- Trang Chủ
- Chính trị học
- NHỮNG LUẬN ĐIỂM ĐÚNG, SAI TRONG QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG KINH TÊ CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ
Xem mẫu
- NHỮNG LUẬN ĐIỂM ĐÚNG, SAI TRONG QUAN ĐIỂM, TƯ TƯỞNG KINH TÊ
CỦA CHỦ NGHĨA TRỌNG NÔNG VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ
--------------
Bùi Thị Minh Hồng
Khoa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tóm tắt nội dung
Chủ nghĩa trọng thương đi vào tan rã khi lợi nhuận của giai cấp tư sản thu
được từ biện pháp thương mại - ngoại thương không còn hiệu quả bằng các
công trường thủ công, trung tâm lợi ích kinh tế đã chuyển vào lĩnh vực sản xuất,
thời kỳ tích luỹ ban đầu của CNTB kết thúc.
Xuất hiện trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương, chủ nghĩa trọng
nông là trường phái đã khái quát những tiến bộ mới nhất trong nền kinh tế của
thế kỷ XVIII. Các nhà nghiên cứu đã phải nhiều lần dùng đến những từ “lạ
lùng, ngược đời, kỳ quái…” khi nói đến những lập luận, quan điểm kinh tế của
phái này.
Thế nhưng, rõ ràng từ trong đó người ta đã tìm thấy những “viên đá quý” về lý
luận và C.Mác đã gọi Quesnay, người sáng lập phái này là cha đẻ của kinh tế
chính trị (giống như W. Petti)
Người ta cho rằng những luận điểm đặc trưng của phái Trọng nông đã được nêu
lên từ trước đó, đầu thế kỷ XVII với Boisguillebert, Vaubon, d’Argenson rồi
Gournay, Cantillon… Nhưng người sáng lập chính thức trường phái này là Francois
Quesnay (1691 – 1774) và đại biểu tiêu biểu sau ông là Turgol (1721 – 1781).
Giữa thế kỷ XVIII, đồng thời với việc chủ nghĩa Trọng thương bị phê phán ở
các nước thì ở Pháp, hậu quả của chính sách trọng thương của Colbert đã dẫn
tới nền nông nghiệp Pháp bị suy sụp, gây bất mãn trong nông dân. Tình hình đó
thúc đẩy tư tưởng trọng nông phát triển mạnh mẽ. Sự phê phán chủ nghĩa trọng
thương mang khuynh hướng nông nghiệp vì muốn tìm giải pháp tích cực cho các
vấn đề kinh tế nước Pháp lúc bấy giờ thì phải tìm trong nông nghiệp, trong việc
làm cho nông nghiệp thoát khỏi xiềng xích của chế độ phong kiến.
Tư tưởng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa trọng nông chống lại toàn bộ quan
điểm, tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Chủ nghĩa trọng nông cho rằng
nông nghiệp là nguồn duy nhất tạo ra của cải; tiền tệ là của cải chỉ vì nó là
công cụ để di chuyển của cải. Chủ nghĩa trọng nông bênh vực cho mậu dịch tự
do, chống lại sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.
Cũng xuất hiện trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản
nhưng ở giai đoạn phát triển kinh tế cao hơn nên chủ nghĩa trọng nông có nhiều
- 2
lý thuyết để giải quyết nhiều vấn đề do lý luận và thực tiễn đặt ra so với chủ
nghĩa trọng thương. Vì vậy, chủ nghĩa trọng nông đã đóng góp rất nhiều điều
trong lịch sử tư tưởng kinh tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Nhưng cũng không phải
ít những hạn chế.
Chúng ta xem xét điều đó qua các lý thuyết của trường phái này.
+ Lý luận về sản phẩm ròng (sản phẩm thuần tuý), đây là lý thuyết trọng tâm.
