- Trang Chủ
- Xã hội học
- Những khó khăn khi xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm cho các xã nghèo tại tỉnh Đăk Nông
Xem mẫu
- NHỮNG KHÓ KHĂN KHI XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI HÀNG NĂM CHO CÁC XÃ NGHÈOTẠI TỈNH ĐĂK
NÔNG
TS. Phan Văn Tân
Trường Đại học Tây Nguyên
1. Đặt vấn đề 3. Những khó khăn khi xây dựng và thực
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội là công hiện kế hoạch cho 23 xã
việc hàng năm của các xã, nhưng từ trước đến - 23 xã đều là các xã nghèo, tỷ lệ hộ
nay công việc đó do bộ phận trực của UBND nghèo 40-50%, có xã lên tới 60%; dân tộc
xã soạn thảo và trình trước HĐND xã và thiểu số trên 30%; xa các trung tâm của huyện
huyện. Kinh tế thị trường, tính dân chủ, đồng tỉnh; cơ sở hạ tầng thiếu thốn, chưa có định
thuận của người dân, thế mạnh của xã, kế hướng phát triển kinh tế rõ rệt; khả năng huy
hoạch dài hạn chưa được thể hiện rõ trong kế động sức dân (tiền, công) vào phát triển kinh tế
hoạch. Được sự hỗ trợ của Dự án “Tăng cường xã hội rất hạn chế;
năng lực kinh tế bền vững cho đồng bào dân - Quy hoạch vùng sản xuất của tỉnh,
tộc tỉnh Đắk Nông – 3EM” chúng tôi đã tiến huyện không đầy đủ, cụ thể nên khó trong xây
hành hỗ trợ 23 xã khó khăn nhất thuộc 5 huyện dựng và thực hiện kế hoạch tại xã;
của tỉnh Đắk Nông xây dựng kế hoạch phát - Đa số hộ đều chưa có Sổ quyền sử
triển kinh tế xã hội định hướng thị trường có dụng đất cho diện tích đất họ đang sử dụng nên
sự tham gia từ năm 2012. Sau 2 năm xây dựng không huy động vốn từ ngân hàng và họ chưa
và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội yên tâm sản xuất;
của các xã vùng nghèo đã xuất hiện một số bất - Chọn được vấn đề ưu tiên trong sản
cập. xuất và hoạt động kèm theo nhưng số mục ưu
2. Phương pháp tổ chức xây dựng kế hoạch tiên quá nhiều trong khi năng lực chuyên môn
Phương pháp xây dựng kế hoạch phát của người sản xuất, khả năng tài chính không
triển kinh tế-xã hội hàng năm được dựa trên theo kịp;
quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh, huyện. - Tính kinh tế thị trường đối với sản
Đã soạn thảo “Sổ tay hướng dẫn lập kế phẩm chủ lực chưa thể hiện rõ, chưa nắm rõ
hoạch phát triển kinh tế xã hội định hướng thị được khả năng thực hiện mắt xích nào trong
trường có sự tham gia” dựa trên sổ tay hướng chuỗi giá trị hàng hóa. Các xã đều tập trung
dẫn lập kế hoạch của Bộ Kế hoạch đầu tư, sổ vào sản phẩm nông nghiệp chủ lực giống nhau:
tay hướng dẫn của UBND tỉnh Ninh Thuận, cà phê, hồ tiêu nên tính cạnh tranh cao, chưa
tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Đắk Lắk, có chỉnh sữa một làm được vấn đề địa chỉ, đạt các tiêu chí nông
số điểm phù hợp với Đắk Nông. sản (GAP, 4C, Utz-certifield …);
Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của 23 - 23 xã kinh tế đều tập trung vào cây
xã được xây dựng từ thôn/buôn/bon với sự trồng, chăn nuôi yếu chưa tạo sản phẩm hàng
tham gia của người dân (có hộ nghèo và dân hóa, ngành nghề thủ công chưa có nên tổng thu
tộc thiểu số), tối thiểu 30 người. Khi xây dựng nhập thấp, khả năng thích ứng không cao;
kế hoạch đã sử dụng công cụ: phân tích - Diện tích, năng suất môt số cây trồng
SWOT, xây dựng cây vấn đề, cây mục tiêu không theo sát kế hoạch (có vượt, có không
(nguyên nhân, ưu tiên, giải pháp khắc phục, đạt). Tính bền vững trong sản xuất nông
hoạt động). Để chuẩn bị xây dựng kế hoạch, nghiệp chưa đạt;
trong sổ tay nói trên đã chuẩn bị 5 mẫu thu - Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
thập thông tin cho thôn, 20 mẫu thu thập thông không đạt hoặc chậm do khả năng đóng góp
tin cho xã và 3 mẫu thu thập thông tin cho của người dân rất hạn chế, vay vốn hoặc đầu tư
huyện. của Nhà nước hạn chế;
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã - Dự báo trung hạn thị trường còn yếu
được tiến hành từ tháng 6 và hoàn chỉnh vào nên tính kinh tế thị trường chưa tác động đến
tháng 12 hàng năm. Khi xây dựng kế hoạch đã sản xuất.
thể hiện tính dân chủ, tạo được sự đồng thuận - Tâm lý, cách suy nghĩ của người sản
của người dân (trong đó có hộ nghèo và dân xuất chưa theo kịp kinh tế thị trường do học
tộc thiểu số). vấn và hiểu biết về kinh tế thị trường hạn chế.
270
- 4. Một số đề xuất khi xây dựng kế hoạch đai, khí hậu, khả năng cung cấp nước khác
phát triển kinh tế xã hội cho các xã nghèo nhau.
