Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 79 (01/2022) No. 79 (01/2022) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ NHỮNG KHU VỰC TỤ CƯ VÀ CÁC NGÔI MIẾU CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở VÙNG ĐẤT BÌNH DƯƠNG (TỪ NỬA CUỐI THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XX) The settlement areas and the temples of the Hoa Community in Bình Dương region (from the second half of 18th century to the middle of 20th century) TS. Đào Vĩnh Hợp Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Sử liệu ghi nhận sự có mặt của người Hoa ở vùng đất Bình Dương từ nửa cuối thế kỷ XVIII. Sang thế kỷ XIX, người Hoa có mặt ở đây với số lượng ngày càng đông, họ đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của vùng đất này, nhất là trong hoạt động thủ công nghiệp và thương nghiệp. Những dấu ấn về đời sống cộng đồng cùng dấu tích các cơ sở văn hoá, tín ngưỡng của người Hoa được tìm hiểu qua những ghi chép của tác giả đương thời và qua nghiên cứu những dấu tích văn hóa từ các ngôi miếu cộng đồng hiện tồn. Từ đó, bài viết góp phần làm rõ hơn lịch sử và vai trò của cộng đồng người Hoa ở Bình Dương nói riêng và ở Nam Bộ nói chung. Từ khóa: cộng đồng, miếu, người Hoa, Bình Dương, tụ cư ABSTRACT The presence of the Hoa people in the land of Bình Dương was indicated in the historical records from the second half of the 18th century. In the 19th century, the increasing number of Hoa people made many contributions to the development of this land, especially in handicraft-making and commercial field. The imprints on the life of the Hoa community in this land as well as the traces of their cultural and religious facilities are found in contemporary authors’ records and from the existing communal temples. Basing on these backgrounds, the article aims to clarify the history and role of the Hoa community in Bình Dương in particular and in the South of Vietnam in general. Keywords: community, temples, the Hoa people, Bình Dương, settlement Đặt vấn đề kiện của từng địa phương. Vùng đất Bình Khi đề cập đến người Hoa ở Nam Bộ Dương là một trường hợp trường hợp như trong lịch sử, chúng ta thường nghĩ đến vậy. Nhìn chung, người Hoa ở Bình Dương cộng đồng người Hoa ở các hải cảng, đô đã được tập trung nghiên cứu trong những thị lớn như Sài Gòn, Cù Lao Phố, Hà Tiên, năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn những ... Thực tế, người Hoa đã có mặt ở hầu vấn đề còn chưa được giải đáp chắc chắn, khắp Nam Bộ và tham gia vào nhiều hoạt chẳng hạn như: thời điểm ghi nhận sự có động kinh tế – xã hội phù hợp với điều mặt sớm nhất của người Hoa ở vùng đất Email: daovinhhop@gmail.com 32
  2. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Bình Dương, các hướng di dân Hoa đến Phúc Dương về an trú tại địa điểm Dầu vùng đất Bình Dương; thành phần di dân, Mít, lấy nơi đây làm đại bản doanh để phủ các khu tụ cư, cơ sở tín ngưỡng, văn hóa, dụ, tập hợp tàn quân và dân chúng các tỉnh xã hội của người Hoa, ... Nam bộ chống lại quân Tây Sơn (Quốc sử 1. Lược sử người Hoa đến vùng đất quán triều Nguyễn, 2002, tr. 188-189). Bình Dương Đến năm 1846 (Thiệu Trị năm thứ 6), Chính sử đề cập về thời điểm người theo Đại Nam nhất thống chí thì ở huyện Hoa vào vùng đất Nông Nại (Đồng Nai) ở Bình An đã có 2 bang người Thanh: “Huyện nửa cuối thế kỷ XVII. Năm 1679, nhóm Bình An: …năm Thiệu Trị thứ 6, lại chia các tướng Trung Hoa là Trần Thượng tổng Bình Thể đặt tổng Bình Lâm, nay lãnh Xuyên và Dương Ngạn Địch cập biển Đà 6 tổng, 58 xã thôn ấp, 2 bang người Thanh Nẵng (Trịnh Hoài Đức, 2005, tr.110). Chúa và 2 huyện tinh nhiếp” (Quốc sử quán triều Nguyễn cho họ vào phương Nam khai Nguyễn, 2006, tr. 42–43). Đến năm 1867: khẩn. Riêng nhóm do Trần Thượng Xuyên người Hoa ở hạt Thủ Dầu Một là 119 người; lãnh đạo đã sớm phát hiện ra ưu thế của Cù khu vực Tân Uyên, thống kê chung với hạt Lao Phố và tập trung đến đây: “Bọn tướng Biên Hoà là 153 người (Nguyễn Đình Đầu, các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem 1994a, tr.89, 90, 91). binh thuyền vào cửa Cần Giờ. Trần Sau khi Pháp ổn định sự cai trị ở Nam Thượng Xuyên theo cửa biển Cần Giờ rồi Kỳ và tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai” năm 1889, số lượng người Hoa tăng lên (Trịnh Hoài Đức, 2005. tr.110). nhanh. Căn cứ ghi chép của bác sĩ J. C. Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), Baurac thì năm 1901, dân ở Thủ Dầu Một Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn gồm: 36 người châu Âu, 77.768 người Phúc Chu sai làm Thống suất kinh lược xứ Việt, 981 người Hoa (Huỳnh Ngọc Đáng, Đồng Nai và tổ chức việc cai trị trên vùng 2020, tr. 7). Theo Địa chí Thủ Dầu Một đất mới phương Nam. Trong thời kỳ lập năm 1910, tỉnh Thủ Dầu Một có 1.118 phủ Gia Định, khối người Minh Hương người Hoa và 1.069 người Minh Hương. phần lớn được tổ chức thành đơn vị xã, với Niên giám thống kê cho biết: năm 1915, 2 xã: Minh Hương (ở Sài Gòn) và Thanh tỉnh Thủ Dầu Một có 2.063 người Hoa và Hà (Cù Lao Phố): “Năm 1698, ... Bắt đầu 643 người Minh Hương; năm 1920, tỉnh đặt phủ Gia Định, ... Lại lấy người Thanh Thủ Dầu Một có 1.765 người Hoa và 900 đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã người Minh Hương. Theo tài liệu Cục lưu Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh trữ Trung Ương: năm 1930, người Hoa ở Hương...” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Thủ Dầu Một có 3.300 người, năm 1931 2002, tr.111). tăng 6.420 người, năm 1932 sụt còn 5.551 Gia Định Thành thông chí đề cập đến người, năm 1933 còn 4.866 người và năm sự kiện năm 1776 – đội quân Hoà Nghĩa 1935 chỉ còn lại 1.732 người (Trần Bạch của Lý Tài, chủ yếu là người Hoa, có đến Đằng (chủ biên), 1991, tr.473,532,533.). đóng quân ở chợ Thuỷ Vọt (Trịnh Hoài Tại tỉnh Thủ Dầu Một, năm 1953, người Đức, 2005, tr. 240). Về sau, Đại Nam thực Hoa là 4.385 người (chiếm 3,69% dân số lục chép kỹ hơn về sự kiện này: tháng 10 của tỉnh –118.769 người) (Nguyễn Đình năm 1776, Lý Tài đưa Đông cung Nguyễn Đầu, 1994b, tr.112). 33
  3. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) 2. Các khu vực tụ cư của người Hoa địa lý, đây là nơi thuận tiện cho cả giao tại vùng đất Bình Dương thông thủy, bộ. Thứ hai, bấy giờ khu vực 2.1. Khu tụ cư Thủ Dầu Một này chính là huyện lỵ Bình An, tạo cho Như đã trình bày, Gia Định Thành người Hoa cảm thấy yên ổn về mặt pháp thông chí và Đại Nam thực lục đề cập đến luật để định cư… Thứ ba, nơi đây dự trữ sự kiện Hoà Nghĩa quân của Lý Tài đến nguồn nguyên liệu đất sét lớn để phát triển Thủ Dầu Một vào năm 1776 (Quốc sử nghề gốm. Nhóm Hoa Phúc Kiến vốn thạo quán triều Nguyễn, 2002, tr. 188-189). Đây nghề gốm đã biến nơi đây trở thành trung cũng là mốc thời gian xưa nhất mà một sự tâm gốm quy mô với địa danh nổi tiếng là kiện ở vùng đất Bình Dương được đề cập “khu Lò Chén”. Người Hoa cũng đã góp trong chính sử của nhà Nguyễn. Ở đây phần tạo nên sự phồn thịnh của khu chợ đáng lưu ý, Lý Tài vốn là một Hoa thương, Phú Cường – khu chợ lớn nhất của vùng đội quân Hoà Nghĩa của ông chủ yếu cũng Thủ Dầu Một, Đại Nam Nhất Thống Chí là thương nhân, phu thuyền và nông dân chép: “Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường người Hoa. Do đó, việc chọn nơi đóng huyện Bình An, tục danh chợ Dầu Một quân tại Thủ Dầu Một khi ấy hẳn là do ông (hay Dầu Miệt), ở bên lỵ sở huyện, xe cộ ta đã có những cơ sở nhất định, ở nơi mà ghe thuyền tấp nập…” (Quốc sử quán triều đã có ít nhiều người Hoa đến tụ cư, làm ăn Nguyễn, 2006, tr.80). trừ trước. Năm 1861, có 200 người người Hoa Vùng đất trung tâm của Thủ Dầu Một buôn bán ở Chợ Thủ Dầu Một. Năm 1889, – Bình Dương được các bộ sử của nhà làng Phú Cường đã có khoảng 1000 người Nguyễn gọi là khu chợ Thuỷ Vọt, Dầu Mít Hoa trên tổng số dân là 5000 người dân hay Dầu Miết. Vào cuối thế kỷ XVIII – của làng (Lê Quang Mỹ (chủ biên) (1990), đầu thế kỷ XIX, vùng này đã có nhiều thôn tr.21,25). Người Hoa ở khu chợ Phú Cường xã. Người Hoa đã sớm phát hiện ra nhiều đông đúc và làm ăn thịnh vượng nhất là ưu thế của vùng đất này. Thứ nhất, về vị trí dưới thời Pháp thuộc, nổi bật là trong 34