Chủ nghĩa trọng nông cho rằng sản phẩm ròng là sự chênh lệch giữa tổng sản
phẩm với chi phí sản xuất. Nó là số dư ra ngoài chi phí sản xuất và chỉ được tạo
ra trong nông nghiệp. Họ cho rằng trong công nghiệp không có sản phẩm thuần
túy vì quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình kết hợp giản đơn những
chất cũ mà không có sự tăng thêm về chất, còn trong nông nghiệp thì có, như
gieo một hạt lúa sẽ trổ bông cho nhiều hạt.
+ Từ lý thuyết về sản phẩm thuần túy họ đưa ra lý thuyết giai cấp:
Quesnay chia xã hội ra thành ba giai cấp: giai cấp sản xuất ra sản phảm thuần
túy, giai cấp không sản xuất ra sản phẩm thuần tuý, giai cấp những fermier
(những người sở hữu). Về sau Turgot chia thành năm: giai cấp các nhà tư bản
sản xuất, giai cấp công nhân sản xuất, giai cấp các nhà tư bản không sản xuất,
giai cấp công nhân không sản xuất và giai cấp sở hữu.
+ Lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận, cũng từ cơ sở lý thuyết sản phẩm ròng:
cho rằng tiền lương công nhân phải thu hẹp ở mức tư liệu sinh hoạt tối thiểu (do
cạnh tranh về việc làm). Do đó, sản phẩm của công nhân nông nghiệp bằng tổng
của lương và sản phẩm thuần túy, còn trong công nghiệp lương của công nhân là
thu nhập theo lao động, sản phẩm thuần túy là thu nhập của nhà tư bản, gọi là lợi
nhuận.
Riêng Turgot ủng hộ quan điểm sản phẩm thuần túy chỉ tạo ra trong nông nghiệp
nhưng ông cũng đã đặt cơ sở phân tích lợi nhuận trong công nghiệp. Ông giả sử
đem 100.000 tư bản trong công nghiệp mua một mảnh ruộng thì anh ta sẽ thu
được 1000 địa tô. Đó là sản phẩm thuần túy do tư bản của anh ta mua được.
Turgot còn tạo mầm mống về tư tưởng lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm
sút tỷ suất lợi nhuận.
+ Lý thuyết về tư bản: Quesnay coi tư bản không phải là bản thân tiền tệ mà là
tư liệu sản xuất mua bằng tiền tệ đó (công cụ, súc vật cày kéo, hạt giống, tư
liệu sinh hoạt của công nhân). Như vậy tư bản là vật, nó tồn tại vĩnh viễn.
Turgot thì cho rằng đất đai cũng là tư bản “động sản được tích lũy lại”.
+ Lý thuyết về lao động sản xuất và lao động không sinh lời: lao động sản xuất
là lao động tạo ra sản phẩm thuần túy, còn lao động không tạo ra sản phẩm
2
- 3
thuần tuý là lao động không sinh lời. Vì vậy, nông nghiệp là lao động sản xuât,
còn công nghiệp là lao động không sinh lời.
Đặc điểm chung trong các quan điểm, tư tưởng kinh tế của CNTN là tính đúng
đắn, sự sai lầm, cái hợp lý và điều vô lý ở ngay trong cùng một nội dung, lý
thuyết họ đưa ra lắm lúc bắt gặp sự suy luận một cách ngây thơ, đơn giản.
Trong lý thuyết về sản phẩn thuần tuý rồi ly thuyềt vê lao động không sinh lời, luận
điểm đúng đắn của họ là cho rằng chỉ có lao động sản xuất mới tạo ra giá trị thặng
dư. Chính vì vậy C.Mác đã đánh giá công lao lớn nhất của phái trọng nông và
Quesnay là đã chuyển việc sản xuất giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh
vực sản xuất. Nhưng họ lại sai lầm khi nói giá trị thặng dư chỉ được tạo ra trong
nông nghiệp. Cách lập luận để nói rằng lao động công nghiệp không sinh lời là rất
ngây thơ. Theo cách của họ thì khoai, lúa gieo cấy sẽ thu hoạch được lượng củ, hạt
tăng lên. Còn kéo sợi và cưa xẻ gỗ thì không làm tăng được gì mà còn làm hao hụt đi
một lượng bông và gỗ. Lập luận đó dựa trên quan niệm hết sức thô sơ về của cải,
giải thích theo kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Điều đó đã làm tầm thường hoá những khái
niệm về của cải. Đây là bước thụt lùi so với chủ nghĩa trọng thương (CNTT đã coi
của cải là giá trị).