- Tích cực triển khai cấp Sổ quyền sử
- Tập huấn phương pháp xây dựng kế
dụng đất cho nông hộ, tạo điều kiện cho họ
hoạch và các công cụ kèm kèm khi xây dựng
tiếp cận vốn, yên tâm sản xuất.
kế hoạch cho cán bộ từ thôn đến xã, huyện;
- Tập huấn nông dân kỹ thuật trồng trọt,
trong lớp tập huấn cần có cán bộ phụ nữ, hội
chăn nuôi những cây trồng, vật nuôi được ưu
nông dân, thanh niên …Lớp tập huấn chỉ cần
tiên, đặc trưng cho vùng; các kỹ thuật, biện
2-3 ngày với nội dung là cuốn sổ tay Hướng
pháp để đạt được tiêu chí do thị trường yêu
dẫn lập kế hoạch phát triển kinh kế xã hội và
cầu; tập huấn chuỗi giá trị và lựa chọn mắt
các công cụ: phân tích SWOT, xây dựng cây
xích cần thiết trong chuỗi giá trị để đạt giá trị
vấn đề, cây mục tiêu.
cao nhất.
- Cần có quy hoạch đất đai từ tỉnh, huyện,
- Hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức phi
xã càng chi tiết càng tốt. Các xã vùng đồi núi
chính phủ trong và ngoài nước các khâu: cơ sở
thường có nhiều tiểu vùng với đặc điểm đất
hạ tầng cho xã, thôn, chính sách vay vốn, chi
trả các lớp tập huấn.
271
- SINH KẾ THÍCH ỨNG CỦA NGƯỜI KATU Ở VÙNG TÁI ĐỊNH CƯ THỦY
ĐIỆN A VƯƠNG, QUẢNG NAM (Nghiên cứu trường hợp khu tái định cư Kutchrun,
xã Mà Cooih, huyện Đông Giang)
Nguyễn Thăng Long
hoàn thiện chiến lược ổn định đời sống của
1. Đặt vấn đề người dân ở các vùng tái định cư thủy điện dựa
1.1. Katu là tộc người thiểu số cư trú trên những đặc tính của từng tộc người.
tập trung ở khu vực miền núi phía Tây của hai 2. Nhà máy thủy điện A Vương và những
tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế 30. Trong tác động đến đời sống của người Katu
quá trình cư trú và phát triển, họ đã đúc kết Nhà máy thủy điện A Vương được bắt
được giá trị mang đặc trưng tộc người… Bắt đầu xây dựng từ tháng 8 năm 2003 với tổng
nguồn từ nền kinh tế hỏa cảnh phát, cốt, đốt, công suất lên đến 210 MW. Diện tích mặt hồ ở
trỉa cùng với không gian kinh tế truyền thống cao trình nước dâng bình thường là hơn 9km2,
gắn liền với núi rừng, sông suối đã tạo nên cho gây ngập trên một vùng rộng lớn 31. Công trình
họ một cuộc sống ổn định, bền vững. Tài này đã gây ảnh hưởng đến nhiều hộ dân đồng
nguyên thiên nhiên luôn được khai thác hiệu bào Katu sinh sống lâu đời dọc theo dòng sông
quả gắn liền với những quy định, tín ngưỡng A Vương thuộc địa phận xã Dang (huyện Tây
và luật tục truyền thống. Giang) và xã Mà Cooih (huyện Đông Giang).
1.2. Những năm gần đây, các dự án Các thôn Tà Rèng, A Đền, Trờ Gung, A Lua,
xây dựng nhà máy thủy điện vùng thượng Ka La… nằm trong vùng ảnh hưởng của lòng
nguồn các con sông đã gây nên nhiều tác động, hồ đều thuộc diện phải di dời lên các khu tái
ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của người định cư tập trung.
Katu, đặc biệt là môi trường kinh tế truyền Thực hiện chủ trương, nhiều hộ dân bị
thống. Buộc phải từ bỏ ngôi làng, di dời đến ảnh hưởng bởi vùng lòng hồ thủy điện đã được
các khu tái định cư tập trung xa lạ, điều kiện di dời, tái định cư đến những vùng đất mới, đó
sống thiếu thốn, người Katu phải làm quen, là các khu tái định cư A Lua, Ka La (xã Giang,
thích ứng với cuộc sống ở một không gian cư huyện Tây Giang), khu tái định cư Kutchrun,
trú hoàn toàn mới. Những tri thức bản địa được Pache Palanh (xã Mà Cooih, huyện Đông
phát huy để thích ứng với môi trường mới, Giang) 32.
nhằm từng bước ổn định cuộc sống. Khu tái định cư Kutchrun 33 hiện nay
1.3. Nghiên cứu sinh kế thích ứng của bao gồm 2 đơn vị hành chính là thôn A Đền và
người Katu ở khu tái định cư Kutchrun, qua đó
31
thấy được thực trạng đời sống kinh tế của http://www.avuong.com
người dân sau tái định cư, đồng thời đưa ra 32
Bắt đầu từ năm 2006 cho đến nay, chương trình
những đề xuất mang tính giải pháp nhằm phát tái định cư thủy điện A Vương đã tiến hành di dời
huy những sinh kế bền vững góp phần vào việc một số lượng khá lớn dân cư từ vùng lòng hồ, vùng
ảnh hưởng… đến các khu tái định cư tập trung. Tuy
30
Hiện nay, có nhiều thuật ngữ liên quan đến tên gọi của nhiên, cuộc sống của người dân ở một số khu tái
người Katu như Cơ Tu, Katu, C’Tu… Tuy nhiên, ở bài viết định cư vẫn chưa thực sự ổn định, không có đất đai
này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật là Katu với nghĩa canh tác, điều kiện địa hình nằm sát bờ sông,
những người sống ở phía đầu ngọn nước, ở những vùng núi
thường xuyên bị sạt lở vào mùa mưa bão… buộc
cao nơi bắt nguồn của những con nước. Theo cách giải thích
của đồng bào, tu có nghĩa là ngọn, nguồn; danh từ Katu chỉ chính quyền địa phương phải tiến hành di dời thêm
những người sống nơi đầu nguồn, trên cao (núi, suối, khe…). một lần nữa đến các khu an toàn hơn, điển hình như
Bản thân tộc danh cũng đã phản ánh đặc tính thích cư trú ở trường hợp hai khu tái định cư như A Lua và Kala
những địa hình hiểm trở, biệt lập, nặng chất phòng thủ của
thuộc xã Dang, huyện Tây Giang.