  4. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN khoảng thời kỳ 1930 – 1945. gắn chặt với dòng chảy giao thông, thương 2.2. Khu tụ cư Tân Uyên mại trên sông Đồng Nai, quan hệ chặt chẽ Hoàng Việt Dư Địa chí cho biết đời với Cù Lao Phố và đô thị Biên Hoà (Bàn sống người Hoa tại tổng Bình An, địa điểm Lân). Đất sét của Tân Uyên là nguồn cung giáp ranh Biên Hoà và Tân Uyên (ngày cấp nguyên liệu cho làng gốm Tân Vạn. nay): “600 tầm, hai bên bờ đều có dân cư Cuối thế kỷ XVIII, người Hoa đến Tân trù mật, họ chuyên trồng trầu cau, dâu và Uyên là từ hướng Cù Lao Phố – Biên Hoà mía, đến chợ thôn Bình Thảo, chợ ở bên bờ là chủ yếu. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, Tân bắc, tục gọi là chợ Bến Cá, quán xá đông Uyên mới đón các nhóm Hoa đến từ Lái đúc, giữa đó có nhà ngói, người Kinh, Thiêu, Thủ Dầu Một. Vùng Tân Phước người Hoa buôn bán tấp nập, họ sống bằng Khánh là nơi đã sản xuất gốm sứ khá lâu nghề làm đường cát, đường phèn, đường đời. Tục truyền, chú Mầu Quảng Đông đến đen, đường phổi, dầu phụng” (Lê Quang Tân Phước Khánh khá sớm và đã phát triển Định, 2005, tr.298). nghề gốm tại đây. Năm 1867, nhân dịp Chợ Bến Cá (Bình Thảo thị) nằm ở chùa Bà khánh thành, chú Mầu đã cúng khu vực tiếp giáp của Biên Hoà, Vĩnh Cửu cho chùa một lư hương và một lọ hoa. Bình của Đồng Nai; chợ Tân Uyên (Đồng Sứ hoa vẽ hình bát tiên có in chữ “Tân Khánh thị), chợ Tân Ba (Đồng Bản thị) khi ấy thôn” (Nguyễn An Dương (chủ biên), cũng nằm trong địa bàn huyện Phúc Chính, 1992, tr.13). dinh Trấn Biên, nhưng ở bên bờ nam và 2.3. Khu tụ cư Lái Thiêu đối diện với chợ Bến Cá (nay thuộc địa bàn Từ khá sớm, vùng đất Lái Thiêu(2) Tân Uyên) trong một khu vực có hệ thống cũng được người Hoa lựa chọn định cư. Họ chợ liên hoàn (Quốc sử quán triều Nguyễn, tụ cư ở các địa điểm: “Tân Thới (Thái) 2006, tr.79). Đây là những chợ có mối liên Tây, xã Tân Thới giáp Đông (có cả xã hệ giao thương gần gũi với nhau, lấy đoạn Thịnh Hòa nhập vào) và xã Tân Thới (thôn sông giữa cù lao Thạnh Hội (tên cũ là Quy Vĩnh Phúc)” (Trịnh Hoài Đức, 205, tr.136). Dữ) và cù lao Bạch Đằng (tên cũ là Ngô Sự hưng thịnh của người Hoa tại đây gắn châu) ở hai bên bờ sông Đồng Nai làm con liền với sự phát triển của khu phố chợ Lái đường giao thương. Thiêu và cả ngành sản xuất gốm. Nhờ việc Rõ ràng là ở Tân Uyên đã có sự hiện khai thác nguồn nguyên liệu đất sét phong diện của Hoa thương vào cuối thế kỷ XVIII phú tại chỗ, người Hoa Phúc Kiến đã mở lò – đầu thế kỷ XIX. Sự phát triển thời kỳ này gốm. Lái Thiêu là trung tâm phát triển của của Tân Uyên, có lẽ liên quan chặt chẽ với gốm sứ Bình Dương từ nửa cuối thế kỷ bộ phận người Hoa ở Cù Lao Phố, nhất là XIX. Đặc biệt, Lái Thiêu tuy không phải là sau sự kiện quân Tây Sơn đốt phá Cù Lao nơi sản xuất gốm nhiều nhất nhưng được Phố vào năm 1776 (Trịnh Hoài Đức, 2005, định danh cho loại gốm sản xuất của toàn tr.238). Thời điểm giao tranh này, đa phần xứ Thủ Dầu Một vào đầu thế kỷ XX, đó là người Hoa ở đây đã chuyển vào cư trú tại dòng gốm “Lái Thiêu”. khu vực Chợ Lớn (Cao Tự Thanh, 2007, 2.4. Khu tụ cư Búng, An Thạnh tr.120 – 125). Bấy giờ, Tân Uyên cũng là Tiếp theo sự định cư sớm ở vùng Tân một điểm đến của người Hoa. Uyên và Lái Thiêu, từ nửa cuối thế kỷ Trong suốt chiều dài lịch sử, Tân Uyên XIX, người Hoa đã chuyển đến sinh sống ở 35
