Xem mẫu

  1. HOẠT Đ Ộ N G THƯƠNG MẠI KIÊM NHIỆM CỦ A C Á C Sứ Bộ VIỆT NAM Ở TRUNG HOA THỜI NHÀ THANH Trần Đức Anh Sơn* TÓ M T Ắ T Dựa vào các nguổn tư liệu đã được công bố, gổm tư liệu chính thống do sừ quan cùa các triều đại phong kiến Việt Nam biên soạn; các ghi chép (nhật ký, thơ văn...) của các sứ thẩn Việt Nam viết về các chuyến đi sứ; các khảo cứu của các học giả V iệt Nam và nước ngoài viết về chủ đế bang giao Việt Nam - Trung Hoa từ thời Lê đến thời Nguyễn..., bài viết để cập các vấn đé: hoạt động đi sứ, mục đích đi sứ và thể thức sai sứ thẩn sang Trung Hoa của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X V II đến đầu thế kỷ XX. Đồng thời, bài viết thuật lại lộ trình đi sứ từ Việt Nam sang Trung Hoa và ngược lại. Bài viết đặc biệt quan tâm đến hoạt động thương mại kiêm nhiệm của các sứ bộ trong quá trinh họ được cử đi sứ ở Trung Hoa, trên các phương diện: thành phẩn sứ bộ; các loại hàng hóa mang đi cống; việc đặt mua các loại hàng hóa tại Trung Hoa theo yêu cẩu của triều đình Việt Nam; việc đưa các loại hàng hóa của V iệt Nam sang bán ở Trung Hoa. l . M Ở ĐẨƯ 1.1. Từ trước tới nay, khi bàn vê' mối bang giao giữa V iệt Nam và Trung Hoa dưới thời kỳ quân chủ ờ V iệt Nam (từ đẩu thế kỷ X đến đẩu thế kỷ X X ), các nguồn sử liệu chính thống cúa V iệt Nam và Trung Hoa chủ yếu phản ánh các mối quan hệ chính trị, quân sự, ngoại giao, văn h ó a ..., hiếm khi để cập đến mối quan hệ thương mại giữa hai nước. Điều này có lẽ là do quan hệ thương mại giữa hai nước trong thời kỳ này quá nhỏ bé; hoặc do * TS. Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I 2.II
  2. hoạt động thương mại; vốn được coi là “mạt nghệ” trong xã hội quân chủ, nên ít được sử sách hai nước lưu tâm. N goài ra, quan hệ thương m ại V iệ t N am - T ru n g H o a là m ộ t m ối q u an h ệ “bất bình đẳng” do các triều đại Trung Hoa thường áp đặt những chính sách hạn chế buôn bán với Việt Nam1, khiến cho hoạt động thương mại giữa V iệt Nam với Trung Hoa vốn đã nghèo nàn, lại càng ít được biết đến. 1.2. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về đ ồ sứ ký kiêuy một loại hình đồ sứ do người Trung Hoa chế tác theo yêu cầu (về dáng kiểu, mẫu mã, hoa văn, hiệu đ ề ...) của người V iệt Nam trong các thế kỷ X V I - XIX , tác giả đã có cơ hội tiếp cận một số tư liệu có phản ánh ít nhiều vể hoạt động thương mại "phi chính thống” giữa Việt Nam và Trung Hoa, thông qua các sứ bộ do triều đình Việt Nam phái sang Trung Hoa trong các thế kỷ X V I - X IX . Dựa vào các tư liệu này và sự hiện diện của những hiện vật; vốn là hàng hóa do các sứ thần V iệt Nam mua từ Trung Hoa về, hiện đang lưu trữ, trưng bày trong nhiểu bảo tàng và SƯU tập tư nhân ở trong và ngoài nước, có thể nhận định rằng: vào thời Lê - Trịnh và thời Nguyễn; tương ứng với thời nhà Thanh cầm quyền bên Trung Hoa, do chính sách hạn chế thương nhân Việt Nam sang Trung Hoa buôn bán của Thanh triều, nên triều đình V iệt Nam đã giao cho các sứ thần, ngoài nhiệm vụ ngoại giao, còn kiêm nhiệm việc mua sắm hàng hóa, vật dụng cho triểu đinh Việt Nam. Đổng thời; họ cũng đưa một số sản vật tiêu biểu của Việt Nam sang bán tại Trung Hoa. T ác giả gọi hoạt động này là h o ạt động thương m ại kiêm nhiệm của các sứ bộ V iệt Nam. Bài viết này tập trung phản ánh hoạt động thương m ại kiêm nhiệm của các sứ bộ V iệt N am ở Trung H o a thời nhà Thanhy coi đó là một hinh thức hoạt động thương mại "phi chính thống”, tuy không đóng góp nhiểu cho nền kinh tế V iệt Nam vào thời kỳ này nhưng phản ánh m ột khía cạnh rất đáng quan tâm trong lịch sử bang giao giữa Việt Nam với Trung Hoa thời phong kiến. Sự tổn tại của h o ạt động thương m ại kiêm nhiệm này là m ột thực tế lịch sử; nhưng ít được để cập trong các nguồn sử liệu chính thống thời Lẻ - Trịnh và thời Nguyễn, cũng như ít được các nhà nghiên cứu lịch sử ở trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu. . 2 C á c sứ b ộ d o V iệ t N am p h ái s a n g T r ư n g H o a t ừ TH Ế KỶ XV I ĐỂN ĐẮƯ TH Ể KỶ X X Nhà bác học Lê Quý Đôn, trong tác phẩm B ắc sứ thông lục viết vể chuyến đi sứ sang Trung Hoa vào năm Canh T h ìn đời vua Lê Cảnh Hưng (1 7 6 0 ) đã cung cấp những thông tin liên quan đến việc bang giao giữa Việt Nam và 2-12. I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  3. Trung Hoa trong khoảng thời gian từ thế kỷ X IV đến thế kỳ X V III. Theo tư liệu này, vào năm Hổng Vũ thứ bảy (1 3 7 4 ), nhà Minh (1 3 6 8 - 1644) ban hành quy định: cứ ba năm m ột lẩn, nước ta phải cử sứ bộ sang Trung Hoa nộp cống phẩm. Sau khi nhà Thanh (1 6 4 4 - 1911) diệt nhà Minh, vào năm 1663, vua Khang Hi (1 6 6 2 -1 7 2 2 ) cũng theo nếp củ, định lệ “tam niên nhất c ổ n g ” (ba nảm đi cống m ột lần) cho triều đình Đại Việt. Tuy nhiên, do đường sá xa xôi cách trở nên thể theo yêu cầu của triểu đình nhà Lẻ, vào năm 1668; vua Khang Hi đổi lệ trên thành “lục niên lưỡng cổng (sáu năm mới sai sứ đi cống m ột lắn nhưng mang gộp lễ vật của cả hai kỳ tuế cống) (H oàng Xân Hãn 1967: 3 -5 ). Chưa có tư liệu nào thống kê đầy đủ về những sứ bộ do triều đình nhà Lê cử sang Trung Hoa, tuy nhiên, từ những thông tin trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1 9 9 2 ), kết hợp đối chiếu các biên khảo: Sứ thần V iệt N am (Nguyễn T h ị Thảo và cộng sự 19 9 6 ) và L es bỉeu T rịnh (X V IIIe siècle) (Phillipe Truông 19 9 9 ), tôi tạm thời xác định vào giai đoạn các chúa T rịn h nắm quyền ở Đàng Ngoài, đã có ít nhất là ba mươi tám sứ bộ2 được cử sang Trung Hoa dưới danh nghĩa sứ thẩn của triều Lê. Nhiệm vụ chủ yếu của các sứ bộ này là đi cống theo định kỳ; đổng thời, kết hợp mua sắm hàng hóa, vật dụng phục vụ các nhu cầu của triểu đình Lê - Trịnh. Ở Đàng Trong, tuy thiết lập triểu đình riêng, nhưng với vị thế là bề tôi cùa tríéu Lê nên các chúa Nguyễn không thể "tự tung tự tác” sai sứ sang Thanh. Mãi cho đến năm 1701, sau khi hai phe Trịnh - Nguyễn tạm ngưng các cuộc giao tranh kéo dài hơn sáu thập kỷ; lấy sông Gianh làm giới tuyến phân lập Đàng Ngoài - Đàng Trong, thì