người Katu. Điều này góp phần vào quá trình hình thành và 33
bảo lưu những yếu tố văn hóa nguyên thủy ở người Katu so Khu tái định cư Kutchrun là tên gọi của khu vực
với những tộc người khác. (Xem thêm Nguyễn Hữu Thông được tạo nên bởi nơi giao nhau của hai con suối là
[Cb] (2005), Katu - Kẻ sống đầu ngọn nước, Nxb. Thuận suối Kut và suối Chrun, với điều kiện địa hình
Hóa, Huế; Lê Anh Tuấn (2004), “Gươl của người Katu ở bắc
thung lũng hẹp, nhiều đồi dốc cao. Trong chương
Trường Sơn Việt Nam”, Tiếp cận văn hóa nghệ thuật miền
Trung, Tập II, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam - Phân trình di dân tái định cư bị ảnh hưởng bởi nhà máy
viện Nghiên cứu Văn hóa Thông tin tại Huế). thủy điện A Vương, khu tái định cư Kutchrun được
272
- thôn Trờ Gung, thuộc xã Mà Cooih, được hình cách thích ứng với những cách làm và công
thành bởi hai ngôi làng A Đền và Trờ Gung và việc mới nhằm ổn định đời sống lâu dài.
một bộ phận dân cư của thôn Tà Rèng 34. Hai Trong bài viết này, chúng tôi tập trung
thôn này được bố trí định cư trên hai ngọn đồi khảo sát các sinh kế của 77 hộ dân thôn A Đền
cao, xung quanh được bao bọc bởi hai con suối sau tái định cư ở Kutchrun vào thời điểm năm
Kut và Chrun. 2013.
Việc lựa chọn nơi định canh, định cư 3. Sinh kế thích ứng của người Katu ở khu
giữa khu tái định cư Pache Palanh và Kutchrun tái định cư Kutchrun
được thực hiện một cách dân chủ, ưu tiên sự tự Vốn có truyền thống nông nghiệp hỏa
quyết của người dân. Khu Pache Palanh có vị canh, cuộc sống gắn liền với núi rừng, sông
trí gần với trung tâm xã Mà Cooih, đất đai suối, nên người Katu có thể dễ dàng làm quen
canh tác tốt hơn, tuy vậy, khu vực này chỉ toàn
lau lách, không có rừng già, thiếu củi đốt, với không gian kinh tế truyền thống ở những
trong khi đó, khu Kutchrun khó khăn hơn về địa bàn khác. Một điều khá may mắn đối với
đất đai canh tác, nhưng lại thuận lợi về không các hộ dân ở khu tái định cư Kutchrun, mặc dù
gian kinh tế truyền thống, là nơi có rừng già, phải cư trú trong những ngôi nhà sàn bê tông
thuận lợi cho hoạt động canh tác nương rẫy và hiện đại được xây dựng theo thiết kế giống
khai thác sản vật núi rừng như mây, tre, củi
đốt… nhau, nhưng bù lại, họ được sống ở một không
Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi gian rừng già, gắn liền với cuộc sống trước đây
hơn các khu tái định cư khác, nhưng người dân của mình. Tuy vậy, cuộc sống ở khu tái định
Kutchrun vẫn phải chịu những “cú sốc” ban cư không còn như trước đây, người dân phải
đầu trong cuộc sống của mình sau khi chuyển làm quen với việc canh tác ruộng nước 35,
đến nơi ở mới. Trong thời gian đầu, những
điều kiện về cơ sở vật chất sinh hoạt, điều kiện không gian chăn nuôi bị thu hẹp, hoạt động săn
đất đai canh tác nương rẫy và đặc biệt là việc bắn, khai thác tài nguyên rừng bị kiểm soát
chuyển đổi sang canh tác lúa nước ở nơi có chặt chẽ… Từ xuất phát điểm đó, người Katu
điều kiện địa hình, đất đai không phù hợp phải dần thích ứng trong một môi trường sống
khiến cho người dân gặp nhiều khó khăn, thiếu
nguồn cung lương thực, thực phẩm. Lương
thực được trợ cấp từ chính quyền địa phương
và nhà máy thủy điện A Vương chỉ có thể đáp
ứng trong giai đoạn đầu, người dân buộc phải
dần thích ứng với cuộc sống nơi ở mới bằng
xem là một trong những mô hình thành công nhất so
với những địa điểm khác. Ban đầu, khu tái định cư mới.
dự kiến lựa chọn ở khu vực xã Tư, huyện Đông
Giang với điều kiện đất đai canh tác tốt, màu mỡ, địa
hình bằng phẳng, rộng rãi… tuy nhiên, do điều kiện
đường sá xa xôi, hơn nữa, người dân không đồng
tình lựa chọn điểm định cư ở xã Tư, bởi xuất phát từ
quan niệm truyền thống của người Katu, đó là đất đai
35
Hoạt động canh tác ruộng nước đã xuất hiện từ khá lâu trên
của người khác, không phải của ông bà tổ tiên mình.