Về cơ cấu giai cấp xã hội, Quesnay có sai lầm lớn là xem fermier bao gồm tất cả
những người sống ở vùng nông thôn và giai cấp những người không sản xuất là tất
cả những người thị dân. Từ đó dẫn đến điều đáng tiếc: lẽ ra có thể xác định một
luận điểm đúng đắn rằng những kẻ cho vay nặng lãi và thương nhân (với tư cách
là đại biểu của lĩnh vực lưu thông) không sản xuất ra của cải thì lại dẫn tới kết
luận sai lầm rằng cả thợ thủ công và công nhân công trường thủ công cũng không
phải là người sản xuất. Vậy là ở đây ông lại từ bỏ quan điểm sản xuất. Turgot
khắc phục tính chất phiến diện theo cách chia của Quesnay, thấy được giai cấp tư
sản trong nông nghiệp và công nghiệp đều tách khỏi công nhân, qua đó thừa nhận
tính chất đối lập về địa vị xã hội giữa người làm thuê và nhà tư bản. Nhưng vẫn
còn lẫn lộn nguyên tắc chia giai cấp là dựa vào quan hệ với tư liệu sản xuất và
ngành hoạt động của sản xuất.
Trong lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận, có hạt nhân hợp lý là tư tưởng về
số tư liệu sinh hoạt tối thiểu – cơ sở của tiền lương. Tác giả của luận điểm
này thỏa mãn với điều đó và không đi xa hơn. Không giải thích được cơ cấu
mối liên hệ giữa tiền công và tư liệu sinh hoạt đồng thời có hạn chế là không
phân biệt tiền công của công nhân và thu nhập của thợ thủ công. Khi đề cập
đến tư bản lại cũng có những luận điểm đúng đi liền với những sai lầm tai hại:
không phân biệt “những khoản ứng ra lúc đầu” và “những khoản ứng ra hàng
năm”, nếu không chính là Quesnay đã phân biệt được tư bản cố định và tư bản
lưu động. C.Mác xem đó là công lao của phái trọng nông: đã đem tư bản cố định
3
- 4
và tư bản lưu động đối lập nhau, căn cứ cách thức chuyển giá trị của chúng vào
sản phẩm. Nhưng khi nói tư bản là vật tức là xem tư bản chỉ là tư liệu sản xuất
được dự trữ trong nông nghiệp, tức là đã không hiểu được tính chất xã hội của
tư bản, giải thích tư bản một cách thuần tuý tự nhiên chủ nghĩa, đã gạt tiền ra
khỏi tư bản cố định và tư bản một cách sai lầm, hoàn toàn không hiểu được ý
nghĩa và chức năng kinh tế của giai đoạn tiền tệ trong vận động của tư bản.
Cũng như họ đã chuyển từ cực này sang cực khác trong lý luận về tiền tệ. Để
chống lại quan điểm sùng bái, thánh hóa tiền của chủ nghĩa trọng thương, chủ
nghĩa trọng nông lại chỉ xem tiền là “cái ký hiệu làm môi giới giữa những việc
bán và việc mua”, không hiểu đầy đủ bản chất và chức năng của tiền.