chúa Ngiiyẽn Phúc Chu mới sai Hoàng Thần và Hưng T riệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa, yêu cầu nhà Thanh phong cho ông làm vua m ột quốc gia riêng biệt, tách khỏi thực thể chính trị do vua Lê - chúa Trịnh cắm quyền ở Đàng Ngoài. Nhà Thanh không chấp thuận yêu cầu này, do e ngại sự lớn mạnh của Đàng Trong sẽ là một mổi nguy cho Đại Thanh ờ phương Nam (H ội đổng trị sự Nguyễn Phúc tộc 1 9 9 5 ). Đó là sứ bộ duy nhất do các chúa Nguyễn phái sang Trung Hoa trong hơn hai trăm năm họ “mưu bá đồ vương” ờ Đàng Trong. Thời Tây Sơn (1788 - 1 8 0 1 ), theo các nguổn sử liệu hiện còn, có sáu sứ bộ do triều đình Tây Sơn phái sang Trung Hoa vào các năm 1789, 1790 và 17923. Năm 1792, vua Càn Long ban cho triều đình Tây Sơn một chỉ dụ mới quy định về thời hạn tuế cống (Phillipe Truông 1 9 9 8 :5 2 ) và nhắc lại thời hạn này trong m ột chi dụ khác ban hành vào năm 1803 sau khi vua Gia Long lập ra triều Nguyễn (N ội các triều Nguyễn 1993, T .8 , 3 0 5 ). Các chỉ dụ mới này quy định như sau: Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới Ị 2-13
  4. - Triều đinh An Nam, sau này là Việt Nam (tử 1804 đến 1838), rổi Đại Nam (từ 1838 đến 1945), cứ hai năm m ột lần phải gửi đổ tuế cống cho Trung Hoa và cứ bốn năm phải có m ột sứ bộ sang chầu (Q uốc sử quán triều Nguyễn 1968: T .20, 6 5 ). - V iệt Nam cũng phải cử sứ bộ đến Bắc Kinh mỗi khi có hoàng đế Trung Hoa thăng hà (để phúng điếu) và mỗi khi có hoàng đế mới đăng quang (đ ể chúc mừng). N goài ra, V iệt Nam còn cử sứ bộ sang nước Thanh trong các trư ờng hợp sau: - Cáo ai (báo tang) một vị vua Việt Nam vừa mất; - Cầu phong (xin phong vương) cho vị vua mới lên ngôi và sau đó phải có sứ bộ sang cám ơn về việc được nhà Thanh phong vương; - Đi chúc mừng sinh nhật hoàng đế và các thành viên trong hoàng gia nhà Thanh; - Đi mua sắm vật dụng cho triều đình; - Đi giải quyết các vụ vi phạm biên giới và các vấn để dân sự như trao trả những người Trung Hoa bị đắm tàu trên lãnh hải Việt Nam; - Áp giải các tội phạm Trung H oa trao trả cho Thanh triều; - Đi truy bắt tội phạm trong nước chạy sang Trung Hoa... Đến triều Tự Đức (1 8 4 8 - 1 8 8 3 ); triều Nguyễn còn cử người qua Trung Hoa cầu viện để chống phỉ; để do thám hoạt động của các nước Âu T â y ở Hương Cảng (như các chuyến đi của Đặng Huy Trứ vào các năm: 1865, 1867 - 1868) (Phạm Tuấn Khánh 1 9 9 5 :8 5 -9 0 ) và Thiên Tân (như chuyến đi của Phạm Thận Duật và Nguyễn Thuật vào năm 1882 (Q u ốc sử quán triều Nguyễn 1968: T .3 5 : 6 1 ); để mua vũ khí; tàu chiến và máy m óc cho triều đình (như các chuyến đi của Nguyễn Đức Hậu vào năm 18694, của Lê Huy5 và của Nguyễn Tăng Doãn6 vào năm 18 7 0 ). Sau khi kinh đô H uế thất thủ ( 5 / 7 / 1 8 8 5 ) , phong trào Cần Vương nổ ra, vua Hàm Nghi còn cử người sang Trung Hoa cầu viện để chống Pháp (như các chuyến đi của Nguyễn Quang Bích vào các năm: 1885, 18 8 7 ) (Phạm Đức Thành Dũng; Vĩnh Cao 2 0 0 0 : 5 2 8 ). Các chuyến đi vì những mục đích này, sử sách triểu Nguyễn thường dùng thuật ngữ “đi công vụ”7 thay vi “đi sứ”. Dựa vào hai nguồn sử liệu chính thức của triều Nguyễn là Đ ại N am thực lục và K h âm định Đ ại N am hội điển sự lệ cùng các tập “sứ trình th i” (th ơ đi sứ) của các sứ thần đã được khảo cứu và giới thiệu trong bộ sách Di sản H án N ôm V iệt N am thư mục đ ề yếu (Viện Nghiên cứu Hán Nỏm 19 9 3 ), kết hợp 2-14 I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  5. tham chiếu các biên khảo khác như: C hản dung các vua Nguvễn (Đ ỗ Bang 1996: T . l ) , Các *ư bộ do triều Nguyễn p h á i sang nhà Thanh (Bửu Cầm 1966: 4 6 -5 1 ), N hững ông nghè ông cống triếu Nguyễn (Bùi Hạnh Cẩn và cộng sự 1 9 9 5 ), K h oa củ và cắc nhà kh oa bảng triều Nguyễn (Phạm Đức Thành Dũng, Vĩnh Cao 2 0 0 0 ), Sứ thẩn Việt N am (Nguyễn Thị Thảo, Phạm Văn Thắm , và Nguyẻn Kim Oanh 1996) và Les am bassaảes en Chine sous la dynastie des Nguyễn (1 8 0 4 - 1924) et les bleu de H u é [Những sứ thẩn sang Trung Hoa dưới thời Nguyền (1 8 0 4 - 1924) và đổ sứ men lam Huế] (Phillipe Truong 1 9 9 8 ); có thể xác định vào thời Nguyễn, các vị vua: Gia Long (1 8 0 2 - 1820), Minh Mạng (1 8 2 0 - 1 8 41), Thiệu T rị (1841 - 1847), Tự Đức (1 8 4 8 - 1883) và Khải Định (1916 - 1925) đã cử ít nhất là năm mươi sứ bộ sang Trung Hoa với những mục đích khác nhau (Bảng 1-2). Các triều vua từ Dục Đức đến Duy T ân (từ năm 1883 đến năm 19 1 6 ) không phái sứ bộ nào sang Trung Hoa vì nội tình V iệt Nam trong giai đoạn này có nhiều rối ren và phải lo đối phó với họa xâm lăng của thực dân Pháp. T ừ sau H òa ước Giáp T hân (1 8 8 4 ), quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Hoa đã thực sự chấm dứt do áp lực của thực dân Pháp. Những phái bộ do triều Khải Định phái sang Trung Hoa vào các năm: 1921, 1924 và 1925 không phải là những sứ bộ ngoại giao. Họ chỉ đến Quảng Đông để đặt mua đồ sứ. Bảng 1 (phụ lục) cho thấy có rất ít các sứ đoàn được triều đình phái sang Trung Hoa với nhiệm vụ giao dịch thương mại thuẩn túy (chỉ có 9 sứ b ộ ). Trong khi đó; hoạt động thương mại ở hải ngoại nhằm đáp ứng cho các nhu cẩu tiêu dùng của hoàng gia, triều đình và quân đội là rất lớn. Con số thống kê ít ỏi này chưa phản ánh đúng các hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Trung Hoa vào thời kỳ này là do trên thực tế phẩn lớn các sứ bộ sang Đại Thanh vì các nhiệm vụ ngoại giao đều kiêm nhiệm hoạt động giao dịch thương mại cho triều đinh V iệt Nam. 3. H o ạ t đ ộ n g th ư ơ n g m ại c ủ a c á c sứ b ộ V iệ t N am K H I Đ I SỨ T r ư n g H o a 3 .1 . Lộ trinh đi sứ từ V iệt Nam sang Trung Hoa và ngược lại Lộ trình đi sứ Trung Hoa vào thời L ê , theo tờ khải của sứ bộ Trần Huy Mật, phụng mệnh vua Lê sang Thanh vào năm Canh Thìn (1 7 6 0 ), bắt đầu từ Giang Đình, là tòa nhà dựng bên bờ nam sông Hồng để đình thần triều Lê đến đưa tiễn sứ bộ, sau đó, họ vượt sông Hồng đến làng Ái Mộ (G ia Lâm ); rồi đến Cầu Doanh (T h ị Cầu), tiếp đến T h ọ Xương (Phủ Lạng Thương); vượt qua hẻm đá Quỷ M ôn Quan đến trấn thành Lạng Sơn. Sứ bộ đợi ở Lạng Sơn chờ ngày mở cửa ải. Đ ến ngày đã định, quan quân nhà Thanh mở Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I 2 .1 5