vùng miền núi, tuy nhiên trên thực tế người dân vẫn chưa thực
Cuối cùng, hai điểm Pache Palanh và Kutchrun được
sự mặn mà. Cây lúa nước chỉ phù hợp cho những vùng có địa
cả chính quyền địa phương và người dân lựa chọn, hình bằng phẳng, thung lũng với nguồn nước thuận lợi… trong
thực hiện tái định cư cho 5 thôn bị ảnh hưởng hoàn khi đó, người Katu thường cư trú ở những vùng núi cao, cơ cấu
toàn về đất sinh hoạt và canh tác là các thôn: Trơ Gung, A Đền, Tà diện tích trồng lúa mùa, ngô sắn luôn chiếm ưu thế so với lúa
Rèng, Azal và A Zớ. nước. Hơn nữa, để có thể canh tác lúa nước hiệu quả, cần phải
34
Phần lớn người dân của thôn Tà Rèng đã tự lựa chọn định đầu tư nhiều công sức, phân bón và cả sự cần cù, tính kỷ luật cao
canh định cư ở khu tái định cư Pache Palanh (xã Mà Cooih), chỉ
mà những yếu tố này lại không phải là truyền thống của những
một bộ phận gồm 19 hộ gia đình lựa chọn cư trú ở Kutchrun,
việc này hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của người dân. tộc người sinh sống dựa trên nền nông nghiệp hỏa canh .
273
- Bảng 1: Sinh kế ở khu tái định cư Kutchrun
Đặc điểm, đối tượng thực hiện
TT Loại hình Số hộ
Người Katu trỉa lúa ở những thửa đất nhỏ, có
1.độcTrồng trọt:
dốc lớn ở vùng lòng hồ thủy điện77/77
A - Nương rẫy đất đai hạn chế vì thuộc địa phận
- Nương rẫy Vương rừng già, rừng cấm; làm rẫy ở vùng lòng hồ
- Lúa nước phải đi xa nhà
- Chuối - Trồng trọt tại khu tái định cư: Trồng chuối,
- Bầu gừng trong bao thông qua sự tài trợ của dự án
- Sắn Tầm Nhìn (World Vision), Sở Lao động
- Sắn Thương binh Xã hội…
- Keo
- Gừng trong bao
2. Chăn nuôi 70/77 Chăn nuôi theo mô hình chuồng trại quy mô
( Trâu, bò, heo, gà, vịt…) nhỏ
3. Khai thác sản vật núi rừng: 40/77 - Không thường xuyên, khai thác theo mùa.
Cây đót, mây, mật ong… - Những thành viên trong độ tuổi lao động
4. Đan lát (Vật dụng trong gia 7/77 Mang tính chất phụ trợ, phục vụ nhu cầu gia
đình) đình. Chủ yếu là người lớn tuổi
5. Săn bắt, hái lượm 65/77 Chỉ mang tính phụ trợ. Đối tượng gồm nhiều
lứa tuổi.
6. Nghề khác: Thợ mộc, 4/77 Không thường xuyên, chỉ thực hiện khi có nhu
cầu
7. Bảo vệ rừng 70/77 - Chia thành các Đội, phân công đi kiểm soát,
bảo vệ rừng và nhận lương từ Ban Quản lý
rừng phòng hộ A Vương
- Những gia đình có thành viên còn đủ sức lao
động tham gia vào hoạt động này
(Nguồn: Tổng hợp số liệu khảo sát 2012 - 2013)
3.1. Hoạt động nông nghiệp
* Trồng trọt ruộng nước nên thiếu kinh nghiệm cũng như
Khó khăn lớn nhất đối với người dân kỹ thuật chăm sóc 37.
Kutchrun là điều kiện đất đai canh tác ruộng Theo chính sách, mỗi hộ dân được cung
nước. Diện tích đất canh tác lúa nước của cấp 400m2 đất ở và đất vườn. Trong khi đó,
Kutchrun là 4,85 ha, tuy nhiên, cho đến năm chủ trương giao cho mỗi hộ 1,2 ha đất rừng,
2013, chỉ có 4 hộ dân đủ điều kiện đất và nước nhưng trên thực tế, người dân nhận đất và tiến
để trồng lúa nước 36. Tuy nhiên, thời gian đầu hành canh tác lại không thực sự đúng với số
sản lượng thu được không như mong đợi, cuộc
liệu trên giấy tờ. Theo đồng bào nhận thấy,
sống của người dân phụ thuộc vào nguồn gạo
thực tế trỉa lúa chỉ được khoảng 5 - 6 ang lúa,
trợ cấp của nhà máy thủy điện A Vương.
tương đương diện tích từ 5 - 6 sào đất rẫy 38.
Nguyên nhân do diện tích đất hẹp lại phần lớn
Thiếu đất rẫy, người dân Kutchrun buộc phải
là đất sỏi đá, cùng với lượng sét cao nên việc
canh tác lúa nước là không khả thi. Bên cạnh
đó, người Katu lại không có truyền thống làm
37
Qua thực tế khảo sát ở Kutchrun cho thấy, có lẽ hoạt động
canh tác lúa nước không phải là sinh kế khả thi đối với người
dân nơi đây, bởi điều kiện đất đai và hệ thống thủy lợi không
thực sự thuận lợi. Hơn nữa, lúa nước thực ra không phải là sở
trường của không chỉ người Katu mà đối với nhiều tộc người
thiểu số ở khu vực miền núi Trung bộ.
38
Người Katu không đo diện tích đất đai theo thước đo hiện đại,
36
UBND xã Mà Cooih (2013), Báo cáo tình hình đời sống, sản
mà dựa theo tri thức truyền thống để
xuất và sinh hoạt của nhân dân 02 khu tái định cư thủy điện A
Vương trên địa bàn xã Mà Cooih.
