Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 NHỮNG MÔTÍP KHÔNG GIAN ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CA DAO TÌNH YÊU ĐÔI LỨA TRƯƠNG THỊ KIM ANH (*) TÓM TẮT Ca dao về tình yêu đôi lứa được sáng tác trong mối quan hệ tình cảm nam nữ ở nông thôn Việt Nam. Vì thế các môtíp không gian được sử dụng trong ca dao tình yêu đôi lứa thường là không gian gần, gắn liền với những hình ảnh làng quê rất đỗi quen thuộc như thuyền – bến, chiếc cầu, bờ ao, cây đa, giếng nước, sân đình… Không gian trong ca dao là gì? Nếu như không gian thuộc về đối tượng phản ánh thì đó là không gian thực tại cụ thể như: xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Lạng, sông Hương, sông Lam, sông Nhà Bè… còn không gian được nói đến như một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh để tác giả bộc lộ nỗi niềm, tâm tư tình cảm của mình thì đó là không gian mang tính tượng trưng do tác giả tưởng tượng theo cảm xúc riêng của mình như: cái cầu, bờ ao, cây đa, bến nước, sân đình, ngôi chùa, mảnh vườn, cánh đồng, con đường… Từ khoá: môtíp không gian, ca dao, trữ tình ABSTRACT Folk song is a lyrical folk genre, and it has a great influence on the spiritual life of the working people of Vietnam, especially the farmers in rural areas. Most folk songs about love are composed in terms of relationships between men and women in rural Vietnam. So the motif space used in folk songs about love is usually space close and related to the images of village with very familiar objects such as boats, docks, bridges, pond sides, trees, water wells, temple court yards... What is space depicted in folk songs? In case space functions as an objective to be reflected, it is physical space such as the locations of Hue, Lang Son, Nha Be, Huong River, Lam River... But if space mentioned as a component element forming an ambience that enables the author to express his/her inmost feelings, it can be apprehended as symbolic space, the results of the author’s imagination. The latter may include the images of a bridge, a pond, a well, a tree, a riverside, a village temple, a pagoda, a village road… Keywords: space motif, folk songs, lyric 1. MỞ ĐẦU * làng quê của người Việt thông qua những Ca dao là một thể loại trữ tình dân câu hát đối đáp, giao duyên rất bình d , gian, có sức ảnh hưởng rất lớn đến đời thấm đượm tình quê. sống tinh thần của người dân lao động Việt Cũng như các thể loại văn học dân gian Nam, đặc biệt là người nông dân ở các khác, ca dao do tập thể nhân dân sáng tác, vùng nông thôn. Ca dao cũng đã góp phần được lưu truyền dưới hình thức bằng miệng giữ gìn một nét văn hoá sinh hoạt đậm chất và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Nhìn tổng quát thì có thể phân ca dao trữ (*) tình của người Việt thành năm mảng lớn ThS, Trường Đại học Đồng Nai. 121
  2. là: Ca dao về thiên nhiên, ca dao về đề tài đại văn học”[1, tr.208]. l ch sử, ca dao về gia đình, ca dao về đề tài Còn theo Từ điển thuật ngữ văn học xã hội, ca dao tình yêu đôi lứa. (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Trong năm mảng trên thì mảng đề tài Phi – Đồng chủ biên) cho rằng, môtíp theo về tình yêu đôi lứa được nhiều người yêu nghĩa “ từ Hán Việt là mẫu đề (do người thích và quan tâm nhất, tại sao vậy? Có lẽ, Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng chỉ có tình yêu trong ca dao, người ta mới Pháp), có thể chuyển thành các từ khuôn, thấy hết được cái hương v tự nhiên, mộc dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt, nhằm chỉ mạc, bình d trong tình yêu đôi lứa. Theo những thành tố, những bộ phận lớn