè, gặp đưa dần các cháu vào nề nếp” (Nhiều tác cơn mưa rào, áo quần ướt sũng. Mùa đông, giả, 2000, tr.77). gặp cơn gió chướng, lạnh thấu xương, xe Hình ảnh trường học sinh miền Nam đạp không chạy, phải xuống đẩy, mồ hơi số 28 là một điển hình về nhà trường – gia cũng thốt ra như tắm. Những năm giặc Mỹ đình -mỗi nhà ở, lớp học là một gia đình. cho máy bay bắn phá ác liệt các đầu mối “Bốn mươi, năm mươi em sống trong một giao thông, thì các anh chị đã phải ra đi từ dãy nhà là 40, 50 anh em ruột thịt. Thầy lúc gà mới bắt đầu gáy và cho đến tối xẩm chủ nhiệm thường ở một phòng nhỏ đầu mới về đến trường. Dọc đường lắm lúc gặp dãy nhà, vừa là thầy giáo, vừa là cha, là máy bay giặc Mỹ gầm rú trên đầu, với đạn, chị. Cả trường có nhiều gia đình mà các bom trước mặt, sau lưng, cái sống, cái chết bạn gia đình khác là anh em cùng quê gần kề nhau trong gang tấc… cũng không hương, cùng hòan cảnh. Lớp lớn thương làm chùn bước chân các anh chị, chỉ vì một lớp bé, sẵn sàng nhường nhịn, chăm sóc cái lẽ nghe ra thật đơn giản, nhưng có khi 66
  6. PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN phải trả bằng nước mắt và cả bằng máu: sứ mạng lịch sử, thì mái tóc đã lốm đốm Tất cả vì học sinh thân yêu, tất cả vì miền bạc màu, tuổi xuân đã lặng lẽ trôi qua” Nam ruột thịt (Nhiều tác giả, 2000, tr.170). (Nhiều tác giả, 2000, tr.257). Hồi ký của thầy, trò trường học sinh Với cách chăm sóc nuôi dạy như thế miền Nam còn ghi rõ những hình ảnh cảm và những người nuôi dạy như thế, chắc động về cách chăm nuôi: “Ðể đảm bảo ba chắn sẽ tác động đến tâm tư tình cảm của bữa ăn cho học sinh các cô, các chị phải học trò, hình thành nên những nếp nghĩ quần quật suốt ngày. Muốn có bữa ăn sáng mới không thể vô cảm, không thiếu tình thì sáng tinh mơ, khi gà mới bắt đầu gáy, người và đạo đức nhân văn. Người học các cô, các chị đã phải dậy nhóm lửa, đun sinh luôn coi trường lớp là nhà, thầy cô nước, nấu nướng cho kịp các cháu ăn, kịp giáo và các cán bộ nhân viên chăm nuôi là vào lớp học. Mùa đông, gió bấc, mưa người cha, mẹ, cô, chú… trong gia đình phùn, học sinh còn đang cuộn mình trong thân thương. Trên cơ sở đó thầy, cô giáo chăn ấm thì các cô, các chị đã thức giấc vô rèn luyện cho các em đạo đức cách mạng, bếp thổi xôi, hoặc rửa khoai sắn, tay chân lòng yêu quê hương đất nước, truyền thụ lạnh cóng; bữa sáng xong lại chuẩn bị cho kiến thức văn hóa, khoa học, hướng cho bữa trưa và bữa chiều. Hàng ngày các chị các em lao động phục vụ xã hội, phục vụ phải làm việc liên tục từ 4, 5 giờ sáng đến cách mạng. 7,8 giờ tối” (Nhiều tác giả, 2000, tr.171). Mỗi nhà trường học sinh miền Nam Lại có ngày học sinh tham quan dã đều phải phấn đấu làm tốt 3 mặt công tác ngoại, “các chị, các cô phải thức dậy từ 2- chủ yếu: nuôi – dạy – tổ chứccác hoạt 3 giờ sáng, nấu xôi, nấu cơm phục vụ cho động ngoài giờ lên lớp, đó là 3 mặt công bữa ăn sáng, lại còn nắm từng nắm một tác thiết yếu, phải cân đối và đồng bộ, cho học sinh mang theo ăn trưa. Có khi bộ không thể nặng mặt này, nhẹ mặt kia. phận nuôi phải tay xách, nách mang, vai Nhiệm vụ quản lý và giáo dục học sinh gánh lỉnh kỉnh nào nồi, soong, bát đĩa để phải là nhiệm vụ của tòan thể nhà trường. đến nơi tổ chức nấu ăn. Khi đến nơi tham Tuy nhiên, hệ thống giáo dục và chất lượng quan thì thầy trò vui chơi, ngắm cảnh, còn giáo dục vận hành phụ thuộc vào đội ngũ bộ phận nuôi thì đầu tắt mặt tối với cơm cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ cán bộ canh, nước nôi” (Nhiều tác giả, 2000, giảng dạy. tr.172). Để được toàn tâm toàn ý phục vụ Giáo viên giảng dạy ở các trường học học sinh, các chị, các cô đã gần như gác lại sinh miền Nam bao gồm các thầy, cô giáo một bên cuộc sống riêng tư của mình. “Có đã dạy trong các vùng giải phóng, các thầy, chị biết không thể chăm lo, chăm sóc được cô được đào tạo từ nước ngoài về, các thầy con cái của mình nên đã gửi con cái đi sơ cô tập kết từ miền Nam ra và các thầy, cô tán với chồng. Có những chị chồng ốm, được đào tạo tại miền Bắc để phục vụ các con đau cũng không về được để chăm sóc. trường học sinh miền Nam. Dù các thầy, cô Có những chị bước vào trường học sinh quê ở miền Nam hay miền Bắc, ngoài phần miền Nam ngay từ khi trường mới thành chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp giảng lập, tóc còn xanh mướt, phục vụ liên tục 20 dạy, còn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, năm, cho đến khi nhà trường hòan thành yêu thương, gắn bó, có trách nhiệm với học 67