274
- trở lại làng cũ trong khu vực lòng hồ để phát rẫy ở những khoảnh đất nhỏ cằn cỗi ở xung
rẫy cũ, canh tác ruộng nương trong những thời quanh khu tái định cư. Những diện tích đất nhỏ
điểm không bị ngập nước. Khu vực lòng hồ nhất xung quanh ngôi nhà cũng được tận dụng
thủy điện A Vương hiện nay là nơi thuộc triệt để bằng cách rào xung quanh để trồng các
quyền quản lý và khai thác của Nhà máy thủy loại hoa màu như rau khoai, cải, ớt… Ngoài ra,
điện, tuy nhiên, trước những điều kiện khó nhiều tổ chức trong và ngoài nước cũng đã hỗ
khăn của đồng bào ở khu tái định cư, hai bên
đã đạt được thỏa thuận tạo điều kiện cho người trợ kinh phí, giống cây trồng nhằm giúp
dân trở lại canh tác nương rẫy ở những vùng người dân trong hoạt động canh tác nông
núi cao, nơi mà cao trình mực nước không lên nghiệp. Những năm đầu ở khu tái định cư, các
tới. Hiện nay, có đến 32 hộ dân thôn A Đền ở tổ chức Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
Kutchrun trở lại khai phá và canh tác nương và Tầm Nhìn Thế giới (Worl Vision) đã hỗ trợ
rẫy vùng lòng hồ, người dân tận dụng tất cả cây giống, kỹ thuật cho người Katu ở Kutchrun
những khoảng đất còn trống để phát, đốt, trỉa trồng cây măng Điền trúc, một loại măng to, dễ
hạt. Cây trồng chủ yếu là lúa rẫy, cây keo và trồng, có đặc tính phù hợp với điều kiện tự
các loại hoa màu khác. nhiên ở Kutchrun
Bên cạnh đó, do không gian cư trú ở khu
tái định cư khá chật hẹp, người Katu ở
Kutchrun buộc phải tận dụng canh tác nương
. Bảng 2: Thống kê diện tích các loại cây trồng ở Kutchrun năm 2013
Stt Thôn Diện tích các loại cây trồng
Lúa Lúa Chuối Sắn Dứa Bắp Rau Măng Keo
nước(ha) rẫy(ha)
(ha) (ha) (ha) (ha) (ha) (ha) (ha)
1 Trờ 0.70 22.5 7.3 6 3.1 3.4 1.5 0.5 25
Gung
2 A Đền 3.15 39 22.5 8.4 8.5 4.5 1.0 2.0 1.0 35
(Nguồn: UBND xã Mà Cooih, 2013)
39
Thực tế của hoạt động canh tác nông nghiệp lúa nước ở thôn A Đền không khả quan như số liệu thống kê của của UBND xã, bởi theo
người dân thôn A Đền cho biết, phần lớn nhiều diện tích đất dành cho lúa nước quá xấu, nhiều sét, sỏi đá lại chưa được cải tạo nên hiện nay
mới chỉ có 4 hộ dân đã và đang trồng lúa nước, tuy nhiên vì nhiều lý do, năng suất không cao như mong đợi.
275
- Năm 2013, Sở Lao động Thương binh Xã
hội tỉnh Quảng Nam đã hỗ trợ 500 triệu đồng
cho 5 thôn tái định cư, trong đó có thôn A Đền
và Trờ Gung thuộc khu tái định cư Kutchrun
để trồng chuối 40 và gừng trong bao theo kỹ
thuật mới, mỗi hộ tự nhận đăng ký trồng. Tùy
theo diện tích đất vườn, rẫy gần nhà và lực
lượng lao động trong gia đình mà mỗi hộ có
thể đăng ký nhận nhiều hay ít. Bên cạnh đó,
Phòng Nông nghiệp huyện Đông Giang cũng
góp phần giúp người dân trong vấn đề đầu ra
của các nông sản này. Việc đưa các loại cây
trồng này trong các khu tái định cư đã mang lại
hiệu quả kinh tế tức thời, góp phần ổn định đời
sống của người dân tại nơi ở mới.
* Chăn nuôi
Tập quán chăn nuôi của người Katu
là chăn thả gia súc tự do, không xây dựng
chuồng trại. Tuy nhiên, trong môi trường mới
ở các khu tái định cư chật hẹp về không gian
cư trú, người dân buộc phải thích ứng với việc Ảnh 2+3: Hệ thống chuồng trại chăn nuôi gia
chăn nuôi gia súc, gia cầm trong chuồng trại. súc, gia cầm tại khu tái định cư
Chuồng trại bằng các loại nguyên vật liệu
truyền thống như tranh tre, gỗ… được dựng
lên xung quanh nhà ở để nuôi nhốt các loại vật
nuôi như trâu, bò, heo, gà, vịt…
40
Theo truyền thống của người Katu, cây chuối thường được
trồng trên rẫy xa, nhiều khi lên rẫy phải mất nửa ngày để lấy
chuối về bán sẽ mất nhiều công sức. Bởi vậy, việc trồng chuối ở
những khu vườn gần nhà sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, giảm bớt
nhiều công sức bỏ ra.