hoặc Vũ Ngọc Phan “tình yêu trong ca dao là nhỏ đã được hình thành ổn đ nh bền vững thứ tình yêu lành mạnh, thắm thiết, hồn và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác nhiên vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến, thứ văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học xiềng xích muốn kìm hãm đời đời cho nam nghệ thuật dân gian” [2, tr.197]. Như vậy ở nữ thụ thụ bất thân”[6, tr.56]. Tình yêu của đây, chúng ta có thể hiểu môtíp được xem các chàng trai, cô gái trong ca dao là tình như là một dạng hay một kiểu sáng tác văn yêu thường gắn liền với những hoạt động học dân gian mà chủ thể sáng tác sử dụng trong lao động sản xuất hằng ngày của họ, để bộc lộ tình cảm, suy nghĩ, ước mơ của nhiều nhất là trong công việc đồng áng. mình. Cũng trong cuốn Từ điển thuật ngữ Hầu hết ca dao về tình yêu đôi lứa được văn học này cho rằng “trong ca dao truyền sáng tác ra trong những điều kiện của mối thống cũng có nhiều môtíp quen thuộc lớn quan hệ nam nữ ở nông thôn Việt Nam. Vì nhỏ như những tấm bê tông đúc sẵn được thế các môtíp không gian được sử dụng sử dụng theo kiểu lắp ghép trong nhiều bài trong ca dao tình yêu đôi lứa thường là ca dao khác nhau. Do đó mà có thể sắp xếp không gian gần, gắn liền với những hình ca dao thành những nhóm bài cùng khuôn ảnh làng quê rất đỗi quen thuộc như thuyền cùng kiểu. Ví dụ: những bài trong nhóm ca – bến, chiếc cầu, bờ ao, cây đa, giếng nước, dao than thân của người phụ nữ đều mở sân đình… đầu bằng câu công thức Em như hoặc Thân 2. NHỮNG MÔTÍP KHÔNG GIAN em như, Thân em như thể…” [2, tr.197]. ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CA DAO 2.1.2. Không gian trong ca dao TÌNH YÊU ĐÔI LỨA Không gian trong ca dao là gì? Theo 2.1. Giới thuyết về môtíp, không gian Nguyễn Xuân Kính “không gian trong ca trong ca dao dao chủ yếu là không gian trần thế, đời 2.1.1. Khái niệm môtíp thường, bình d , phiếm chỉ với những nhân Theo cuốn 150 Thuật ngữ văn học của vật chưa được cá thể hoá, mang tâm trạng, Lại Nguyên Ân thì môtíp được hiểu “là tình cảm chung của nhiều người” [4, tr.307]. thành tố bền vững, vừa mang tính hình Còn theo Hoàng Tiến Tựu “không gian thức, vừa mang tính nội dung của văn bản trong ca dao vừa là không gian thực tại văn học; môtíp có thể được phân xuất ra từ khách quan, vừa là không gian trong trí trong một hoặc một số tác phẩm văn học tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của một nhà văn hoặc trong văn cảnh toàn của tác giả” [7, tr.227]. bộ sáng tác của nhà văn ấy, hoặc trong văn Nếu như không gian thuộc về đối cảnh một khuynh hướng văn học, một thời tượng phản ánh thì đó là không gian thực 122
  3. tại như “xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Lạng, sông nhau. Môtíp không gian thuyền – bến Hương, sông Lam, sông Nhà Bè…”, còn thường được nhắc đến trong ca dao tình không gian được nói đến như một yếu tố yêu đôi lứa dưới hình thức ẩn dụ chỉ chàng góp phần tạo nên hoàn cảnh để tác giả bộc trai và cô gái. Hơn thế nữa, người Việt lộ nỗi niềm, tâm tư tình cảm của mình thì Nam ta thường coi trọng triết lí Âm - đó là không gian mang tính tượng trưng do Dương, vì vậy mà thuyền thường được gán tác giả tưởng tượng theo cảm xúc riêng của cho thuộc tính dương, di chuyển không cố mình như cái cầu, bờ ao, cây đa, bến nước, đ nh, còn bến được gán cho thuộc tính âm, sân đình, ngôi chùa, mảnh vườn, cánh mang tính cố đ nh. Chính vì vậy, thuyền đồng, con đường,… Và “Ở đó, người bình thường là môtíp chỉ người con trai, còn bến dân chủ yếu là những chàng trai làng, là môtíp chỉ người con gái trong tình yêu, những