Ngoài những tư tưởng, quan điểm của phái trọng nông (mà thực ra là của
Quesnay và Turgot) đã phân tích như trên, riêng Quesnay cũng được C.Mác gọi là
cha đẻ của kinh tế chính trị (giống như Petti) vì có hai công lao lớn trong việc
phát triển khoa học kinh tế. Một là, đặt ra một cách khoa học vấn đề về giá trị
thặng dư (dù chưa giải thích được đầy đủ, khoa học). Hai là, đã sáng tạo ra
“Biểu kinh tế” (là một sơ đồ phức tạp về việc thực hiện sản phẩm hàng năm
của toàn thể xã hội và việc hình thành những tiền đề cho tái sản xuất). Có
người cho rằng biểu kinh tê có ý nghĩa lớn lao trong việc phát triển tư tưởng
kinh tế và sánh đó là một trong ba phát minh lớn nhất của thế giới (tiền tệ, nghề
in sách và biểu kinh tế). Ngược lại, cũng có người cho rằng biểu đó không có
nội dung, không có ý nghĩa.
Ý nghĩa thực sự của biểu kinh tế chỉ có C.Mác mới tìm ra đầy đủ. C.Mác đã cho
thấy bản chất sơ đồ của Quesnay trong biểu kinh tế là một sơ đồ đại cương về tái
sản xuất xã hội. Và chính đó là mầm mống, cơ sở nền tảng của học thuyết tái sản
xuất tư bản xã hội của C.Mác, nó giá trị ở chỗ: một là, trong đó lưu thông tiền tệ
hoàn toàn được quyết định bởi lưu thông hàng hóa và tái sản xuất hàng hóa. Hai là,
Quesnay đã cố gắng trình bày toàn bộ quá trình sản xuất ra tư bản như là một quá
trình tái sản xuất còn lưu thông chỉ là một hình thái của cái quá trình tái sản xuất đó.
Bao gồm trong cái quá trình tái sản xuất đó cả nguồn gốc thu nhập, sự trao đổi giữa
tư bản và thu nhập, mối quan hệ giữa tiêu dùng tái sản xuất và tiêu dùng hẳn. Coi sự
lưu thông giữa hai khu vực lớn của lao động sản xuất như là những yếu tố của quá
trình tái sản xuất.
C.Mác cho rằng sự cố gắng đó, trong điều kiện 30 năm giữa thê kỷ XVIII, tức là
“trong thời kỳ thơ ấu của khoa kinh tế chính trị, là một tư tưởng hết sức thiên tài. Rõ
ràng là thiên tài nhất trong tất cả những tư tưởng mà khoa kinh tế chính trị đã đưa ra
đến bấy giờ”. Nhưng như vậy không có nghĩa là biểu kinh tế không có nhược điểm,
những nhược điểm của nó là: chưa giải quyết vấn đề một cách ổn thỏa: trong đó
những nhà công nghiệp không tự tiêu dùng sản phẩm của mình, như vậy sẽ mất cân
đối; chưa nêu đầy đủ sự phân bố sản phẩm xã hội; xuất phát từ điều kiện của nền
4
- 5
kinh tế tự nhiên để phân tích tái sản xuất TBCN và đã lấy giai cấp địa chủ làm trung
tâm của quá trình thực hiện, chứng minh rằng chính giai cấp quý tộc đã làm cho sản
phẩm xã hội vận động.
Như vậy, với biểu kinh tế Quesnay đả tỏ ra sáng suốt, táo bạo, độc đáo về lý luận, đưa
ra những dự đoán thiên tài. Sơ đồ đã dựa vào những tiền đề nhất định, chứng tỏ sự
trưởng thành của tư tưởng kinh tế ở ông. Nhưng sự lý giải đã làm cho “xã hội tư bản
mang một bề ngoài phong kiến” điều đó bộc lộ rằng quan niệm kinh tế của chủ nghĩa
trọng nông đã bị động cơ giai cấp và ý đồ thoả hiệp giữa chế độ phong kiến và CNTB
chi phối mạnh mẽ.