  7. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) trò của mình cũng như khả năng thích ứng đi sâu vào kỹ thuật giảng dạy, phấn đấu với điều kiện nuôi dạy học sinh miền Nam. dạy hay, dạy tốt chứ không dừng lại ở yêu Ngoài việc dạy chữ, dạy văn hóa, các thầy, cầu dạy đúng, dạy đủ. Mặc dù thương học cô còn cùng với cán bộ nhân viên khác của sinh, nhưng luôn nghiêm túc, học sinh trường nuôi dạy học sinh như con em ruột chưa hiểu thì học lại, thầy, cô dạy cho khi thịt của mình. Hãy nhìn những tấm gương nào học sinh hiểu thì mới thôi. người thầy ngày ấy: “Trường sơ tán trên 6 3. Kết luận làng phải qua 6 đồi, đồi xa nhất trên 10 Bí quyết thành công của nhiều giáo km. Thầy cô vẫn phục vụ với tinh thần “tất viên trường học sinh miền Nam là tiến hành cả vì học sinh miền Nam thân yêu”, gánh công tác giáo dục bằng tình thương yêu học vác dụng cụ nhà trường, nhà bếp đến từng sinh đi đôi với tinh thần trách nghiệm, khu để lo cho chúng tôi từng bữa ăn, giấc lương tâm nghề nghiệp. Giáo viên đóng vai ngủ. Cháu nào đau ốm không đủ sức khỏe trò rất quan trọng không chỉ trong lĩnh vực thì được khám chữa bệnh và chăm sóc tận giáo dục mà còn là cán bộ chính trị, cán bộ tình, chu đáo… Thầy cô giáo phải vượt khoa học kỹ thuật, cán bộ dân vận... Việc đường đồi, đường làng, đường ruộng khấp xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản khểnh, bất chấp cái nắng chang chang đến lý giáo dục là một bộ phận quan trọng, nhất cháy da, cái rét đến tê buốt, cả những cơn là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo mưa lớn, nhiều khi lũ lớn phải vác xe đạp dục “vừa hồng, vừa chuyên”. lội qua suối, lại còn vượt bom đạn để đến Ngày nay, khi khoa học công nghệ với học sinh đúng giờ giảng. Ngồi giờ dạy, phát triển mạnh mẽ, quá trình đổi mới vào giờ tự học buổi tối của học sinh, thầy phương pháp giáo dục đang diễn ra trên cô giáo đến từng lớp để đôn đốc, nhắc nhở, quy mô toàn cầu, mục tiêu, nôi dung, giảng giải tận tình những khúc mắc, giúp chương trình đào tạo và phương pháp giáo cho chúng tôi nắm vững chương trình học, dục luôn được cải tiến cho phù hợp với xu có đủ khả năng giải bài tập khó. Giờ ngoại thế phát triển của xã hội. Việc xây dựng khóa, thầy trò cùng hoạt động nhiều môn đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý giáo thể thao, điền kinh. Trên sân trường luôn dục có đủ trình độ, tâm huyết gắn bó với tràn ngập tiếng cười, tiếng nói” (Nhiều tác nghề cần phải đặt ra cho ngang tầm với giả, 2000, tr.173). nhiệm vụ mới. Hệ thống trường học sinh Cách dạy của nhiều giáo viên trường miền Nam trên đất Bắc đã để lại cho chúng học sinh miền Nam là vừa nghiêm túc, vừa ta nhiều bài học quý về việc hệ trọng này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Thống nhất Trung ương (1954-1956). Tài liệu của Trung ương, Phủ Thủ tướng, ban và các Bộ về chính sách đối với cán bộ, đồng bào, học sinh miền Nam tập kết. Hà Nội: Cục lưu trữ TW Đảng. Ban liên lạc học sinh miền Nam (2004). Kỷ yếu hội thảo 50 năm thành lập các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Bộ Giáo dục (1957). Chỉ thị về việc tổng kết năm học 1956 – 1957. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. 68
  8. PHAN THỊ XUÂN YẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Bộ Giáo dục (1958). Quy định một số vấn đề về tổ chức đội với thanh Thiếu niên Hoa kiều ở miền Bắc Việt Nam. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Bộ Giáo Dục (1955). Tổng kết công tác đón tiếp học sinh miền Nam. Hà Nội: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Hồ Chí Minh (1976). Về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hà Nội: Nxb Sự thật, 3-19. Hồ Chí Minh (1972). Bàn về công tác giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục, 561. Hồ Chí Minh (2000). Toàn tập. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, (6,7). Nguyễn Văn Huyên (1995). Những bài nói và viết về giáo dục. Hà Nội: Nxb Giáo dục. Nhiều tác giả (1999). Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia. Nhiều tác giả (2000). Học sinh miền Nam, ngày ấy, hôm nay. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 10-180. Nhiều tác giả (2004). Nửa thế kỷ trường HSMN trên đất Bắc. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 9-100. Ngày nhận bài: 11/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019 69
nguon tai.lieu . vn