cô thôn nữ sinh sống, làm lụng, tình dù cho thuyền có đi đâu thì bến vẫn “khăng tự, than thở với nhau” [4, tr.300]. khăng” đợi thuyền. Đó là lời khẳng đinh sự Tất cả không gian ấy như một không chung thủy trong tình yêu của cô gái dành gian trữ tình lãng mạn đã làm nảy sinh tình cho chàng trai, cũng là biểu tượng thủy cảm yêu thương không biết bao nhiêu chung trong tình yêu của người phụ nữ chàng trai và cô gái nơi thôn quê. Và ở đó, Việt Nam: cũng chính là nơi bắt đầu tình yêu trong họ. - Thuyền dời nào bến có dời Tình yêu ấy được kết tinh từ những hình Khăng khăng một lời quân tử nhất ngôn. ảnh quen thuộc của làng quê, nơi họ sinh ra, lớn lên gắn bó với mảnh đất ấy như một - Thuyền ơi, có nhớ bến chăng? phần của cuộc đời mình: Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. [6, tr.312] - Qua sông em đứng em chờ Môtíp thuyền – bến còn được dùng Qua cầu em đứng ngẩn ngơ vì cầu. nhiều dưới hình thức tỏ tình khác nhau của - Cô kia cắt cỏ bên sông các chàng trai và cô gái khi gặp gỡ nhau Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây trên một bến sông nào đó, trong cuộc sống Sang đây anh nắm cổ tay sinh hoạt hằng ngày của họ: Anh hỏi câu này: có lấy anh chăng? - Thuyền ngược hay là thuyền xuôi [4, tr.300] Thuyền về Nam Đ nh cho tôi ghé nhờ? 2.2. Những môtíp không gian được Con gái chỉ nói ỡm ờ. sử dụng trong ca dao tình yêu đôi lứa Thuyền anh chật chội, còn nhờ làm sao? 2.2.1. Môtíp thuyền – bến Trong ca dao trữ tình về tình yêu đôi Miệng anh nói, tay anh bẻ lái vào: lứa, ta thường gặp những nét sinh hoạt, Rửa chân cho sạch bước vào trong khoang. những cảnh vật, không gian quen thuộc Thuyền dọc anh trải chiếu ngang trong đời sống hằng ngày của người dân Anh thì nằm giữa hai nàng nằm bên. lao động. Những nét sinh hoạt, những cảnh [3, tr.190] vật, không gian ấy thường làm môtíp để - Thuyền đà đến bến, anh ơi! biểu hiện tâm trạng hạnh phúc hay đau khổ Sao anh chẳng bắc cầu noi lên bờ? trong tình yêu của các đôi trái gái yêu Đang cơn nước đục lờ đờ. 123
  4. Cắm sào đợi nước bao giờ cho trong? - Em đang dệt vải quay tơ Con sông kia nước chảy đôi dòng, Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào? Hẹn giờ ra gốc cây đa Trông thấp em lại trông cao, Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao. Ngọn đèn sáng tỏ như sao trên trời, [3, tr.205] Em ơi, gần bến xa vời! [3, tr.191] Gặp nhau, rồi hò hẹn nhau, rồi yêu nhau, chờ đợi nhau, đó là quá trình diễn ra Đôi khi lại là một lời dặn dò, trách rất tự nhiên của các đôi trái gái khi yêu móc, một nỗi nhớ nhung da diết của các nhau. Tình yêu của họ luôn chứa đựng chàng trai, cô gái khi yêu: nhiều cảm xúc khác nhau mà chỉ có gốc đa - Bến dặn dò thuyền, trúc dặn dò mai là nơi chứng kiến đầy đủ nhất những cung Nghe ai quyến rũ, không vãn lai chốn này. bậc cảm xúc đó. Họ có bồi hồi, xao xuyến - Thuyền xuôi neo nọc cũng xuôi khi mới gặp nhau, có hồi họp khi hẹn hò, Nhớ em, anh nhớ cả đôi má hồng. có nhớ nhung, chờ đợi nhau khi xa cách: [3, tr.221] - Cây đa bến cũ năm xưa 2.2.2. Môtíp cây đa Chữ tình ta cũng đón đưa trọn đời. Nếu như môtíp thuyền – bến là môtíp [3, tr.227] chỉ hình ảnh người con trai và người con - Cây đa cũ, bến đò xưa gái trong tình yêu thì môtíp cây đa lại chỉ Bộ lệnh có nghĩa, nắng mưa cũng chờ. nơi gặp gỡ, hò hẹn của đôi lứa đang yêu, là [3, tr.206] phương tiện để họ đến với nhau. Theo lẽ tự - Cây đa trốc gốc trôi rồi nhiên thì cây đa thường là biểu tượng cho sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Vì vậy mà Đò đưa bên thác, em ngồi đợi ai [3, tr.227] cây đa xuất hiện trong ca dao giống như là một minh chứng