  5. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) các địa bàn lân cận, trong đó có vùng đất hội của người Hoa tại vùng đất mới. xung quanh chợ Búng, hay vùng chợ Bình Buổi ban đầu có mặt tại Bình Dương, Nhan Thượng, chợ Cây Me (khu vực Bình người Hoa làm hoa màu, buôn bán, thủ Nhâm, Búng nay là các xã An Sơn, An công nghiệp như: nghề làm đường cát với Phú, Bình Nhâm, Hưng Định, Thuận Giao) các lò đường; nghề cưa ván, đóng ghe tải, và thị trấn An Thạnh hiện nay. Khu vực ... nghề gốm chưa xuất hiện. Từ giữa thế kỷ này nằm giữa trung tâm buôn bán Lái XIX, người Hoa đến Bình Dương đông Thiêu và Phú Cường, đồng thời có nhiều hơn, họ phát triển nhiều ngành nghề, đặc tiềm năng phát triển nghề gốm bởi không biệt là làm gốm. Bấy giờ, Bình Dương có 3 gian rộng rãi, nhiều đồi gò với trữ lượng trường phái gốm sứ: Quảng (đa số chủ lò đất sét tốt. Như vậy, từ Lái Thiêu lên, nghề gốc ở Quảng Đông), Triều Châu (chủ lò gốm của người Hoa đã phát triển ra vùng gốc Triều Châu đa số là người Hẹ) và Phúc xung quanh chợ Búng như An Thạnh, Kiến (chủ nhân có gốc Phúc Kiến). Đến Hưng Định, … đầu thế kỷ XX, “Trong tỉnh có được 2.5. Khu tụ cư Dầu Tiếng khoảng 40 lò gốm, trong đó An Thạnh 5 lò, Xuất hiện muộn nhất và gắn việc trồng Hưng Bình có 8, Tân Thới có 1, Phú cao su của tư bản Pháp và các điền Cường có 11, Bình Chuẩn có 3 và 9 lò ở chủ người Việt, người Hoa nửa đầu thế kỷ Tân Khánh. Xưởng chính ở Lái Thiêu” XX trở đi. Khi công ty đồn điền cao su (Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương, 2007, Mít-sơ-lanh (Société des Plantations et tr.10). Người Hoa ở Bình Dương còn có pneumatiques Michelin au Việt Nam) ra các nghề làm thuốc bắc, làm bánh mì, điêu đời và triển khai trồng cây cao su ở Dầu khắc đá, vẽ tranh trên kiếng, làm mì sợi, Tiếng vào năm 1917, cộng đồng người Hoa làm chao, chế biến cà phê, sản xuất xà cũng có mặt. Dầu Tiếng là nơi tụ cư của bông, nghề nhộm... (Huỳnh Ngọc Đáng, người Hoa ở Bình Dương mà không gắn 2012, tr.126–146,177). Đồng thời, người với quá trình phát triển đô thị hay trung Hoa còn hoạt động thương mại, góp phần tâm gốm như các điểm tụ cư trước đó dựng nên và phát triển các phố chợ. (Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, tr.105,114). Người Hoa Bình Dương chủ yếu có 3. Các ngôi miếu Hoa ở vùng đất nguồn gốc từ các địa phương ven biển phía Bình Dương Nam, Đông Nam Trung Hoa với 4 nhóm 3.1. Sự ra đời các miếu Hoa phương ngữ: Phước Kiến, Quảng Đông, “Miếu”: chữ Hán, miếu là 廟 hoặc 庙(3) Triều Châu và Khách Gia (Hẹ/Hakka, Sùng là một cái điện nằm trước cung vua, nơi để Chính). Tại Bình Dương, người Hoa cũng thờ cha mẹ, ông bà, tổ tiên của nhà vua, là tổ chức thành các bang. Thời Pháp thuộc, nơi thờ quỷ, thần, ... (Thiều Chửu, 2004, cả bốn nhóm Hoa ở Thủ Dầu Một đều đã tr.180) hay là nơi thờ thần thánh, một đền có bang riêng của mình: “Năm 1885, chính thờ nhỏ (Viện ngôn ngữ, 2003, tr.632). Tại quyền thuộc địa cho phép Hoa kiều thành vùng đất Bình Dương, những cơ sở tín lập các bang người Hoa tại Thủ Dầu Một ngưỡng, văn hóa phục vụ cho nhu cầu của là: Quảng Đông, Triều Châu, Phước Kiến cộng đồng, trong đó có các ngôi miếu Hoa và Hải Nam. Riêng số lượng người Hẹ ít đã được ra đời ngay tại những khu tụ cư nên sáp nhập vào bang Triều Châu” dựa trên tiềm lực nhất định về kinh tế và xã (Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), 2009, 36
  6. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN tr.108). 光緒十八年.泰昌和敬送 Quang Tự thập 3.2. Miếu Hoa ở những khu vực tụ cư bát niên. Thái Xương Hòa kính tống 3.2.1. Tại khu tụ cư Thủ Dầu Một (Quang Tự thứ 18 – 1892). Thái Xương  Miếu Thiên Hậu bên bờ rạch Hương Hòa phụng cúng) (Huỳnh Ngọc Trảng, Chủ Hiếu 2009, tr.108,109). Năm 1945, Thiên Hậu Miếu Thiên Hậu được người Hoa cung này đã bị chiến tranh huỷ hoại và Phúc Kiến tạo lập vào năm 1867 bên bờ phải ngưng hoạt động một thời gian dài, rạch Hương Chủ Hiếu, ở Phú Cường. Niên cho đến năm 1996, người Hoa ở đây đại thành lập miếu gắn liền với nghề làm mới xây dựng lại Thiên Hậu cung trên nền gốm của người Hoa: “Tục truyền về việc đất cũ. chú Mầu (Tân Phước Khánh) đã dâng cúng  Hai ngôi miếu, điện Ông Bổn: cùng một lư hương và bình hoa cho chùa Bà thời điểm ra đời miếu Thiên Hậu, cộng Thủ Dầu Một nhân dịp khánh thành vào đồng người Hoa Phúc Kiến ở Thủ Dầu năm 1867” (Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên), Một cũng lập hai miếu thờ Ông Bổn: 2009, tr.32). Qua đó cho thấy bang Phúc 福安廟 Phước An miếu: (nay thuộc khu 7, Kiến