  6. cửa ải nghênh đón sứ bộ rồi dẫn đến Chiêu Đức Đài để trao đổi biểu chương. Từ đây, quan quân hộ tống của nhà Lê đã hoàn thành nhiệm vụ, trở về nước. Việc hộ tống và mang vác cống phẩm, đổ đạc của sứ bộ trên đất Trung Hoa sẽ do quan quân nhà Thanh tại các địa phương mà sứ bộ đi qua đảm nhận. Sứ bộ tiếp tục theo đường Bằng Tường đến doanh Quỳ Đạo thì xuống thuyền ở Ninh Minh. Thuyền từ Ninh Minh xuôi dòng Tả Giang qua phủ Thái Bình, đến Nam Ninh, rồi xuôi đến Tầm Châu, là nơi hợp lưu giữa sông Tầm và sông Quế. Sau đó, thuyền theo sỏng Quế ngược lên phía bắc để đến Quế Lâm, lỵ sở Quảng Tây. Từ Quế Lâm sứ bộ chuyển thuyền để theo dòng sông Tương đi lên hướng bắc, đến Trường Sa là tỉnh lỵ H ồ Nam. Thuyền của sứ bộ qua hồ Động Đình, rẽ vào sông Dương T ử (T rư ờn g G iang), xuôi xuống Hán Khẩu, Vũ Xương (tỉnh lỵ Hổ B ắc). Sứ bộ tiếp tục đổi thuyền xuôi đến Kim Lăng (Nam K inh). Sau đó sứ bộ lại thay thuyền, rời sông Dương Tử để vào kênh Vận Hà; là con sông đào thông với các sông Giang; Hoài, Hoàng, Bạch để đi lên phương bắc. Sứ bộ vượt H oàng Hà đến Sơn Đông. Từ Sơn Đông, sứ bộ được cấp xe ngựa để đi đến Bắc Kinh. Hành trình lượt đi từ lúc rời Thăng Long đến Bắc Kinh dài gần một năm. Lượt về, sứ bộ lại theo đường cũ và cũng mất gần một năm mới về đến T hăng Long (Nguyễn T h ế Long 2 0 0 1 :2 5 6 -2 5 9 ). Về lộ trình đi sứ dưới thời Nguyễn, sách K h âm định Đ ại N am h ộ i điền sự lệ cho biết: đường đi sứ từ V iệt Nam sang Trung Hoa bắt đầu từ kinh đô Huế; theo đường bộ ra Hà Nội, lên Bắc Ninh, đến Lạng Sơn và qua ải Nam Quan vào đất Qụảng Tây rồi vào sâu trong nội địa Trung Hoa. T rên đường đi, khi sứ bộ đi ngang tỉnh nào thì tỉnh ấy phải cử biền binh hộ tống sứ bộ. Lượt về cũng như thế nhưng theo trình tự ngược lại (N ội các triều Nguyễn 1993). Còn sứ nhà Thanh sang Việt Nam thì đi theo đường bộ qua ải Nam Quan đến Bắc Thành (H à N ộ i), rồi theo đường thủy để vào kinh đô H u ế qua các bến: Bắc Thành, Nam Định, Đ ồn Thủy (Thanh H óa); Hổ Xá (Q uảng T rị) rồi vào Huế. Khi đi ra cũng theo lộ trình ấy, hoặc đôi khi đi đường bộ ra tới Bắc Ninh rồi theo đường thủy trở vể Trung Hoa (N ội các triều Nguyễn 1 9 9 3 :3 6 6 -3 6 8 ). G. Devéria, nguyên là thông dịch viên thứ nhất của phái đoàn Pháp tại Trung H oa và là thông tín viên của trường chuyên về các sinh ngữ phương Đông ở Pháp, có công bố nội dung m ột chiếu chỉ do nhà Thanh ban hành năm 1667 liên quan đến lộ trình đi sứ từ An Nam - Việt Nam (từ đây xin gọi là V iệt N am ) sang Trang Hoa. T h eo đó; sứ bộ đi cống của V iệt N am phải đi qua phủ Thái Bình vào tỉnh Quảng Tây. Năm 1726, hoàng đế U ng Chính quyết định từ đó về sau, các sứ thần V iệt Nam mang cống phẩm sẽ được tổng trấn Quảng Tây cấp m ột giấy thông hành để đi đến Bắc Kinh (bấy giờ 116 I Di sản Lịch sừ và những hướng tiếp cận mới
  7. có tên là Yên Kinh) bằng đường thủy băng qua các tỉnh: Hó Quảng (nay là hai tỉnh Hổ Nam và Hổ B ắc), Giang Tây và Sơn Đông. Khi họ rời Bắc Kinh để vê' nước, chính quyển Trung Hoa sẽ cấp cho họ một giấy thông hành mới để vể theo đường củ (Devéria 1980: 6 0 ). Năm 1797; tổng đốc Lưỡng Quảng thông báo cho Bắc Kinh rằng Việt Nam cừ sứ bộ mang cống phẩm đến và lấn này các sứ thần V iệt Nam thay đổi lộ trình đã định, đi bằng đường thủy qua Lưỡng Quảng (nay là hai tinh Quảng Đông và Quảng T â y ), đến huyện Tiêu Tĩnh (Quảng Đ ông); sau đó lên bộ tại Sa T ĩnh (Giang T ây ) và từ đó đi Bắc Kinh. Năm 1804, các phái viên V iệt Nam mang cống phẩm đi bằng đường bộ qua ải Nam Quan, đến châu Bằng Tường ờ Quảng Tây, rồi từ đó theo đường thủy đến Bắc Kinh (D evéria 1 9 8 0 :6 1 ). Ngoài ra, G. Devéria cũng công bố tấm bản đổ Itin éraires de Chine en Annam [Các lộ trình từ Trung Quốc đến Annam]. Tấm bản đồ này được ghi chú là “T heo m ột bản đ ồ Trung Quốc được vẽ dưới thời các H oàng đ ế Mông C ổ do Tschou-sse-peun xem lại, hiệu đính và công b ố năm 1S 7 9 ”. Những chú giải trên tấm bản đồ này cho thấy: từ thế kỷ X V việc thông thương giữa Trung Hoa với V iệt Nam (và ngược lại) thông qua ba ngả khác nhau: qua ngả Quảng T â y -L ạ n g Sơn (đường b ộ ); qua ngả Vân Nam - Lào Cai (đường b ộ) và qua ngả Quảng Đông - Hải Dương (đường thủy). * Từ Quảng Tây đến V iệt N am có ba ngả đường sau: - Thứ nhất, từ Bằng Tường (Trung H oa) vượt qua ải Nam Quan, đi một ngày đường đến trạm Pha Lũy thuộc châu Văn Uyên (Việt N am ); hay đi qua phần phía bắc của châu Thoát Lãng (Việt Nam) để đến phủ Lạng Sơn sau một ngày, từ đó đi một ngày sẽ đến Đông Kinh (tên gọi Hà Nội lúc bấy giờ). Ngoài ra, tò phía bắc của Ôn Châu (Trung H oa) qua Quỷ M ôn Quan, đi một ngày đường đến thôn Tân Lệ (Việt Nam) và băng qua sông Nhị Thập, đi thêm một ngày đến huyện Bảo Lộc, rồi thêm m ột ngày rưỡi sẽ đến bến sông Xương, phải vượt qua sông này, đi thêm một ngày sẽ đến phía nam Th ị Cẩu của huyện An Việt, rồi về Đông Kinh theo đường bộ hoặc đường thủy (Devéria 1980:78-79). - Thứ hai, từ phủ T ứ M inh (Trung H oa), vượt qua núi M a Thiên Lĩnh đến châu T ứ Lăng (Trung H oa), đi thêm một ngày qua ải Biện Cường đến châu Lộc Bình (Việt N am ). Ở phía tây của châu lỵ này có m ột con đường dẫn đến phủ Lạng Sơn sau m ột ngày đường. Nếu đi theo đường phía đông, thì phải vượt qua sông T h iên Lý, đi thêm m ột ngày rưỡi đến châu An Bác (V iệt N am ). T ừ đó, đi bộ m ột ngày rưỡi đến động Hao Quân; thêm một ngày đi bộ, sẽ đến huyện Phong Nhãn. T ừ đây có hai con đường: đường thứ nhất đi đến huyện Bảo L ộc, rồi vượt sông Xương đi đến nam T h ị Cầu thuộc Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới ị 2.17