của thời gian, chứng kiến - Cây đa bậc cũ lở rồi, mọi sự đổi thay của làng quê, con người, Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai? của những đôi trai gái yêu nhau, hò hẹn [3, tr.206] nhau, thề nguyền nhau, có khi là phải chia Hình ảnh cây đa – mái đình được xem tay nhau trong sự nuối tiếc. như là một biểu tượng văn hoá làng quê Đầu tiên chúng ta thấy cây đa xuất hiện của người Việt, nhất là ở các làng quê vùng trong sự gặp gỡ tình cờ, hẹn hò nhau của đồng bằng Bắc bộ. Ở các vùng đó, mỗi đôi trai gái: làng thường có một mái đình cong vút, một - Cây đa trốc gốc gốc đa đầu làng, đây thường là nơi tụ tập, hội hè đình đám, vui chơi giải trí, cũng là Thợ mộc đang cưa nơi chia sẻ tâm tư tình cảm của người làng Gặp em đứng bóng ban trưa quê. Vì thế cây đa – mái đình đi vào trong Trách trời vội tối phân chưa hết lời! ca dao tình yêu đôi lứa rất nhiều, nhưng Lên non thiếp cũng lên theo, thường là để bộc lộ nỗi niềm thương nhớ Tay v n, chân trèo, hái trái nuôi nhau. của các chàng trai, cô gái và đi kèm với nỗi [3, tr.205] nhớ đó là nghệ thuật so sánh: 124
  5. - Cây đa rụng lá đầy đình, mái nhà tranh và giữ cả hồn dân tộc. Một Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu. chiếc cầu tre lắc lẻo là hình ảnh rất quen [3, tr.200] thuộc ở khắp các làng quê, cũng chính từ - Cây đa cũ, con yến rũ, cây đa tàn chiếc cầu tre lắt lẻo này mà chàng trai đã bộc lộ một nỗi lo lắng cho người mình yêu: Bao nhiêu lá rũ thương nàng bấy nhiêu. [3, tr.322] - Cầu tre lắt lẻo anh thắt thẻo ruột gan - Qua đình ngả nón trông đình Sợ em đi chửa quen đàng Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy Rủi em có mệnh hệ, lỡ làng duyên anh. nhiêu [6, tr.265] Cầu tre thì lắt lẻo làm cho chàng trai Yêu nhau, thương nhau là thế nhưng vì phải “thắt thẻo ruột gan” khi nhìn người nhiều lí do khác nhau mà có nhiều đôi trái yêu đi qua, còn cầu ván thì sao? Cầu ván ở gái không đến được với nhau, đành phải đây không lắt lẻo nhưng lại vừa mỏng, vừa chia tay nhau trong sự tiếc nuối ở họ. Ở đây, yếu làm cho cô gái không sang được phải có thể là do cha mẹ hai bên không đồng ý, đợi người yêu cùng sang. Chiếc cầu ván hay vì những quan niệm nặng nề của chế độ vừa mỏng, vừa yếu này không chỉ nối đôi xã hội phong kiến xưa để lại đã tác động rất nh p bờ sông mà còn nối cả duyên tình của lớn đến duyên tình của họ, hay có thể vì lí cô gái với chàng trai lại với nhau với một do nào đó từ cá nhân họ mà cả hai không nỗi niềm ước mơ hạnh phúc trong tình yêu đến được với nhau để rồi đành phải lỗi hẹn của cô gái để được “cùng duyên anh”, lời thề nguyền nơi gốc đa năm xưa: “cùng có anh”: - Trăm năm đành lỗi hẹn hò, - Cầu cao mỏng ván gió rung Cây đa bến cũ, con đò khác đưa. [6, tr.303] Em sang không được đợi cùng duyên anh. 2.2.3. Môtíp chiếc cầu Cầu cao ván yếu gió rung Nếu như hình ảnh cây đa – mái đình Em qua sông đặng, cậy cùng có anh. chỉ thấy ở vùng đồng bằng Bắc bộ là nhiều [5, tr.213] thì ngược lại hình ảnh chiếc cầu hầu như có Từ những chiếc cầu thực ngoài đời, tác trên khắp các vùng miền đất nước, nơi đâu giả dân gian sử dụng phương thức ẩn dụ, mà chẳng có chiếc cầu để nối đôi nh p bờ mượn chiếc cầu trừu tượng để giãi bày tình sông lại với nhau. Vì thế, người bình dân cảm của mình. Chiếc cầu giờ chỉ còn là xưa, sử dụng hình ảnh chiếc cầu như một biểu tượng của ước mơ trong tình yêu, mà môtíp không gian nghệ thuật trong ca dao ước mơ của những người đang yêu thì rất tình yêu đôi lứa, để bày tỏ nỗi lòng của đa dạng phong phú. những người đang yêu dưới nhiều góc độ Khi là lời tỏ tình của chàng trai bằng khác nhau. Bên cạnh chiếc cầu thực đời cành hồng: thường, còn có những chiếc cầu mang tính - Hai ta cách một con sông, trừu tượng nối những trái tim yêu thương đang thổn thức lại với nhau. Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. Cây tre luôn là biểu tượng sức sống - Cô kia cắt cỏ bên sông, mãnh liệt của người dân Việt Nam ta từ Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. ngàn đời nay, tre giữ làng, giữ nước, giữ [5, tr.212] 125