ở Thủ Dầu Một đã hình thành rất phường Chánh Nghĩa). Miếu do người Hoa sớm, có thể trước năm 1867. Phúc Kiến họ Lý lập năm 1882, thờ ông tổ Năm 1871, miếu được tôn tạo, cất của 7 họ khác nhau – 七府大人Thất Phủ thêm 3 gian nhà bếp ở bên phải. Ngày 10 Đại nhân. Đây cũng là từ đường của họ tháng 3 năm Canh Thìn (1880), bang Lý, với tên gọi “Lý thị gia miễu” (福武殿), trưởng Triều Châu – Khách Gia là Văn Phước Võ điện (điện Ông Bổn Bà Lụa): Dịch cùng với các bang chức là Phương nay thuộc khu 9, phường Chánh Nghĩa. Phát, Quách Xương Nguyên, Tăng Phúc Điện được những người họ Vương (Phúc xin chính quyền làm thêm 3 gian bếp. Văn Kiến) dựng khoảng năm 1885, thờ Huyền bản ghi: “Trước đây chúng tôi đã lập một Thiên Thượng Đế. miếu thờ tại địa phận thôn Phú Cường, sau  Đầu thế kỷ XX: miếu Thiên Hậu đó dân bang Triều Châu được làm thêm 3 (chùa Bà Thủ Dầu Một, chùa Bà Bình gian nhà bếp phía bên phải miếu. Nay dân Dương, chùa Bà Phú Cường): (nay thuộc bang Khách Gia cũng được Bà bảo hộ số 04, đường Nguyễn Du, phường Phú muốn xin làm thêm ba gian bếp nữa ở phía Cường) được thành lập. Năm 1923, khu bên trái” (Huỳnh Ngọc Đáng, 2012, tr.57). vực chợ Thủ Dầu Một đã thành lập bốn Sự kiện trên cho thấy trước 1871, bang người Hoa riêng theo từng nhóm người Triều Châu ở Thủ Dầu Một đã khá phương ngữ và họ đã chung sức xây lại đông và có tổ chức bang. Người Sùng ngôi mới tại vị trí mới này. Chính đã đến định cư đông ở Thủ Dầu Một Như vậy ở khu vực Thủ Dầu Một (Phú nhưng chưa có bang riêng mà chung Cường xưa), cho đến nửa đầu thế kỷ XX, bang với người Triều Châu. Năm 1892, lò cộng đồng người Hoa đã xây dựng được Thái Xương Hòa sản xuất nhiều lư hương một số ngôi miếu khá khang trang với số tráng men lưu ly và cúng cho miếu Thiên lượng miếu được xây dựng là 4 miếu. Mặc Hậu Thủ Dầu Một 1 chiếc. Lư có 3 chữ dù có cộng đồng người Hẹ lúc này cũng 天后宫 Thiên Hậu cung và lạc khoản: chưa có miếu nhưng cơ bản các bang 37
  7. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) người Hoa đã đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng 3.2.3. Tại khu tụ cư Lái Thiêu của cộng đồng cũng đã có nơi thờ tự. So  Hai ngôi miếu Thiên Hậu với khu vực Lái Thiêu, những miếu ở Thủ Cơ sở thứ nhất – miếu Phú Tân hội: ở Dầu Một không sớm hơn nhưng lại có sự sát bờ sông, nay thuộc khuôn viên quán cà phát triển mạnh mẽ nhờ vào cộng đồng cư phê Thùy Linh, đường Ngô Quyền, khu dân buôn bán phát đạt tại đây. Tín ngưỡng phố Long Thới, phường Lái Thiêu. Theo tư thờ Thiên Hậu và Ông Bổn chiếm chủ đạo, liệu dòng họ Trần thì người lập miếu ban Ông Bổn ở đây được các dòng họ người đầu là ông sơ của họ, một người Hoa Hoa Phúc Kiến quan niệm là những vị Quảng Đông. Năm 1913, miếu được xây tổ tiên dòng họ có nguồn gốc từ ở quê lại, quay mặt về hướng bắc và giữ nguyên hương cũ. trạng cho đến nay (Huỳnh Ngọc Đáng, 3.2.2. Tại khu tụ cư Tân Uyên 2012, tr.80). Thực tế ghi nhận: di tích còn Ở Tân Khánh, 関聖帝廟 Quan Thánh bức hoành bằng gỗ khá dày, khắc Đế miếu (chùa Ông) được người Hẹ dựng 恩同四海 Ân Đồng Tứ Hải, niên đại: khoảng cuối thế kỷ XIX, tại ấp Khánh 癸卯年 Quý Mão niên (1843); tại mái hiên Thạnh, Tân Phước Khánh. Miếu thờ vị chính diện di tích có 3 chữ Hán: 富新會 thần chính là Quan Công. Buổi đầu sơ Phú Tân hội. Định danh di tích không phải khai, miếu rất nhỏ, chỉ chánh điện, dựng là Thiên Hậu cung như các cơ sở khác. Căn bằng gỗ, tọa lạc cạnh bờ suối thấp. Theo cứ vào niên đại Đồng Trị trên chuông đồng các vị cao niên, tại bậc thềm lên xuống của của miếu Thiên Hậu tách ra từ cơ sở này miếu khi còn ở địa điểm cũ có ghi năm (miếu Thiên Hậu tại số 150 đường Châu 1913. Đây có thể là năm trùng tu, tôn tạo, Văn Tiếp), có thể đoán định năm Quý Mão bấy giờ miếu được xây bằng đá ong, hợp trên bức hoành ở Phú Tân hội phải là năm chất ô dước. Người Hoa Phúc Kiến họ 1843. Như vậy, có thể sớm hơn năm 1843, Vương ở Tân Khánh cũng xây dựng người Hoa đã tụ cư tại Lái Thiêu. 