  8. huyện An Việt; đường thứ hai đi vào phủ Lạng Sơn (V iệt N am ) và sau một ngày đi bộ cũng đến được T h ị Cầu, rồi về Đông Kinh theo đường bộ hoặc đường thủy(D evéria 1 9 8 0 :7 9 -8 0 ). - Thứ ba, từ huyện Long Châu (Trung H oa) đi một ngày đến ải Binh Nhĩ. Vượt ải này đi thêm m ột ngày thì đến châu Thất Uyên (V iệt N am ). T ừ đó đi hai ngày cho đến huyện An Việt, rồi đi bộ m ột ngày đến phủ T ừ Sơn, sau đó qua các huyện Đ ông Ngạn, Gia Lâm và các huyện khác, rồi băng qua sông Phú Lương để vào Đông Kinh (Devéria 1 9 8 0 :8 1 -8 2 ). * Từ Vân N am đến An N a m có hai ngả đường sau: - Thứ nhất, từ Mông T ự vượt qua thác Liên Hoa, vào V iệt Nam qua Thạch Long Quan (tức cửa Đá Lũng). Sau đó đi xuống đến động Trình Lan, vượt sông qua phía hữu ngạn, tiếp tục đi bộ thêm bốn ngày đường sẽ đến châu Thủy Vĩ, rồi đi thêm tám ngày đến châu Văn Bàn. T ừ đây đi tiếp năm ngày đến huyện Trấn An; rồi thêm năm ngày đến huyện Hạ H oa. T ừ Hạ Hoa đi ba ngày đến huyện Thanh Ba và đi thêm ba ngày đến phủ Lâm Thao, nằm trong lưu vực sông Phú Lương, nơi có con sông Thao ở phía bắc và con sông Đà ở phía nam. Từ Lâm Thao đi tiếp đến huyện Sơn Vi; đi thêm hai ngày là đến phủ Hưng Hóa, gặp thành cổ Đa Bang, rồi ngã ba Bạch Hạc tiếp nối với con sông Phú Lương và xuôi theo dòng sông này về đến Đông Kinh (Devéria 1980: 8 2 -8 3 ). - Thứ hai, từ ải Hà Dương (Tru ng H oa) đi mười ngày đường đến châu Bình Nguyên (V iệt N am ), đi thẻm năm ngày đến huyện Phú An, tiếp tục đi một ngày đến phủ Tuyên Giang hay châu Tuyên Hóa, rồi đi thêm hai ngày đến phủ Đoan Hùng. T ừ Đ oan Hùng đi thêm năm ngày sẽ gặp ngã ba Tam Kỳ Giang, rồi theo dòng Phú Lương về tới Bạch Hạc và xuôi về Đông Kinh (Deveria 1 9 8 0 :8 4 ). * Từ Quảng Đ ông đến V iệt N am đi bâng đường thủy có h ai ngả đường sa u : - Thứ nhất, từ các hải khẩu thuộc tỉnh Quảng Đông, đi ngang qua đảo Liêm Châu (Trung H oa), rồi m en theo bờ biển phía bắc V iệt Nam vào đến phù Hải Đông (V iệt N am ). - Thứ hai, từ bán đảo Ô L ôi Châu, thuyền đi ngang qua đảo Bạch Long Vĩ; rồi thâm nhập vào nội địa V iệt Nam qua m ột trong năm cửa biển: Bạch Đằng; An Dương, Đồ Sơn, Đa Ngư và Thái Bình; rồi ngược theo m ột trong những dòng sông: Bạch Đẳng, Hoàng Kinh, Phú Lương, H ồng Hà; Thái B ìn h ... đi qua các phủ; huyện như Nghi Dương, Bình Hà; Nam Sách, Thượng Hồng; hay Kiêu Thoại, Tân Minh, Tứ Kỳ, Khoái Châu, Kinh Mỏn, Hạ H ồng... để vào Đông Kinh (Devéria 1980: 85 -8 6 ). 218 I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  9. Những ngả đường thông thương giữa Trung Hoa và Việt Nam nói trên phần lớn do người Trung Quốc khai mở trong các cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam từ thời Hán (221 - 206 trước Công nguyên) cho đến thời Thanh. Các sứ bộ Việt Nam từ thời Lê (1 4 2 7 - 1788) đến thời Nguyễn (1 8 0 2 - 1945) cũng sử dụng các con đường này để đi sứ nhà Thanh (H ình 1, 2). 3 .2 . H oạt động thương m ại của các sứ bộ V iệt Nam khi đi sứ sang Trung H oa Như đã để cập trên đây, triều đình Việt Nam cử các phái bộ sang Trung H oa với nhiều mục đích: ngoại giao, chính trị, thương mại... Bài viết này không quan tâm đến các chuyến đi “công vụ” hay các chuyến đi vì mục đích thương mại thuần túy (chủ yếu đến vùng Quảng Đông và Hương Cảng để mua hàng), mà chỉ xem xét hoạt động thương mại kiêm nhiệm trong các sứ bộ ngoại giao do triều đình V iệt Nam, chủ yếu là triều Nguyền, cừ sang Trung Hoa dưới triều Thanh. 3.2.1. T h ẩm quỵền giao dịch thương m ại của các sứ bộ Thời Nguyễn, những sứ thẩn sang Thanh, ngoài các nhiệm vụ chính yếu như cầu phong, tạ ân, cáo thụ, chúc mừng... còn kiêm nhiệm việc mua sắm hàng hóa cho triều đình. Việc sai sứ sang Thanh là trách nhiệm của bộ Lẻ, nhưng triéu đình củng bổ sung vào thành phẩn sứ đoàn, nhiểu quan chức của các bộ, phủ khác như bộ Hộ, phủ Nội V ụ ... nhằm thực thi nhiều chức trách khác nhau ở nước ngoài, quan trọng nhất vẫn là việc tìm mua các hàng hóa để đáp ứng các nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Vì thế, ngoài các sứ thẩn (gồm m ột chánh sứ và hai phó sứ), sứ bộ còn bao gốm các hành nhân và tùy tùng, là những người khiêng kiệu cho sứ thần và mang vác cống phẩm, hàng hóa. Sách K h âm đinh Đ ại N am hội điển sự lệ cho biết: Vào đẩu triều Gia Long, triều đình "định lệ sai sứ sang nhà T han h, cứ bốn năm sai sứ đi m ột lần. Nếu gặp các lễ chúc mừngj xin phong, tạ ơn hay dâng hương m à có sai sứ đi đều p h ả i tư trước cho bộ H ộ và phủ N ội Vụ theo lệ làm m ọi việc, và tư cho H à N ội tìm sắm đ ổ vật. L ạ i soạn sẵn công vãn gủỉ tỉnh Quảng T âỵ hỏi rõ ngày cho vào của quan rồi chờ tỉnh ấy trả lời. Xin chỉ trước giao cho đình thẩn chọn cử lấy ba viên sứ thần: m ột chán h sứ, hai p h ó sứ và chọn lấy tám hành nhân, chín người tủy tùng'. T u y nhiên, sang đầu triểu Minh Mạng, số người trong mỏi sứ bộ sang Thanh có gia tăng: gổm ba sứ thần; ba lục sự, chín hành nhân, mười lăm tùy tùng (tổng cộng là ba mươi người). Sở dĩ có việc gia tăng nhân lực này là để phụ giúp vào việc vận chuyển hàng hóa đi và vể. Việc Việt Nam gia tăng nhân sự trong sứ bộ khiến nhà Thanh phải thêm phần tốn kém, vất vả trong việc cung đổn, phục dịch và áp tải sứ bộ trên đất Trung Hoa. Vì thế, Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I .2 .19
  10. vào năm Minh M ạng thứ sáu (1 8 2 5 ), “nước T hanh tư sang ấn định m ỗi sứ bộ ch ỉ có h a i mươi người, gốm ba sứ thần, tám hành nhản, chín tùy tùng" như trước (N ội các triều Nguyễn, T .8 , 305, 3 0 8 ). T rư ớc nay, có m ột số ý kiến cho rằng các sứ bộ ngoại giao không kiêm nhiệm hoạt động thương mại và vật phẩm do các sứ thẩn mang vê' từ Trung H oa không phải là hàng hóa mà là tặng phẩm của triểu đình Trung Hoa cho triều đình V iệt Nam (Phạm Hy Tùng 2000: 162-172). Theo tôi; ý kiến này không chính xác, có nhiều sử liệu ghi chép tường tận việc mua bán hàng hóa của các sứ bộ ngoại giao thời Nguyễn ở Trung Hoa cho thấy: - C hâu bản triều Nguyễn (Tập 15, tờ 212-213) phản ánh: Ngày 28 tháng 3 năm Minh Mạng thứ bảy (1 8 2 6 ); Hiệp tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Hữu Thận tấu trình về việc ngày 18 tháng 3; hai sứ bộ được phái sang Thanh vào năm 1825, nay đã trở về đến Bắc Thành (H à N ội)8. Theo lệnh của triều đình, hai chánh sứ là Hoàng Kim Hoán và Hoàng Văn Quyến theo trạm về trước, còn bốn phó sứ là Phan Huy Chú; Nguyễn Trọng Vũ, Trần Chấn và Nguyễn Hựu Nhân ở lại Bắc Thành để kiểm soát đổ vật công. Hộ tào Nguyễn Công Thiệp đã cùng các phó sứ kiểm kê đồ vật mua được; chọn các loại hàng hóa nhẹ như gấm, đoạn... gồm mười bốn thùng, phân thành mười hai gánh chuyển theo đường bộ vê' Kinh9 từ ngày 25 tháng 3 để phụng nộp trước. Còn hàng hóa nặng, gồm mười sáu thùng thì niêm phong, giao Cục Tạo tác giữ gìn, cùng với năm mươi ba hòm tư trang của hai sứ bộ và tùy tùng, chờ để chuyển về Kinh bằng đường biển (C ục Lưu trữ Nhà nước 1998: T .2 ; 420). - Sách K h â m định Đ ại N am hội điền sự lệ cho biết vào năm 1841, nhà Thanh có chiếu chỉ cho phép triều đình nhà Nguyễn miễn hai kỳ tuế cống vào năm T â n Sửu (1 8 4 1 ) và năm Ất T ị (1 8 4 5 ) (Vương Hổng Sển 1993, T . 