276
- Bảng 3: Thống kê số lượng vật nuôi ở Kutchrun năm 2013
Stt Thôn Trâu Bò Heo Gia cầm Dê Ghi chú
(con) (con) (con) (con) (con)
1 Trờ Gung 2 22 48 32
2 A Đền 8 16 37 120
(Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra, 2013)
Khu tái định cư Kutchrun nằm ngay dưới (ADB), Tầm nhìn Thế giới (World Vision) đã
chân núi, địa thế chật hẹp, không có diện tích tham gia hỗ trợ kinh phí cho người dân trồng
chăn thả, nên số lượng gia súc gia cầm mà rừng, phát triển nông nghiệp…
người dân chăn nuôi khá khiêm tốn. * Giao đất giao rừng và hoạt động bảo vệ
Qua số liệu thống kê về vật nuôi ở Bảng 3 rừng
cho thấy, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm Thực hiện chính sách giao đất giao rừng
chỉ mang tính phụ trợ, thu nhập từ hoạt động cho người dân tự quản lý, bảo vệ và hưởng lợi,
chăn nuôi không đáp ứng được nhu cầu kinh tế toàn bộ các hộ dân ở Kutchrun đã tham gia vào
của các hộ gia đình. Bên cạnh đó, diện tích đất hoạt động này. Hiện nay ở thôn A Đền có
cư trú cho mỗi hộ dân khá nhỏ, hơn nữa, địa 70/77 hộ dân tham gia bảo vệ rừng. Việc quản
hình đồi dốc nên nhà ở phải bố trí theo kiểu lý, bảo vệ rừng được chia thành 5 nhóm, mỗi
“dật cấp” khiến cho hoạt động chăn nuôi gây ô nhóm chia nhau thời gian để đi bảo vệ rừng.
nhiễm môi trường trong khu vực cư trú, điều Mỗi gia đình phải đi tuần tra, bảo vệ 1 lần/1
đó khiến cho người dân càng e dè trong việc tuần. Nhiệm vụ chính của các đội bảo vệ là đi
phát triển chăn nuôi. tuần tra, kiểm soát nhằm phát hiện những đối
Ngoài ra, một số gia đình đã thử nghiệm tượng chặt phá gỗ rừng, săn bắn trái phép các
việc đào hồ nuôi cá, tuy nhiên, do không có loại thú quý hiếm… Việc giao rừng cho người
kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc cũng như điều dân địa phương tự quản lý, bảo vệ vừa hạn chế
kiện về môi trường nước nên phần lớn đều thất được nạn chặt phá rừng trái phép, nạn đốt rừng
bại. già làm rẫy đồng thời cũng mang lại nguồn lợi
3.2. Kinh tế lâm nghiệp kinh tế cho người dân qua việc chi trả công
Môi trường kinh tế truyền thống của bằng tiền mặt, số tiền mỗi hộ gia đình nhận
người Katu luôn gắn liền với không gian núi được là 500.000vnđ/1 quý 42.
rừng, sông suối… Bởi vậy, ngay sau khi di dời * Khai thác nguyên vật liệu từ núi rừng:
lên khu tái định cư Kutchrun, trong lúc hoạt Khu tái định cư Kutchrun được xây dựng
động canh tác nương rẫy, trồng trọt chưa thực trong khu rừng già thuộc xã Mà Cooih, vì vậy,
hiện được, chưa tạo ra được nguồn lương thực, các loại hình lâm thổ sản như mây, đót, lá nón,
thực phẩm thiết yếu, buộc người dân phải tiến nấm linh chi, thú rừng… còn khá nhiều. Trong
vào rừng sâu để phát rừng trỉa lúa, săn bắn và những năm đầu ở Kutchrun, nhiều người dân
khai thác lâm thổ sản. Chính vì vậy, trong Kutchrun đã vào rừng già khai thác lá đót để
khoảng 2 năm đầu, độ che phủ rừng ở khu vực làm chổi, cây mây về bán. Cây đót thường chỉ
Kutchrun bị xâm hại nghiêm trọng 41.Từ thực khai thác được vào tháng 11 và tháng 12 hàng
trạng đó, trong hai năm 2006 và 2007, các tổ năm, vào độ tuổi vừa lớn, cây già thì không sử
chức như Ngân hàng Phát triển Châu Á dụng được. Trong khi đó, cây mây thì có thể
41 42
Trong năm 2012 toàn bộ xã Mà Cooih có 28 Đây là chương Chi trả Dịch vụ môi trường rừng
trường hợp vi phạm về phá rừng, nhưng trong thôn do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ cho
A Đền có đến 18 trường hợp vi phạm. 5 thôn thuộc xã Mà Cooih.
277
- khai thác quanh năm. Bên cạnh đó, nấm linh bản sắc văn hóa, tính cố kết cộng đồng còn
chi cũng là sản vật đặc biệt sẵn có trong rừng, mạnh mẽ. Tuy nhiên, về phương diện kinh tế,
mang lại nguồn thu đáng kể cho đời sống điều đó lại thể hiện sự kìm hãm, gây nhiều tốn
người dân Kutchrun. kém trong đời sống dân cư.
* Săn bắt 3.3. Thủ công nghiệp
Săn bắn cũng là một trong những Trước đây, để phục vụ cho nhu cầu của
sinh kế truyền thống của người Katu 43. cuộc sống, nghề đan lát của người Katu khá
Kutchrun được thành lập trong không gian phát triển. Nhiều vật dụng phục vụ đời sống
rừng già, là điều kiện thuận lợi cho người Katu như gùi, các loại đồ đựng, chiếu, áo vỏ cây…
tiếp tục thực hiện sinh kế truyền thống này. được sản xuất theo nhu cầu. Tuy nhiên, hiện
Phổ biến nhất vẫn là hoạt động đặt bẫy ở trong nay nhiều vật dụng được làm bằng nhiều chất
rừng, trên rẫy…. Tuy nhiên, hoạt động săn bắt liệu hiện đại chiếm lĩnh thị trường khiến cho
các loại thú rừng của người Katu chỉ mang tính nhu cầu sử dụng đồ đan lát của người Katu
phụ trợ, không mang lại nguồn thu hay lương không còn phổ biến.