福義堂 Phước Nghĩa đường (miếu Ông Cơ sở thứ hai – Thiên Hậu cung (cung Bổn) (nay thuộc phường Tân Phước Thiên Hậu – Chùa Bà Lái Thiêu): số 150, Khánh) vào năm 1936, ban đầu thờ vị thần đường Châu Văn Tiếp, phường Lái Thiêu. chính là Quan Thánh, về sau chuyển sang Cung có một chuông đồng ghi 同治九年 thờ chính Huyền Thiên Thượng Đế. Đồng Trị cửu niên (Đồng Trị năm thứ 9 – So với những khu vực tụ cư khác ở năm 1870). Từ đó, có thể đoán định niên Bình Dương, những miếu ở khu vực tụ cư đại xây dựng miếu gần thời điểm này. Tân Uyên được xây dựng muộn hơn, đầu Theo lời kể truyền miệng của các vị cao thế kỷ XX các ngôi miếu mới được thành niên, Thiên Hậu cung được lập sau cơ sở lập. Các ngôi miếu này chủ yếu của cư dân thứ nhất vài chục năm, lý do là cơ sở thứ làm nghề gốm nên họ thờ những vị thần nhất quá hẻo lánh, nguy hiểm khi đến cúng thánh thiên về bảo hộ đất đai, trong đó nổi viếng, nhất là trong thời chống Pháp. bật là Ông Bổn. Sự xuất hiện của những  Miếu Quan Đế: cùng với 2 miếu ngôi miếu cộng đồng đã chứng tỏ cư dân trên, trong giai đoạn sớm, tại Lái Thiêu còn Hoa ở đây đã có cuộc sống ổn định và phát có 關帝廟 Quan Đế miếu (miếu Quan triển vững chắc. Thánh – chùa Ông Ngựa): nay ở đường 38
  8. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Châu Văn Tiếp, phường Lái Thiêu. Ngôi  Miếu Ông Bổn: Năm 1934, họ miếu được xây dựng gần với thời gian lập Vương của bang Phúc Kiến xây dựng miếu Thiên Hậu (ở đường Châu Văn Tiếp). Một Ông Bổn (Phước Thọ Đường) ở ấp Hưng đại hồng chung của Quan Đế miếu khắc Lộc, xã Hưng Định. niên đại năm Bính Tuất (1886), rất có thể Như vậy là so với niên đại các miếu ở miếu được thành lập gần vào thời điểm này. khu vực Lái Thiêu và Phú Cường thì miếu Mặc dù Lái Thiêu không phải là nơi Hoa sớm nhất khu vực Búng, An Thạnh có sớm nhất ghi nhận có sự có mặt của người niên đại muộn hơn, nhưng lại sớm hơn Hoa ở vùng đất Bình Dương, nhưng miếu những miếu đầu tiên của hơn hai khu vực Thiên Hậu (Phú Tân Hội) ở Lái Thiêu lại Tân Uyên và Dầu Tiếng. Mặc dù niên đại là ngôi miếu sớm nhất của người Hoa ở của miếu thường không phản ánh đầy đủ vùng đất này, miếu được xây dựng từ năm quá trình định cư của các lớp cư dân vì 1843. Tiếp đến là việc thành lập Thiên Hậu thường người Hoa phải định cư một thời cung và Miếu Quan Đế, đều được xây gian, khi có đủ tài lực, vật lực mới có thể dựng vào nửa cuối thế kỷ XIX. Những xây dựng miếu (theo xu hướng chung, ngôi miếu này khẳng định nhóm cư dân những miếu thời kỳ đầu thường được làm Hoa ở đây đã xây dựng được đời sống ổn tạm bợ, sau mới xây dựng kiên cố). Tuy định nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi, gần với nhiên, nhìn vào mối tương quan về thời kỳ các vùng vốn đã phát triển như Sài Gòn, xây dựng và phát triển của các miếu Hoa, Biên Hoà và cũng rất thuận lợi giao thấy được xu hướng chuyển dịch cư dân từ thương lên các khu vực khác của Bình Lái Thiêu lên và từ Phú Cường sang khu Dương lúc bấy giờ như Búng, Phú Cường, vực Búng, An Thạnh ở nửa cuối thế kỷ Tân Uyên. XIX, họ tập trung đến đây để khai thác đất 3.2.4. Tại khu tụ cư Búng, An Thạnh sét trong lĩnh vực làm gốm. • Miếu Thiên Hậu: Miếu Thiên Hậu 3.2.5. Tại khu tụ cư Dầu Tiếng – Chùa Bà Búng: hiện tọa lạc trên đường Miếu Thiên Hậu – Chùa Bà Dầu Tiếng ĐT.745. Năm 1874, người Hoa mua đất (khu phố 3, thị trấn Dầu Tiếng, huyện Dầu xây chùa Bà: “…người bán Nguyễn Văn Tiếng). Lúc đầu tọa lạc bên bờ sông Sài Chánh ở huyện Bình An, chánh tổng ngụ Gòn. Ngôi miếu nhỏ, miếu xây dựng thô tại thôn An Thạnh, cả nhà lẫn đất diện sơ, bằng gạch, lợp ngói âm dương. Năm tích 5ha, bán cho công sở Đồng An Thiên 1937, người Hoa Quảng Đông và Triều Hậu, có phân định ranh giới 4 hướng Châu dời về vị trí như ngày nay. đông, tây, nam, bắc. Mời Phương Hồng Khu vực Dầu Tiếng là nơi định cư Phát làm chứng và hai bên cùng nhau dựa muộn nhất của người Hoa ở Bình Dương theo giá là 100 đồng, đất vĩnh viễn thuộc và ở đây, đến nay, cũng không có nhiều về công sở Đồng An” (Huỳnh Ngọc ngôi miếu được thiết lập. Do chỉ có một Đáng, 2012, tr.89). Di tích hiện còn 2 cặp ngôi miếu Thiên Hậu nên miếu này có vai liễn có nội dung giống nhau, tuy có 2 niên trò rất nổi bật trong đời sống cộng động đại: Ất Tý (1905) và Quý Sửu (1913). Có người Hoa, là nơi tập trung đời sống tín thể khẳng định rằng người Hoa đến định ngưỡng, văn hoá của cộng đồng người của cư ở Búng vào khoảng giữa thế kỷ XIX tất cả các nhóm cư dân. Hàng năm vào dịp (trước năm 1874). vía Bà, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Tiêu, 39