1 :1 5 4 ). T rê n thực tế, tuy không sai sứ đi triều cống theo lệ; nhưng vào năm 1841; nhà Nguyễn vẫn cử sứ bộ do Lý Văn Phức làm chánh sứ sang T ran g Hoa báo tang vua M inh M ạng và xin phong vương cho vua Thiệu Trị. Sau đó; triều Nguyễn cử thêm sứ bộ do Trương Hảo Hợp làm chánh sứ đi tạ ân vào năm 1845. Sứ bộ này cũng nhận trách nhiệm đặt các họa sĩ Trung Q uốc vẽ những bức tranh gương minh họa nội dung m ột số bài thơ ngự chế của vua Thiệu T rị (H ìn h 6, 7 ) 10. Sứ bộ Trương Hảo Hợp vê' đến kinh đô H uế vào năm Bính Ngọ (1 8 4 6 ) thì bị xử phạt vì tội bắt phu khuân vác nặng khiến có người phải lao lực mà chết. Trong số họ, Trương Hảo Hợp bị phạt nặng nhất; mất chức T ả thị lang bộ Lễ và bị điểu đi giữ chức Quyền Tuần phủ Lạng Sơn (Q u ố c sử Quán triều Nguyễn 1972: T .2 6 , 139). - Sách Đ ại N am thực lục chép: "N ăm Tự Đức nguyên niên (1 8 4 8 ), Phủ N ội vụ lấy đơn hàn g giao cho sứ bộ sang nước T h an h 11, nhân tiện tìm m ua hàng h ó a nước T han h. T rong đó kê k h a i những đồ ngọCj đ ồ cô) đồ sứ và các đ ồ chơi. 2.2.0 I Di sản Lịch sừ và những hướng tiếp cận mới
  11. K h o a đ ạo là Đỗ D anh T hiếp tâu n ói: H oàng thượng ta chính mới trong sáng, m ọi việc bỏ xa xỉ theo kiệm ước. N ay đương ở trong nhà đ ể tang, đ ồ m ặc, đ ồ dùng trong cung đêu theo trắng m ộc chất phác. H uống chi sứ thần đi b á o tin quốc tang, m à lại hỏi m ua các đ ổ chơi quý /ạ, th ế k h ô n g p h ả i là tỏ ra kiệm ước vậy. C ác hàng kê m ua ấy đẽu xin đình chỉ. Vua khen và nghe lời tâ u ” (Q u ốc sử Quán triều Nguyễn: T .2 7 , 5 8 -5 9 ). - C hâu bản triều Nguyễn (tờ 2 0 9 -2 1 4 ) phản ánh: Năm T ự Đức thứ hai mươi mốt, ngày 15 tháng 8: “T rần Đình Túc và Nguyễn Huy T ế trình danh sách các vật p h ẩ m m à hai người đ ã sang Hương Cảng tìm m ua đ ể cung tiến trong dịp Lụ c tuân Đ ại khán h của H oàn g th ái hậu"12. Trước đó, hai người này được phái sang Hương Cảng để truy tìm một phạm nhân của triều đình tên là Lê Duy Định đang trốn tại đó và tập hợp bè đảng, mua vũ khí chống lại triều đình, sau kiêm thẻm nhiệm vụ mua hàng. - G. Devéria cũng phản ánh một số sự kiện liên quan đến việc tìm mua hàng hóa của các sứ thần V iệt Nam: + Năm 1775; sứ thấn Việt Nam khi đi qua Nam Kinh m uốn mua lụa. Thanh triều không phản đối chuyện việc này, nhưng do đây là m ột việc mua bán riêng tư, không có sự giới thiệu của Thanh triều, nên các thương nhân Trung Hoa đã tăng giá hàng hóa m ột cách thái quá, sinh ra cãi cọ giữa các sứ thẩn V iệt Nam với các thương nhân Trung Hoa, khiến giới chức trách của nhà Thanh phải can thiệp vào. T ừ đó vể sau nhà Thanh quy định sứ thần V iệt Nam phải nộp cho nhà chức trách địa phương danh sách các m ón hàng muỗn mua. Giới chức trách nhà Thanh sẽ có nhiệm vụ mua hàng giúp cho các sứ thần (Devéria 1 9 8 0 :7 0 ). + Năm 1794; vua V iệt Nam, vì thích các sản phẩm kỹ nghệ của Trung Hoa, mới đặt làm các áo dài thêu tại tỉnh Giang Nam; vua V iệt Nam phái m ột ngứời với nhiều quyển hành sang Thanh để thực thi điểu này. Người này mang theo các thứ giấy tờ chứng nhận rằng các món đổ này là dành cho vua Việt Nam và yêu cẩu Thanh triều tạo điều kiện; hoàng đế Trung H oa sợ các đòi hòi của ông vua này sẽ gia tăng lên mãi và sợ những người môi giới này sẽ lợi dụng việc này để gây thêm rắc rối, nên đã ban chiếu chỉ như sau: ặt.Nước An N am gửi đồ nộp cống hai năm m ột lần, các sứ giả đi lại luôn luôn. N ếu vua muốn m ua áo quấn cho m ình thì sai các sứ thăn m ua các đ ồ này khi p h á i các sứ thần sang. K hi vua cân m ua cái gỉ tại N am KinhỊ vua cấn b á o với tổng đốc Lưỡng Q uảng xin h o àn g đ ế cho p h ép sứ thần An N a m thay đ ổ i lộ trình đ ã định và đi bằng đường thủy ngang qu a N am Kinh. N ếu vua kh ôn g có gì m ua tại Giang N am , sứ thần của ông sẽ p h ả i đến B ấc Kinh bằn g lối H ố B ắ c và H ồ N am , như đ ã làm trước đ à y ” (D evéria 1980 :7 l ) . Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I 2. 2.1
  12. Có một điếu thú vị là các sứ bộ không chỉ mang cống vật đi nộp theo yêu cầu của Thanh triều và mua hàng hóa, vật phẩm từ Trung H oa mang về theo lệnh của triều đình Việt Nam, mà họ còn tự mang hàng hóa từ trong nước sang bán ở Trung Hoa. G. Devéria có công bố nội dung một chiếu thư do nhà Thanh ban hành năm 1665; cho phép các sứ thần của các nước phiên thuộc được phép mang theo hàng hóa từ các xứ này sang bán tại Bắc Kinh: "C ác sứ thần của các nước nộp cống, trừ các sứ thần của Lưu Cẩu và Cao Ly, sau khi đã được hoàng đ ế ban qu à, được p h ép m ờ chợ trong ba hoặc năm ngày. Riêng sứ thân của Lưu Cầu và C ao Ly có th ể buôn bán b ấ t kỷ ngày nào. Bộ L ễ giao cho bộ H ộ chỉ định các quan làm việc tại các kho của triều đình đư ợcgiao nhiệm vụ m ua sắm cho triều đình. K hi nhận được sự trả lời của bộ Hộj m ột thông báo sẽ được ban hành và người ta sẽ chỉ định các quan đ ể coi vẽ sự công bằng trong giao dịch. Tàu thuyến của các nước nộp cổng, nếu đến ngoài những thời điểm x ác định đ ể nhận đ ổ cống của nước họ sẽ được xem như là buôn bán b ấ t hợp p h á p 13. Các tổng đốc và các quan trấn thủ sẽ p h ả i đuổi họ đi” (Devéria 1980: 7 1 ). 