thực phục vụ đời sống, thậm chí, xuất phát từ Ở Kutchrun hiện nay chỉ có khoảng vài hộ
văn hóa truyền thống, sự tốn kém gia tăng khi gia đình tham gia vào hoạt động đan lát các vật
mỗi cá nhân trong gia đình săn được thú rừng. dụng truyền thống như gùi (zòong), chiếu (a
Hiện nay, người Katu ở Kutchrun khi săn được lớ) 45…
thú rừng đều không bán lấy tiền mà về chia Để bảo tồn và phát triển các nghề thủ
đều cho mọi thành viên trong thôn. Bên cạnh công truyền thống, nhằm tạo thêm công việc
đó, còn tổ chức nghi lễ truyền thống và mời cho giới trẻ Katu, trong hai năm 2011 và 2012,
mọi thành viên về tại nhà uống rượu, cùng thụ Sở Lao động Thương binh và Xã hội Quảng
hưởng thành quả có được 44. Điều này thể hiện Nam đã tổ chức các lớp học nghề đan lát
truyền thống cho thanh niên ở Kutchrun và các
43 khu tái định cư thủy điện A Vương khác, tuy
Với người Katu, săn bắt chim, thú rừng vừa để
nhiên, do thiếu nhu cầu của thị trường nên hiệu
bảo vệ mùa màng, vừa để kiếm thêm nguồn thực
phẩm cho bữa ăn. Tuy nhiên, hoạt động này luôn
quả không đạt được như mong muốn.
phải thực hiện theo quy định, luật lệ của làng.
4. Kết luận và đề xuất
Người dân không bao giờ xâm phạm những khu Kết luận
Với phương châm “đất đổi đất”, đền bù
rừng cấm, rừng ma để săn bắt, khai thác lâm thổ
quy ra tiền những giá trị tài sản như nhà cửa,
sản.
44 hoa màu, cây trồng… trên đất trong hoạt động
Trong quá trình điền dã vào tháng 6/2013, chỉ
tái định cư cho người dân ở khu tái định cư
trong 5 ngày ở Kutchrun, chúng tôi đã được chứng
Kutchrun về cơ bản cho thấy đã đáp ứng được
kiến người dân săn được 2 con thú rừng. Thịt thú
rừng được nấu chín, cắt thành những miếng nhỏ để
chia đều cho mọi thành viên trong bản và tất nhiên, thảo Khoa học Văn hóa Nghệ thuật miền Trung:
cho cả chúng tôi - những người khách ở lại làng Thành tựu và Vấn đề, Viện Văn hóa Nghệ thuật
trong thời gian đó. Tiệc rượu được tổ chức thâu Việt Nam - Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
đêm cùng với sự tham dự của đông đủ người người, Nam tại Huế), Huế 2004).
45
lễ văng Acọq (treo đầu thú lên nhà sàn hay Gươl) Trước đây, chiếu của người Katu được làm bằng
được tiến hành vào buổi sáng sớm ngày hôm sau cây dứa rừng, lấy vỏ ốc giã nát trộn với vỏ cây
trong tiếng chiêng, trống rộn ràng. (Xem thêm: apăng để lấy màu đỏ dùng để nhuộm màu. Hiện
Trần Đức Sáng, (2004), “Tính cộng đồng trong hoạt nay, một số hộ gia đình Katu vẫn còn làm chiếu
động săn bắn của người Katu (Nghiên cứu tham gia theo kiểu thủ công này, tuy nhiên, do thị trường có
từ một cuộc đi săn ở thôn A réc, xã A Vương, nhiều loại chiếu của người Kinh mang lên bán nên
huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam)”, Kỷ yếu Hội người dân không còn mặn mà với công việc này.
278
- nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, những vấn không phải công nghiệp, dịch vụ hay nông
đề hậu tái định cư đang đặt ra như những thách nghiệp lúa nước 48.
thức đối với hoạt động ổn định đời sống và đặc Bài viết này chỉ giới thiệu những sinh kế
biệt là phát triển bền vững cho cộng đồng thích ứng của người Katu ở một môi trường,
người dân bị ảnh hưởng bởi các dự án xây không gian kinh tế mới. Tuy nhiên, sinh kế
dựng Nhà máy thủy điện nói chung và người cũng sẽ biến đổi khi quan niệm và không gian
Katu ở Kutchrun nói riêng. Có thể thấy, thực kinh tế thay đổi, chính vì vậy, cần phải nghiên
trạng chung đối với người dân tộc thiểu số ở cứu, khảo sát và tạo ra những sinh kế bền vững
các khu tái định cư thủy điện miền Trung là sự 49
cho các tộc người thiểu số vùng ảnh hưởng
gia tăng tình trạng đói nghèo xuất phát từ bởi các dự án xây dựng nhà máy thủy điện, để
nguyên nhân chính là thiếu đất sản xuất 46, họ có thể vừa ổn định cuộc sống, nâng cao đời
trong khi đó, rừng lại đều nằm trong sự quản lý sống kinh tế, góp phần phát triển kinh tế xã hội
của các Công ty và Lâm trường thuộc sở hữu vùng miền nhưng vẫn phải đảm bảo về chất
Nhà nước 47. lượng môi trường sinh thái, tự nhiên không bị
Qua thực tế khảo sát ở Kutchrun cho thấy, phá vỡ.
bên cạnh những sinh kế thích ứng, những sinh Một số đề xuất
kế truyền thống vẫn thể hiện tính ổn định lâu Cho dù sau một thời gian, người Katu ở
dài, mang lại nguồn lương thực, thực phẩm cho Kutchrun có thể thích ứng với môi trường sống
đời sống người dân. Vì vậy, nghiên cứu sinh kế mới, tuy nhiên về lâu dài cần có những chiến
bền vững cho các tộc người thiểu số ở các khu lược sinh kế bền vững nhằm tạo cho người dân
tái định cư thủy điện cần phải xuất phát từ bản một cuộc sống no ấm, ổn định lâu dài.