  9. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) miếu Thiên Hậu luôn là trung tâm sinh Ông Bổn của họ là Huyền Thiên Thượng hoạt văn hoá, với những lễ hội lớn được tổ Đế và thờ ở 4 cơ sở tín ngưỡng. Người Hoa chức không chỉ thu hút của người Hoa mà họ Lý coi ông Bổn là thủy tổ của 7 họ: cả cư dân của thị trấn Dầu Tiếng và các địa Lực, Chu, Quách, Tiêu, Triệu, Lý và Châu. phương lân cận. Tín ngưỡng về Ông Bổn gắn với các tộc họ 3.3. Nhận định lớn và nghề gốm. Từ xưa, các miếu Hoa Sự ra đời của hàng loạt các miếu Hoa trở thành địa chỉ thực hành tín, lễ hội như ở Bình Dương, đặc biệt là vào nửa cuối thế Vía Bà (Thiên Hậu), Vía Ông (Quan kỷ XIX cho thấy người Hoa đã có mặt, Thánh, Ông Bổn), … Lịch sử miếu Hoa định cư và đủ tiềm lực để xây dựng nên còn phản ánh những biến thiên của vùng những thiết chế tín ngưỡng, văn hoá, xã đất và con người nơi đây. Bên cạnh việc hội. Ban đầu, các ngôi miếu thường có quy trùng tu, tôn tạo và xây mới các miếu, tại mô nhỏ, được làm bằng vật liệu thô sơ, tuy Bình Dương cũng ghi nhận hiện tượng chia nhiên vẫn được kiến tạo dựa theo nguyên tách các miếu. Điều này khẳng định sự lớn tắc của thuật phong thủy. Theo yếu tố âm, mạnh của người Hoa nói chung, đặc biệt là tính nữ nên các miếu Bà thường tọa lạc các nhóm cộng đồng và tộc họ người Hoa gần nguồn nước của hệ thống sông (các tại vùng đất mới Bình Dương. nhánh sông Sài Gòn, sông Đồng Nai cùng Kết luận các kênh rạch địa phương: rạch Lái Thiêu, Trong quá trình tụ cư và sinh sống lâu rạch Hương Chủ Miếu, …). Đồng thời ở dài tại vùng đất Bình Dương, cộng đồng trung tâm thị tứ, gần chợ (chợ Thủ Dầu người Hoa tạo lập nên các thiết chế kinh tế, Một, chợ Bưng Cầu, chợ Lái Thiêu, khu văn hóa, xã hội trên vùng đất mới. Đó là chợ Búng, ...), giữa các khu dân cư đông những khu lò gốm; khu phố Hoa với các đúc hiện hữu, ... nhằm thuận tiện cho hoạt cửa hàng, dãy tiệm; các trường học; khu động sinh hoạt và tín ngưỡng. Về sau, các nghĩa trang … Trong số đó, đặc biệt hơn cả di tích được sửa chữa, xây dựng lại kiên cố là các miếu Hoa với những giá trị văn hóa hơn theo kiểu đền miếu truyền thống của vật thể và phi vật thể phản ánh việc bảo lưu người Hoa. văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Sự hiện diện của các miếu Hoa đã ghi Hoa tại Bình Dương. Dù đã trải qua bao dấu lịch sử hình thành và định cư của biến cố lịch sử, lúc thăng, lúc trầm nhưng người Hoa tại Bình Dương nói chung và cộng đồng người Hoa đã có nhiều đóng quá trình tụ cư của cộng đồng người Hoa góp quan trọng trong công cuộc khai phá, các vùng đất Phú Cường, Chánh Nghĩa, xây dựng vùng đất Bình Dương. Các miếu Bưng Cầu, Lái Thiêu… nói riêng. Nhìn Hoa ở Bình Dương ghi dấu quá trình định chung, tại mỗi khu vực tụ cư, người Hoa cư và phát triển của cộng đồng người Hoa đều tạo lập miếu Thiên Hậu, miếu Quan Đế ở vùng đất Bình Dương, sự giao lưu văn hay miếu Ông Bổn. Thiên Hậu, Quan Công hóa Việt – Hoa. Đồng thời, qua đó còn cho và Ông Bổn được chọn làm đối tượng thờ thấy chủ nhân di sản – những người Hoa cúng chính ở nhiều miếu. Đặc biệt, Ông tha hương đã dần hội nhập vào đại gia đình Bổn được người Hoa ở Bình Dương quan các dân tộc Việt Nam. niệm với nhiều ý nghĩa khác nhau. Người Bài báo thuộc đề tài NCKH – Mã số Hoa họ Vương gốc Phúc Kiến cho rằng CS2019–14. Tác giả chân thành cảm ơn 40