3.2.2. D anh mục cống p h ẩ m và hàng hóa giao dịch của các sứ bộ V iệt N am Các nguồn sử liệu liên quan đến hoạt động thương mại của các sứ bộ Việt Nam ở Trung H oa đã phân định rõ ràng giữa cổng phẩm với hàng hóa đưa đi bán, cũng như giữa tặng phẩm của nhà Thanh ban tặng cho triều đình Việt Nam với hàng hóa mua về. * C ống p h ẩ m : T h eo Đ ại T h an h hội điển , vào năm 1803, nhà Thanh đả ban hành danh m ục các cống phẩm mà triều Nguyễn phải tiến cống cho triều đình T ru ng H oa theo định kỳ: "T h eo đ ề nghị của b ộ LễỊ cống p h ẩ m thông thường h a i năm m ột lần m à An N a m p h ả i gửi san g, theo qu yết định của T r ẫ m , g ố m : sáu trăm lạng trâm h ư ơ n g (ị/L 1?), m ộ t ngàn hai trăm lạng hương thơm đ ề ướp á o qu ần cho thơm ( Í S ẬL bốn ngà voi (|)C 5 f ), bốn sừng tê g iác (JỆ Ề ỉ )Ị sáu trăm tấm lụa ( [È| ắ ! ) , h a i trăm tấm vảibông(fâ t E ) , chín mươi cân hạt sa n h â n (6!? j z ) j chín mươi cân hạt cau kh ô (ỶÍn $P ). Còn cống p h ẩ m n hân các lẽ m ừng14 g ổ m : bốn ngà voi ĩ ĩ 1), bốn sừng tê g iác ( jẸ fâì), b a tràm tấm lụa ( ắ i ) , m ột trăm tấm vải bôn g (trỊỉ V c ) ” (D evéria 1980: 52, 8 9 ). Ngoài các vật phẩm trong danh mục trên, đôi khi phía Trung H oa cũng yêu cầu thêm m ột số cống vật khác như: vàng và bạc đã gia công (ầ £ ầẵ t l m ), nhựa cây giáng hương (Pặ % nhựa cây tố c hương (3â| lý ) , nhựa cây tử giáng hương Ị5ặ trẩm xô trầm sợi màu đen ( H IJc § ) ; quạt giấy các loại lụa địa phương như*, thổ chu ( i $ạị), thổ quyên ( i $M)f thổ hoàn ( i ếẤ) (D evéria 1 9 8 0 : 52, 8 9 ). 22 Ql. . . I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  13. * H àng đưa đi b á n : Như đã đề cập trên đây, ngoài các cổng phẩm, các sứ đoàn còn mang theo hàng hóa đến Trung Hoa để giao dịch. Chiếu thư năm 1665 của Thanh triểu nói rõ: tâC ác sứ thần đến nộp cống p h ẩ m được p h ép m ang theo hàng h ó a (để bán), nhưng họ p h ả i lo trả p h í vận chuyền. N ếu thích hợp cho họ thì họ có th ể buôn bán tại B ắc Kinh nhưng nếu họ thích buôn bán ờ chỗ k h ác thì các p h ó vương và các qu an trấn thủ sẽ p h ả i chỉ định người theo dõi các giao dịch và báo trước các k h ó k h ã n ” (Devéria 1980: 7 1 ). G. Devéria cũng dựa vào cuốn A n N a m th ổ vậty cho biết hàng hóa V iệt Nam mang sang bán ở Trung Hoa thường là các sản vật đặc trưng của nước ta như: vàng tự nhiên (ÍẺí á ằ ), bạc ( i í l ) ; đồng (SọỊ), đơn sa ^ ỳ ), ngọc trai đổi m ổi (ỉft ĩ l ) , s a n h ô (ĩffi ỉ$|), trầm hương (ị/L § ) ; d ẩu tô hợp (M p* vtì), ngọc phỉ thúy ( I I ẵ ặ ), trĩ lông trắng ( ũ £fi), hươu trắng ( 1=1 fễẾ), tê giác ( Ip.), voi (íic ) , sừng tê giác cái dùng làm chén uống rượu dê núi (p? ^ ) , đười ươi (3Ễ 3 Ẽ ),k h ỉ($ịi H ) , vư Ợ n(H M), trăn Ỉ È ) , quả xoài (1É H ỉặ :), quả mít ($ ? Sễ cau khô hồ tiêu ậK), gỗ cây sam ( i ặ gỏ mun (Ệk ^ ) , muối ( S ) ; sơn ( ị ^ ) (D evéria 1980: 88 -8 9 ). * H àn g m ua vế: Con đường đi sứ từ Việt Nam lên đến Bắc Kinh đi qua rất nhiều tinh, thành Trung Hoa. M ỗi tỉnh, thành đểu có những loại đặc sản riêng rất được các sứ thần ưa chuộng. Trong số đó, các mặt hàng tơ lụa cao cấp Giang N am 15; đồ gốm sứ Giang Tây; rượu của Quý Châu; thuốc bắc ở Bắc Kinh, trà ở H ổ Bắc; lâm thổ sản của Vân Nam; hoa quả tươi ở Lưỡng Quảng16... là những thứ luôn được triều đình kê đơn mua hàng. T rên đường đi sứ, các sứ thần sẽ ghé Giang Tây, đặt các lò gốm sứ vùng này chế tác những món đổ sứ theo yêu cầu của triểu dinh và quan lại Việt Nam (đổ sứ ký kiểu). Lượt về, họ sẽ tiếp nhận các món đồ sứ này để chuyển vê' nước (H ình 3, 4, 5 ). Ngoài việc ký kiểu các món đổ sứ cho triều đình, có ghi niên hiệu các triều vua Việt Nam ( M inh M ạng niên^chế, Thiệu Trị niên tạo, Tự Đức niên chế, K h ả i Định niên t ạ o ...) và trang trí các để tài dành riêng cho các bậc đế vương; các sứ thẩn còn ký kiểu những món đồ sứ cho riêng mình. Những m ón đồ sứ này thường có hiệu để niên đại, ghi năm họ được cử đi sứ Trung H oa như: G iáp T í niên c h ế (1 8 0 4 ), C anh T hìn niên c h ế (1 8 2 0 ), Bính T u ấ t niên c h ế (1 8 2 6 ); Đ inh Tị niên tạo (1 8 5 7 ) . . . 17. Ngoại trừ những món đổ phải đặt làm trước như đồ sứ ký kiểu hay tranh gương; phẩn lớn các mặt hàng khác đều được sứ bộ mua trên hành trinh trở vể nước. Lụa, tơ tằm, trà, thuốc b ắ c ... là những hàng hóa dẻ dàng vận chuyển được mua từ các tỉnh nằm ở sâu trong nội địa Trung Hoa, còn các mặt hàng thổ sản, các loại hàng hóa có kích thước và trọng lượng lớn, chủ yéu được mua ở các tỉnh gần biên giới như Quảng Tây, Vân N am ... Di sàn Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I 2.2.3
  14. G. Devéria cũng công bố trong cuốn sách của mình những mặt hàng mà các sứ bộ V iệt Nam thường mua ở Quảng Tây và Vân Nam, gồm: trà thái hoa ( À $ ^ ) , cá chỉ vàng (jễ£ l|c ũ ) , chim công ( ? l l Ề ) , ngựa ( H ) ; các loại vải đặc biệt như: vải sa la ự/ỳ M ^ ) f vải in hoa văn (,t$ 'ỉ^ĩ), gấm ngũ sắc ( 5 . Ê lê ) ; giấy thiên trường ( i 1 ếK); các loại trúc thổ sản như: đậu trúc ( s t í ), vần trúc ( S Y ĩ), phác trúc (IU t t ), thùy ti trúc (1É Y ĩ), kê thố trúc ( H M Y ĩ ), (M I ? ) ; đá cẩm thạch (M ĩ ĩ ); đổ đồng thanh ( ĩ ĩ W ); sắt (IU ); đổ đổng trắng ( Él |pỊ); kim cương ( Ề: Hf), thạch anh 5 ) ; ngọc lưu li (ĨỀ ĩM ); thạch cao ('H W ); hổ phách (Sa ĩ â ) ; các loại ngọc ( 3 l ) j đá đỏ (lu %.)) muối đen (M l ẵ ) ; đá long não ( t i Ilí -5 ").... (Devéria 1980: 8 9 ). Ngoài số hàng hóa mà các sứ bộ mua vể theo yêu cầu của triều đình V iệt Nam, họ còn mang theo những tặng phẩm do hoàng đế Trung H oa tặng cho vua, hoàng gia và đình thần Việt Nam. Trên đường vể nước, các sứ bộ được quan quần các địa phương Trung Qụốc hộ tống và cử người mang vác hành lý, hàng hóa mỗi khi sứ bộ đi qua địa phận do họ cai quản. Những người này cũng có trách nhiệm báo cáo về cho triều đình nhà Thanh hành trình của sứ bộ từ lúc họ rời Bắc Kinh cho đến khi sứ bộ vượt qua các cửa ải vào nội địa V iệt Nam. T ừ đầy, các quan tuần phủ ở các phủ, châu sát biên giới như Lạng Sơn, Thủy Vĩ, Bình N guyên... sẽ cử người hộ tống sứ bộ và áp tải hàng hóa vể đến Hà Nội. T ại đây, hàng hóa và tặng phẩm sẽ được phân loại sơ bộ, theo đó, tặng phẩm của Thanh triểu cùng tư trang hành lý của sứ đoàn và những hàng hóa quan trọng sẽ được chuyển về kinh đô Huê cùng một lượt với sứ bộ. Các loại hàng hóa cổng kềnh, kém quan trọng sẽ được quan nha Bắc Thành tạm thời quản lý và sau đó được chuyển về Huế bằng đường thủy, như ghi chép trong tờ 212 - 213 của châu bản triều M inh Mạng đã trích dẫn trên đầy (C ục Lưu trữ Nhà nước 1998: T .2 :9 2 0 ). 