sắc văn hóa của mỗi tộc người, mà ở đó, tri - Chú trọng phát triển kinh tế lâm nghiệp
thức bản địa như là yếu tố mang tính quyết dựa trên truyền thống văn hóa, kinh tế của
định. người dân. Trong đó, chú trọng hơn nữa đến
Có thể thấy, chương trình giao đất giao vấn đề giao đất giao rừng một cách triệt để,
rừng chỉ đạt hiệu quả cao khi mà những diện nhằm mang lại cho người dân không gian kinh
tích đó gắn liền với hoạt động quản lý truyền tế truyền thống.
thống như rừng thiêng, rừng đầu nguồn… Trên - Không nên tập trung vào hoạt động canh
thực tế, ở các vùng miền núi, cơ cấu kinh tế tác lúa nước, xuất phát từ việc hội tụ nhiều yếu
truyền thống chính là kinh tế lâm nghiệp chứ
48
Xem thêm: Lê Anh Tuấn (2009), “Các tộc người
ở miền núi Trung bộ Việt Nam: Chân dung hồi cố,
46
Với phương châm đất đổi đất, nhưng trong một bức khảm hiện tại và bức tranh tương lai”, Nhận
số trường hợp thực tế, diện tích đất được đền bù lại thức về miền Trung Việt Nam hành trình 10 năm
không thực sự đúng với những gì mà người dân tiếp cận, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam -
nhận được. Ông Ariu AĐô (45 tuổi, Kutchrun) cho Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế,
biết, Nhà máy Thủy điện nói cấp cho 1,2 ha nhưng Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 270.
49
khi trỉa lúa chỉ được chừng 5 đến 6 ang. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh tế nương rẫy
47
Nếu như trong quá khứ, không gian cư trú của truyền thống chỉ đảm bảo cho người dân nhu cầu tối
người Katu gắn liền với rừng núi, rừng cũng là nhà thiểu mà không có tích lũy, trong khi đó, ở các khu
và người dân sử dụng, khai thác nguồn lợi từ rừng tái định cư, không gian kinh tế truyền thống lại
một cách hiệu quả, thì hiện nay, theo chủ trương càng bị thu hẹp, trong khi đó người dân lại còn xa
của Nhà nước, rừng được giao cho các tổ chức như lạ với những sinh kế mới. Từ đó, việc nghiên cứu
Lâm trường, Công ty lâm nghiệp… quản lý, người nhằm đề ra những sinh kế bền vững có vai trò quan
dân không thể tự do vào rừng canh tác nương rẫy, trọng trong việc ổn định và phát triển đời sống của
khai thác nguồn lợi như trước đây. người dân các vùng tái định cư thủy điện.
279
- tố bất lợi từ đất đai, thủy lợi, kỹ thuật chăm - Nghiên cứu bảo tồn bản sắc văn hóa
sóc… mà tập trung hơn vào nông nghiệp truyền thống dựa trên hệ thống luật tục, tri thức
nương rẫy, vốn là sở trường của người Katu. bản địa trong sản xuất, khai thác nguồn lợi từ
- Nghiên cứu, tìm ra các loại cây trồng, núi rừng… bởi khi mà hiện nay, kinh tế truyền
vật nuôi, ngành nghề phải trên cơ sở những thế thống được xem là một bộ phận của văn hóa
mạnh vốn có, tính đặc thù của điều kiện tự làng.
nhiên, sinh thái vùng đất.
Tài liệu tham khảo
1. Hội đồng Nhân dân tỉnh Quảng Nam, Ban Kinh tế và Ngân sách (2010), Báo cáo số 15/BC-KT&NS Báo
cáo thẩm tra về quy hoạch thủy điện; chính sách phát triển thủy lợi nhỏ, thủy lợi đất màu và kiên cố kênh mương
trên địa bàn tỉnh.
2. Nguyễn Hữu Thông [Cb] (2005), Katu - Kẻ sống đầu ngọn nước, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
3. Lê Anh Tuấn (2009), “Các tộc người ở miền núi Trung bộ Việt Nam: Chân dung hồi cố, bức khảm hiện tại và
bức tranh tương lai”, Nhận thức về miền Trung Việt Nam hành trình 10 năm tiếp cận, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam - Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
4. Lê Anh Tuấn (2004), “Kinh tế Katu truyền thống và những vấn đề đặt ra”, Thông tin Khoa học, Phân viện
Nghiên cứu Văn hóa Thông tin tại Huế, số tháng 3/2004.
5. Lê Anh Tuấn (2004), “Gươl của người Katu ở bắc Trường Sơn Việt Nam”, Tiếp cận văn hóa nghệ thuật
miền Trung, Tập II, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam - Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Thông tin tại Huế.
6. Trần Đức Sáng, (2004), “Tính cộng đồng trong hoạt động săn bắn của người Katu (Nghiên cứu tham gia từ
một cuộc đi săn ở thôn A réc, xã A Vương, huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam)”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học
Văn hóa Nghệ thuật miền Trung: Thành tựu và Vấn đề, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam - Phân viện Văn hóa
Nghệ thuật Việt Nam tại Huế, Huế 2004.
7. UBND xã Mà Cooih (2013), Báo cáo tình hình đời sống, sản xuất và sinh hoạt của nhân dân 02 khu tái
định cư thủy điện A Vương trên địa bàn xã Mà Cooih.
8. UBND xã Mà Cooih (2013), Báo cáo tổng kết sản xuất nông nghiệp xã Mà Cooih 2012 và triển khai kế
hoạch phương hướng nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp năm 2013.
280
nguon tai.lieu . vn