  10. ĐÀO VĨNH HỢP TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Trường Đại học Sài Gòn đã tài trợ cho đề tra dân số: cuối năm 2019, Bình Dương có tài nghiên cứu này. 17.993 người Hoa (chiếm tỷ lệ 0.74% tổng Chú thích: dân số của tỉnh, dân số tỉnh: 2.426.561 (1) Vùng đất Thủ Dầu Một được thư người). Thủ Dầu Một ngày nay là tên gọi tịch thời Nguyễn gọi tên theo các địa danh: đơn vị thành phố cấp huyện, là tỉnh lỵ của “Mầu Mít”, “Dầu Miết”. Trước năm 1808: tỉnh Bình Dương. Trong bài, tác giả đề cập thuộc tổng Bình An, huyện Phước Long, về khu định cư Thủ Dầu Một theo hàm dinh Trấn Biên; Từ 1808 đến 1861: thuộc nghĩa là khu vực thành phố Thủ Dầu Một tổng Bình Chánh, huyện Bình An, phủ hiện nay. Phước Long, trấn Biên Hòa (từ 1832 là tỉnh (2) Lái Thiêu vốn là tên của một con Biên Hòa); Kể từ năm 1861: tỉnh Biên Hoà rạch và một cái chợ, đã xuất hiện trong sử thời Nguyễn được chia thành các hạt thanh liệu từ đầu thế kỷ XIX: “…đến Rạch Lái tra, rồi hạt tham biện, địa giới Bình Dương Thiêu, rạch ở bên bờ bắc (sông Sài Gòn), khi ấy liên quan đến hạt tham biện Biên rộng 10 tầm, chảy lên hướng bắc 150 tầm, Hoà và Bình An. Năm 1876, hạt Bình An hai bên bờ đều có dân cư nhưng thưa thớt, đổi tên thành hạt Thủ Dầu Một. Năm 1889, họ trồng nhiều cau, chuối, cam, quýt, ở cuối hạt Thủ Dầu Một đổi thành tỉnh Thủ Dầu rạch có chợ thôn Bình Nhan, tục gọi là chợ Một (Nguyễn Đình Đầu, 1994, tr. 89–97). Lái Thiêu, quán xá ở chợ rất sơ sài” (Lê Năm 1956: tỉnh Thủ Dầu Một được tách Quang Định, 2005, tr. 307). Đầu thế kỷ thành 3 tỉnh: Bình Dương, Bình Long và XIX, tại vùng Lái Thiêu tồn tại một số thôn Phước Long. Giai đoạn 1975 – 1996, Bình làng đã lập ra từ thế kỷ XVIII của người Dương, Bình Phước, Bình Long lại được Việt, nổi bật nhất là các làng: Tân Thới, Phú nhập lại và đổi tên thành tỉnh Sông Bé. Long, Phú Hội, Bình Nhâm, Hưng Định, An Đến năm 1997, tỉnh Sông Bé lại được tách Thạnh, … Khu chợ Lái Thiêu hình thành ra thành 2 tỉnh Bình Dương và Bình chủ yếu trên địa giới làng Tân Thới. Phước. Tỉnh Bình Dương nay có 3 thành (3) Chữ 庙: cách viết trong Gia Định phố, 2 thị xã và 4 huyện. Theo số liệu điều thành thông chí và sử nhà Nguyễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hội khoa học Lịch sử Bình Dương (2007). Thủ Dầu Một xưa qua địa chí 1910 và bưu ảnh. Xí nghiệp in Nguyễn Minh Hoàng. Lê Quang Mỹ (chủ biên) (1990). Phú Cường lịch sử văn hóa và truyền thống cách mạng. Sông Bé. (Bản sơ thảo, lưu tại Thư viện tỉnh Bình Dương). Huỳnh Ngọc Đáng (2012). Người Hoa ở Bình Dương. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia. Huỳnh Ngọc Đáng (2020). Thủ Dầu Một cuối thế kỷ XIX qua ghi chép của bác sĩ J. C. Baurac. Truy xuất từ: http://www.sugia.vn (Hội KHLS Bình Dương): 1–18. Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên) (2009). Gốm Lái Thiêu. Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM. Lê Quang Định (2005). Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí (Bản dịch của trung tâm ngôn ngữ Đông Tây). Huế: NXB Thuận Hóa. 41
  11. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 79 (01/2022) Nguyễn An Dương, Trường Ký & Lưu Ngọc Vang (1992). Gốm sứ Sông Bé. Sông Bé: NXB Tổng hợp Sông Bé. Nguyễn Đình Đầu (1994a). Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn: Biên Hòa. TP.HCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Đầu (1994b). Tổng kết nghiên cứu địa bạ Nam kỳ Lục tỉnh. TP.HCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục. Tập 1. (Viện Sử học biên dịch). Hà Nội: NXB Giáo dục. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006). Đại Nam nhất thống chí. Tập 5. (Tái bản lần thứ 2. Viện Sử học biên dịch). Huế: NXB Thuận Hóa. Thiều Chửu (2004). Hán – Việt từ điển, TP. HCM: NXB TP. Hồ Chí Minh. Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1991). Địa chí tỉnh Sông Bé. Sông Bé: NXB Tổng hợp Sông Bé. Trịnh Hoài Đức (2005). Gia Định thành thông chí. (Bản dịch của Lý Việt Dũng). Đồng Nai: NXB Tổng hợp Đồng Nai. Viện ngôn ngữ (2003). Từ điển tiếng Việt. Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng. Ngày nhận bài: 20/10/2021 Biên tập xong: 15/01/2022 Duyệt đăng: 20/01/2022 42
nguon tai.lieu . vn