3. T hay lờ i kết T ừ những tư liệu lịch sử được trích dẫn trên đây, cùng với việc khảo chứng những hiện vật vốn là hàng hóa và vật phẩm do các sứ thẩn mua từ Trung H oa về thông qua h o ạ t động thương m ại kiêm n hiệm , có th ể nhận xét như sau: 3.1. Do những ngăn trở từ phía Thanh triều, hoạt động thương mại giữa hai nước V iệt Nam và Trung Hoa thời kỳ này diễn ra trong m ối tương quan bất bình đẳng. Thương nhân người Hoa được phép mang hàng hóa sang buôn 2.2.4 I Di sản Lịch sử và những hưứng tiếp cận mới
  15. bán trong nội địa V iệt Nam theo các ngả đường bộ và đường thủy, với thời gian không hạn chế. Trong khi đó; thương nhân Việt Nam chỉ được buôn bán với Trung Hoa ở các điểm giao dịch biên giới trên đất liền với thời gian hạn chế. Điểu này dẫn đến tình trạng là nhiều mặt hàng của V iệt Nam (như lâm, thổ sản) bị hạn chế xuất khẩu sang Trung Hoa. Quan trọng hơn, nhiều mặt hàng cao cấp của Trung Hoa vốn rất được Ưa chuộng ở V iệt Nam, cũng bị hạn chế nhập vào V iệt Nam. Trong khi nhu cẩu tiêu dùng các mặt hàng này của các tầng lớp trên trong xã hội Việt Nam là có thực. Việc giới hạn mua bán này khiến cho nhu cắu giao thương thực sự của đôi bên không được đáp ứng, và như m ột nhận xét của Yoshiharu Tsuboi, sự giới hạn này chi "m ở đường cho việc buôn \ặu” xuyên quốc gia mà thôi (Yoshihani Tsuboi 1990: 145). 3.2. Đ ể thỏa mãn nhu cẩu tiêu dùng, các triều đại V iệt Nam đã cừ sứ thán sang Trung Hoa, ngoài nhiệm vụ ngoại giao còn kiêm nhiệm hoạt động thương mại; vừa bán các đặc sản do Việt Nam sản xuất, khai thác cho người Trung Hoa; vừa mua sắm hàng hóa, vật phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng, tiêu khiển, bài tr í... của triều đình Việt Nam và đáp ứng phần nào các nhu cầu thiết yếu của xã hội. Ngoài ra, triều Nguyễn còn phái quan lại sang Trung Hoa chỉ với mục đích mua sắm hàng hóa cho triều đình. Những chuyến đi này không phải là “đi sứ” mà là “đi công vụ” theo cách ghi chép của các sử gia triều Nguyễn. Đây là những chi tiết khá độc đáo, cấn phải lưu tâm khi nghiên cứu về hoạt động kinh tế, hoạt động ngoại thương dưới triều Nguyễn. 3.3. Ngoài nhiệm vụ mua sắm vật dụng theo lệnh của triều đình, các sứ thẩn hoặc quan lại "đi công vụ” cũng tranh thủ mua bán riêng, vừa để kiếm lợi, vừa để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và gia đình của họ, mà trường hợp của Đ ặng Huy Trứ là m ột ví dụ tiêu biểu. Đây là m ột thực tế sinh động và dường như thực tế này vẫn tiếp diễn vào những thời kỳ sau. 3.4. T ác giả không có tham vọng thực hiện m ột biên khảo vê' hoạt động thương mại chính thống giữa V iệt Nam và Trung Hoa trong các thế kỷ XV I - XIX. Bài viết này chỉ phản ánh m ột khía cạnh thú vị, có tính thương m ại trong hoạt động ngoại giao, tạm gọi là h o ạt động thương m ại kiêm nhiệm , thông qua các nguồn tư liệu thành văn và thông qua những vật chứng còn lại trong các bảo tàng và SIÍU tập tư nhân. Tư liệu và hiện vật, nếu được kiểm chứng và xác thực, tự thân chúng là những minh chứng đáng tin cậy, phản ánh thực tế sinh động của lịch sử. Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I
  16. PHỤ LỤC Bảng 1: T hống kê số sứ bộ do triếu Nguyễn phái sang T ru ng Hoa M ục đích đi sứ Số sứ Cẩu Tuế Tạ Chúc Mua Mục Chưa rõ bộ phong cổng ân mừng hàng đích hóa khác Gia Long 9 1 3 1 2 1 1 Minh Mạng 14 1 4 1 1 3 4 Thiệu Trị 4 1 1 1 1 Tự Đức 20 1 7 2 5 5 Khải Định 3 3 Á* ■Hi V Tong sỗ 50 4 14 3 5 9 9 6 Bảng 2: D anh m ục các sứ bộ do triều Nguyẻn phái sang T ru ng Hoa Nám Sứ bộ Mục đích đỉ sứ G hi chú NhâmTuất Chánh sứrTrịnh Hoài Đức 18 Mang ấn vàng và sác phong mà Năm này có hai sứ (1802) Phó sứ: Ngô Nhân Tĩnh, nhà Thanh phong cho triều Tây bộ sang Trung Hoa Huỳnh Ngọc uẩn Sơn sang trả; báo tin Nguyễn Ánh chiến thắng Tây Sơn, lặp triều đại mới và giao nộp cho nhà Thanh ba tên cướp biền người Tàu là Mạc Quan Phù, Lương Văn Canh và Lương Văn Tài Chánh sứ: Lê Quang Định 19 Xin phong vương cho vua Gia Sứ bộ này vé nước Phó sứ: Lê Chính Lộ, Long và xin đổi tên nước ta vào tháng Chạp Nguyễn Gia Cát thành Nam Việt. Vua Gia Khánh năm Gia Long thứ nhà Thanh chuẩn cho tên nước hai (tháng 1/1804) ta là Việt Nam (Quốc sử Quán triều Nguyễn, T.5: 156) Giáp Tí Chánh sứ: Lê Bá Phẩm 20 Đi tạ ân việc nhà Thanh cử Té Bố (1804) Phó sứ: Sâm sang phong vương cho vua Trần Minh Nghĩa, Gia Long trước đó. (Tế Bổ Sâm đến Nguyễn Đăng Đệ Thăng Long vào cuối tháng 2/1804). Sứ bộ này cũng mang lễ vật đi cống Thanh triều, thay cho đợt tuế cống năm 1803 và năm 1805 (Vương Hổng sền 1944:57- 64; Quốc sử Quán trỉểu Nguyẻn, T.3-.159-160) 116 I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  17. Năm Sứ bộ Mục đích đi sứ Ghi chú Đ inh Mão Chánh sứ: Vủ Trinh Chưa rỏ mục đích Sứ bộ này vể nước (1 307) Phó sứ: Ngô Nhân Tĩnh năm Mậu Thìn (1808) Kỳ Tị Chánh sứ: Nguyễn Hữu Đi tuế cống theo lệ Năm này có hai sứ (1 809) Thận (Quốc sử Quán triều bộ sang Trung Hoa Nguyễn, T.4:14) Phó sứ: Ngô (Thì) Vị, Lê Đ ắc Tần Chánh sứ: Vũ Trinh (Quốc Đi mừng lẻ Ngủ tuần Đại khánh Sứ bộ Nguyễn Hữu sử Quán triều Nguyễn, của vua Gia Khánh Thận về nước năm T.4:29) Canh Ngọ (1810) Phó sứ: Nguyẻn Đình Chất Nguyễn Văn Thịnh Quý Dậu Chánh sứ: Nguyễn Du 21 Đi tuế cống theo lệ (1813) Phó sứ: Trần Văn Đại, Nguyễn Vản Phong Đ inh Sửu Chánh sứ: Hồ Công Đi tuế cống theo lệ (1817) Thuận 22 Phó sứ: Nguyễn Huy Trinh Phan Huy Thục Kỷ Mão Chánh sứ: Nguyễn Xuân Đi mừng lẻ Lục tuần Đại khánh (1819) Tinh (Nội các triều của vua Gia Khánh Nguyễn 1993,T.8:307) Phó sứ: Đinh Phiên Nguyễn Hựu Bổng Canh Thìn Chánh sứ: Ngô (Thì) Vị23 Đi báo tang vua Gia Long và xin Sứ bộ này do (1820) Phó sứ: Trần Bá Kiên phong vương cho vua Minh Nguyễn Du làm Hoàng Văn Thịnh Mạng chánh sứ nhưng chưa lên đường thì Nguyễn Du mất. Ngỏ (Thì) Vị được cử thay thế Quý Mùi Chánh sứ: Nhữ Bá Sĩ Chỉ đi đến Quảng Đông24, chưa Sứ bộ này về nước (1823) rõ mục đích năm Giáp Thân (1824) Ắt Dậu Chánh sứ: Hoàng Kim Đi tạ ân việc Thanh triếu cửTổng Năm này có hai sứ (1825) Hoán đốc Quảng Tây là Phan Cung bộ đi sứ. Cả hai sứ Phó sứ: Phan Huy Chú Thân sang phong vương cho bộ này đều lên Trẩn Chấn 25 vua Minh Mạng vào nảm 1821 đường vào tháng 10 năm Giáp Thân (1824), đều về nước vào năm Bính Tuất (1826) (Nội các triều Chánh sứ: Hoàng Văn Đi tuế cống theo lệ, kết hợp mua Nguyễn 1993, Quyền hàng hóa cho triều đình 18:307) Phó sứ: Nguyễn Trọng Vũ Nguyễn Hựu Nhân 26 Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I !L2.y