  6. Khi là lời tỏ tình của chàng trai bằng - Ước gì sông rộng một gang cành trầm: Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi. - Cách nhau có một vườn trầu [5, tr.214] Muốn sang anh bẻ cành trầm cho sang Nỗi niềm ước mơ hạnh phúc trong tình Cành trầm lá dọc lá ngang yêu của cô gái về một chiếc cầu dải yếm cũng là ước mơ chung của người bình dân Đố người bên ấy bước sang cành trầm. xưa và nay. [5, tr.213] 3. KẾT LUẬN Hình ảnh bắc cầu bằng cành hồng, Ca dao được xem như là một viên ngọc cành trầm để tỏ tình của các chàng trai thật quý trong kho tàng văn học dân gian Việt đáng yêu và tình tứ, nhưng có lẽ nhiều nhất Nam. Thông qua ca dao, người lao động là ngọn mồng tơi, bởi vì ngọn mồng tơi nơi bình dân xưa có điều kiện biểu hiện đời thôn quê nào mà chẳng có. Cái cầu mồng sống tình cảm một cách tự nhiên nhất. Đặc tơi này không phải chàng trai bắc mà là cô biệt là đời sống tình cảm trong tình yêu gái, thế mới thấy ước mơ trong tình yêu nam nữ. “Ca dao đã ghi lại tất cả các chặng của người bình dân xưa thật mãnh liệt và đường của tình yêu, các khía cạnh của tình táo bạo. Tình yêu trong cô gái chân thành yêu, các trạng thái tình cảm của nam nữ là thế nhưng cô lại sợ chàng trai không đi, thanh niên với những trắc trở, khó khăn, do để “cho tốn công thợ, cho sầu lòng em”: đời sống và chế độ phong kiến gây nên.” - Gần đây mà chẳng sang chơi [6, tr.56]. Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu Những môtíp không gian được sử dụng Sợ rằng chàng chả đi cầu trong ca dao như là một phương tiện nghệ Cho tốn công thợ, cho sầu lòng em. thuật để người bình dân xưa thể hiện các [5, tr.213] trạng thái, khía cạnh khác nhau trong tình yêu, nhất là tình yêu nam nữ. Trong cảnh Nhưng có lẽ chiếc cầu trong ca dao sống lầm than cơ cực, thêm vào đó là tình yêu đôi lứa được cô gái bắc đẹp nhất những ràng buộc của lễ giáo phong kiến hà và độc đáo nhất đó là chiếc cầu dải yếm. khắc ngày xưa, đã làm kiềm hãm không Chiếc cầu bây giờ không còn là cành hồng, biết bao nhiêu duyên tình của các đôi trai cành trầm, ngọn mồng tơi nữa mà là một gái yêu nhau. Chính vì vậy, cái khát khao chiếc dải yếm rất mềm mại, tình tứ của cô về một tình yêu tự do trong họ là rất lớn, và gái. Vượt lên trên mọi lễ giáo phong kiến một phần nào đó thì ca dao đã giúp cho họ ràng buộc thời xưa, với một trái tim đang thể hiện được điều ấy. Ca dao trữ tình rạo rực tình yêu, cô gái đã quyết đ nh đi trong tình yêu đôi lứa là một thiên tình ca tìm tình yêu của mình bằng một ước mơ muôn điệu. khá táo bạo: 126
  7. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán (chủ biên) (2011), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 3. Nguyễn Bích Hằng (2007), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 4. Nguyễn Xuân Kính (2992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Thao Nguyễn (2013), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin. 6. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội. 7. Hoàng Tiến Tựu (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục. * Ngày nhận bài: 16/10/2013. Biên tập xong: 16/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014 127
nguon tai.lieu . vn