Sự tồn tại của chủ nghĩa trọng nông chỉ trong thời gian ngắn ngủi (20 năm) trong
hoàn cảnh đặc thù của nước Pháp nhưng đã để lại dấu ấn khá sâu sắc đối với nền
kinh tế nước Pháp. Về lý luận, chủ nghĩa trọng nông đã đạt một số thành tựu quý
báu: đặt nền móng cho việc tìm ra bản chất của giá trị thặng dư, đề ra luận điểm cơ
bản đúng đắn là chỉ có lao động sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư; đã phân tích
được những bộ phận cấu thành của tư bản sản xuất. Về phương pháp luận: đã
chuyển việc nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Và “biểu kinh
tế” của Quesnay có thể xem là một thiên tài. Nhưng tất nhiên họ cũng còn rất nhiều
hạn chế: cũng chỉ dừng lại ở bề ngoài của hiện tượng, phiến diện, nhấn mạnh sản
xuất, phủ nhận lưu thông. Sai lầm lớn là khẳng định chỉ có nông nghiệp mới là lĩnh
vực sản xuất, mới tạo ra giá trị thặng dư. Do đó đẫn tới kết luận giá trị thặng dư là
“tặng phẩm” của tự nhiên.
Chúng ta có thể hiểu được nguyên nhân của những sai lầm, hạn chế của họ
xuất phát từ hai lý do. Trước hết, về lý luận, do phương pháp nhận thức chịu sự
tác động của những điều kiện khách quan như: trong nông nghiệp, việc hình
thành sản phẩm thặng dư thể hiện dưới hình thức dễ thấy hơn; trong công
nghiệp, việc sử dụng các lực lượng tự nhiên chỉ bắt đầu khi nền đại sản xuất
phát triển; có thể nghiên cứu nông nghiệp tách rời với lĩnh vực lưu thông…
Nhưng lý do thứ hai có ý nghĩa quan trọng hơn, đó chính là sự tác động của lợi
ích giai cấp. Không có cách cắt nghĩa nào khác về những mâu thuẩn hết sức rõ
ràng, những thất bại về mặt logic khi họ muốn làm cho “sản phẩm ròng” thể
hiện ra như một tặng phẩm của tự nhiên để rủ bỏ trách nhiệm của giai cấp
phong kiến đối với sự nghèo khổ của nông dân. Với học thuyết “sản phẩm
ròng” chủ nghĩa trọng nông muốn tước bỏ vũ khí tư tưởng của “đẳng cấp thứ
ba” khi họ muốn chống lại quý tộc phong kiến. Phái trọng nông đã đặt ra cho
mình một nhiệm vụ quá là mâu thuẫn: vừa cứu vớt chế độ chiếm hữu ruộng đất
của quý tộc, vừa làm cho chủ nghĩa tư bản nông nghiệp có thể phát triển được.
Bấy giờ nước Pháp đang tiến đến chủ nghĩa tư bản công nghiệp nhưng họ lại
chứng minh tính chất không sinh sản của nó. Cuộc cách mạng sẽ phá vở quan
5
- 6
hệ ruộng đất đang chín muồi nhưng họ lại bám chặt vào chế độ chiếm hữu
ruộng đất quý tộc mà tìm cách chứng minh cho chế độ đó về mặt kinh tế.
Ảo tưởng của chủ nghĩa trọng nông về sự thoả hiệp giữa chế độ phong kiến và
chủ nghĩa tư bản trở thành hoàn toàn không có cơ sở. Chủ nghĩa trọng nông phá
sản.
Từ nghiên cứu những luận điểm đúng, sai, những hạn chế của các nhà kinh tế
theo chủ nghĩa trọng nông làm cho chúng ta thấy rằng chủ nghĩa Mác nói
chung, học thuyết kinh tế Mác nói riêng sở dĩ có sức sống mạnh mẽ bởi vì đã
được đặt trên nền tảng khoa học vững chắc bằng việc kế thừa đầy đủ những
tinh hoa của người đi trước. Mặt khác, việc nghiên cứu này không phải không
có ý nghĩa trong việc vận dụng để tiếp thu đường lối, chính sách của Đảng, nhà
nước trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay.
6
nguon tai.lieu . vn