  18. Năm Sứ bộ Mục đích đi sứ Ghi chú Bính Tuất Nguyễn Đắc Soái Đi công vụ ở Quảng Đông, kết Trong nám này, (1826) Trần Vản Trung hợp mua sắm hàng hóa cho Nguyễn Đắc Soái Hồ Trí (Cục LƯU trữ Nhà triều đình được phái đi nước 1998: T.2: 356) Quảng Đỏng hai Nguyễn Đắc Soái (Cục Lưu Đi công vụ ở Quảng Đỏng. lấn. Lần đẩu cùng trữ Nhà nước 1998: T.2: với Trần Văn Trung 383) và Hổ Trí, vé đến Đà Nang vào tháng Giêng. Sau đó ông lại được phái đi Quảng Đông cùng với bổn người k h á c Tháng 9 năm này, từ Quảng Đỏng, Nguyễn Đắc Soái đã gửi biểu văn, tờ trình và thư tín để báo cáo tình hình cho triều đình Huế (Cục LƯU trữ Nhà nước 1998:T.2:384) Đinh Hợi Chánh sứ: Phan Thế Chưa rõ mục đích Sứ bộ này về nước (1827) Trung 27 năm Mậu Tí (1828) Kỷ Sửu Chánh sứ: Nguyễn Trọng Đi tuế cống theo lệ Sứ bộ này vé nước (1829) Vũ năm Canh dẩn Phó sứ: Nguyễn Đình Tân (1830) Đặng Văn Khải (Nội các triều Nguyễn .8:308) Tân Mão Chánh sứ: Hoàng Văn Đàn Đi mừng lẻ Ngũ tuần Đại khánh Năm này có hai sứ (1831) Phó sứ: Trươn g Hả o Hợp vua Đạo Quang bộ sang Trung Phan Huy Chú 28 Hoa. Sứ bộ Hoàng Chánh sứ: Lý Văn Phức Sang Phúc Kiến giao trả một Văn Đản vế nước nhóm quan quân nhà Thanh bị năm Nhâm Thìn đánh giạt vào Việt Nam vào nảm (1832) 18312* Quý T ị Chánh sứ:Trấn Vản Trung Đi tuế cống theo lệ Năm này có hai sứ (1833) Phó sứ: Phan Thanh Giản bộ sang Trung Nguyễn Huy Chiểu 30 Hoa). Sứ bộ Trán Vàn Trung về nước năm Giáp Ngọ Chánh sứ: Lý Văn Phức 31 Sang Quảng Đông, chưa rõ mục (1834) đích Ất Mùi Chánh sứ: Lý Văn Phức Chưa rõ mục đích Sứ bộ này vể nước (1835) Phó sứ: Trần Tú Dĩnh năm Bính Thân Đồ Tuấn Đại 32 (1836) 22.8 I Di sản Lịch sử và những hướng tiếp cận mới
  19. Nảm Sứ bộ Mục đích đi sứ Ghi chủ Đ nh Dậu Chánh sứ: Phạm Thế Trung Đi tuế cống theo lệ (1 837) (Nội các triếu Nguyễn 1993,18:309) Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt NguyẻnVăn Nhượng Tán Sửu Chánh sứ: Lý Văn Phức 33 Đi báo tang vua Minh Mạng và Năm này có hai sứ (1841) Phó sứ: Nguyễn Đức Hoạt xin phong cho vua Thiệu Trị bộ sang Trung Hoa Bùi Phụ Phong Chánh sứ: Hoàng Tế Mỹ Chưa rõ mục đích (Quốc sử Quán triều Nguyẻn 1969,T.22:60) Phó sứ: Nguyễn Đình Tán Ất T ị Chánh sứ: Trương Hảo Đi tạ ơn việc sứ Thanh là Bảo (1845) Hợp34 Thang sang tuyên phong cho Phó sứ: Phạm Chi Hương vua Thiệu Trị vào năm 1842 Vương Hữu Quang Bính Ngọ Ngô Kim Thanh Đi Quảng Đông mua hàng hóa Phái đoàn này gổm (1846) sáu người35 Mậu Thân Chánh sứ: Bùi (Ngọc) Đi báo tang vua Thiệu Trị và xin Sứ bộ này vẻ nước (1848) Quỹ 36 phong cho vua Tự Đức năm 1849 Phó sứ: Vương Hữu Quang NguyẻnThu Kỷ Dậu Chánh sứ: Phan Tỉnh 37 Đi tuế cống theo lệ (1849) Phó sứ: Mai Đức Thường Nguyền Văn Siêu Tân Hợi Chánh sứ: Trương Đảng Đi chúc mừng vua Thanh là Hàm Sứ bộ Trương Đăng (1851) Quế 38 Phong mới lên ngôi39 Quế về nước năm Nhâm Tí (1852) Quý Sửu Chánh sứt Phan Huy Vịnh 40 Đi tuế cống theo lệ Sứ bộ này về nước (1853) Phó sứ: Vũ Văn Tuấn nảm Ất Mão Phạm Chi Hương (1855)41 Đinh T ị Chánh sứ: Nhữ Bá Sĩ42 Đi tuế cống theo lệ (1857)’ Tân Dậu Chánh sứ: Hoàng Thiện Đi tuế cống theo lệ (1861) Trường43 Phó sứ: Văn Đức Khuê Nguyễn Huy Kỷ Ất Sửu Đặng HuỵTrứ 44 Đi Quảng Đông, Áo Môn và (1865) Hương Cảng để thăm dò tình hình các nước Âu Mỹ Di sàn Lịch sử và những hướng tiếp cận mới I 2-2_9
  20. Năm Sứ bộ Mục đích đi s ứ Ghi chú Đinh Mão Đặng HuyTrứ 45 Đi Quảng Đ ông thăm dò tình Do bị ốm nặng, nên (1867) hình các nước Âu Mỹ và mua Đặng Huy Trứ phải sắm vật dụng, vũ khí cho triểu ở lại Quảng Đông đình dưỡng bệnh, đến năm 1868 mới về nước Mậu Thìn Chánh sứ: Nguỵẻn Thuật 46 Đi tuế cống theo lệ, đổng thời Sứ bộ này về nước (1868) Phó sứ: Lê Tuấn yêu cầu nhà Thanh gửi quân vào năm 1869 Hoàng Tinh sang vùng rừng núi phía bắc Nguyễn Tư Giản Việt Nam để tiêu diệt các nhóm tàn quân Thái Bình Thiên Quốc Mậu Thìn Trần Đình Túc (Viện KHXH Đi sang Hương Cảng truy tìm (1868) vùng Nam Bộ 1979:104) tên phản loạn Lê Duy Định, Nguyền Huy Tế đồng thời tìm mua các hàng hóa để cung tiến trong dịp Lục tuần Đại khánh của hoàng thái hậu Từ D ũ Kỷ Tì Nguyẻn Đức Hậu (Trung Đưa tàu Mẫu Thỏa cùa triéu (1869) tâm nghiên cứu quốc học Nguyễn sang Hương Cảng tìm 2003:147) mua máy móc và đổng, chì cho triều đình Canh Ngọ Lê Huy Sang Hương Cảng mua một (1870) (Trung tâm nghiên cứu chiếc tàu chiến của Anh đưa về quốc học 2003:165) để triều đình sử dụng. Đây là lẩn đầu tiên triều Nguyên mua tàu chiến từ nước ngoài. Nguyên Tăng Doãn Sử dụng chiếc thuyền mới mua (Trung tâm nghiên cứu của người Anh đi sang Hương quốc học 2003:166-167) Cảng để dò xét tình hình ngoại giao giữa Anh - Nhặt - Xiêm, tình hình Nhật khi tiếp xúc với các nước Âu - Mỹ, hỏi ý kiến Anh về sự tình giữa Việt Nam và Pháp; truy tìm tung tích Lê Duy Phụng, Lê Duy Đính, thuộc dòng dõi nhà Lê; thuê người Tàu hoặc người Âu về dạy cách sử dụng và sửa chữa máy m óc trên chiếc tàu mới mua Canh Ngọ Chánh sứ': Trần Bích San 47 Đi điều tra tình hình chính trị của Sứ bộ này vẻ nước (1870) Phó sứ: Phạm Hy Lượng Trung Hoa và đối sách của họ vào năm Tân Mui trước sư xâm ỉươc cùa phương (1871) Tây 2.30 I Di sản Lịch sừvà những hướng tiếp cận mới
nguon tai.lieu . vn