Xem mẫu

  1. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI NHỮNG ĐIỂM CẦN LƢU Ý KHI DẠY PHÁT ÂM TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI HÀN Trần Nguyễn Mỷ Hoàn Trƣờng Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. Hồ Chí Minh Tóm tắt Hiện nay, số lƣợng ngƣời Hàn đến sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam ngày một tăng cao. Đặc biệt, tiếng Việt cũng đã trở thành ngoại ngữ thứ hai đƣợc giảng dạy tại các trƣờng học ở Hàn Quốc. Dựa trên xu thế đó, việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ học và tiếng Việt vào trong việc giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn là rất cần thiết. Trong bài viết này, tác giả tập trung chủ yếu vào những vấn đề: phân tích thực tiễn giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn hiện nay; nêu lên một số hạn chế của giáo viên dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn ảnh hƣởng trực tiếp tới ngƣời học; phân tích một vài sự tƣơng đồng và khác biệt của hai ngôn ngữ Việt-Hàn; nêu ra một số trở ngại về mặt phát âm của ngƣời Hàn khi học tiếng Việt; từ đó đề xuất một số phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt hiệu quả cho ngƣời Hàn. Từ khóa dạy tiếng Việt, dạy phát âm tiếng Việt, ngoại ngữ thứ hai, ngƣời Hàn, học tiếng Việt. 1. Mở đầu Hàn Quốc đƣợc biết đến là một trong những quốc gia có các dự án đầu tƣ nhiều nhất tại Việt Nam hiện nay với một tầm nhìn dài hạn. Vì vậy, số lƣợng ngƣời Hàn đến sinh sống, học tập và làm việc tại Việt Nam cũng ngày một tăng cao. Đặc biệt, số lƣợng ngƣời Hàn kết hôn với ngƣời Việt cũng ngày càng nhiều làm xuất hiện một loại hình gia đình mới gọi là gia đình đa văn hóa (다문화 가정) mà ở đó, những đứa trẻ đƣợc sinh ra phải học cả tiếng Hàn lẫn tiếng Việt. Hiện tại, tiếng Việt đã trở thành ngoại ngữ thứ hai đƣợc giảng dạy tại các trƣờng học ở Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc, tiếng Việt đƣợc giảng dạy ở Khoa Tiếng Việt trƣờng Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc từ năm 1967. Hiện nay, trƣờng Đại học Ngoại ngữ Pusan và một số trƣờng đại học khác cũng dạy tiếng Việt. Dựa trên xu thế đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng nhu cầu học tiếng Việt đang tăng lên rất nhanh và vấn đề dạy – học tiếng Việt dành cho ngƣời Hàn cũng đang rất đƣợc quan tâm. Vì thế, việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu ngôn ngữ học và tiếng Việt vào trong dạy học tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung và cho ngƣời Hàn nói riêng là rất cần thiết. Trong quá trình học một ngoại ngữ mới, bên cạnh chính tả, ngữ pháp thì vấn đề về phát âm luôn đƣợc ngƣời học quan tâm hàng đầu. Phát âm đúng là điều kiện cần để ngƣời học có thể đọc, nghe và nói đúng. Tuy nhiên, hiện nay, ở các trƣờng đại học, chƣơng trình đào tạo cử nhân của ngành Việt Nam học dành cho sinh viên ngƣời nƣớc ngoài nói chung và cho ngƣời Hàn nói riêng đều hƣớng đến mục tiêu đào tạo các cử nhân có hiểu biết phong phú, có kiến thức đa dạng về các lĩnh vực văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử, kinh tế, xã hội, chính trị, v.v của Việt Nam chứ không chỉ tập trung hoàn toàn vào việc dạy tiếng. Vì thế, vấn đề phát âm chƣa thực sự đƣợc quan tâm nhiều trong quá trình giảng dạy tiếng Việt. Sinh viên ngành Việt Nam học cho dù đƣợc tiếp xúc với môn Ngữ âm học đi chăng nữa thì trên thực tế, họ vẫn gặp rất nhiều 450
  2. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI khó khăn trong việc học và ghi nhớ các nguyên tắc phát âm đó. Các vấn đề về phát âm và tiếp xúc với phƣơng ngữ học tiếng Việt (chủ yếu là về mặt ngữ âm) có lẽ là trở ngại lớn nhất của ngƣời Hàn khi học tiếng Việt. Trong các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết thì kỹ năng đọc là tiền đề, là cơ sở để giúp cho ngƣời học nắm bắt đƣợc cách phát âm hiệu quả nhất. Trong những năm học vừa qua, ngành Việt Nam học thuộc khoa Đông Phƣơng, trƣờng Đại học Ngoại ngữ - Tin học TP. HCM cũng đã định hƣớng đẩy mạnh việc dạy phát âm trong các giờ học để giúp ngƣời học cải thiện đƣợc tình trạng phát âm của mình. Đây là việc làm cần thiết vì chỉ khi phát âm đúng thì ngƣời học mới có thể nghe ra đƣợc những âm mà ngƣời Việt nói, giúp cho kỹ năng nghe, nói của ngƣời học trở nên tốt hơn, đồng thời khi giao tiếp cũng sẽ tự nhiên hơn. Nhƣng vấn đề đƣợc đặt ra là tiếng Việt không có chính âm mà chỉ có chính tả, cùng với một hệ thống phƣơng ngữ đa dạng, đặc sắc nhƣ vậy thì phải dạy và học tiếng Việt nhƣ thế nào để ngƣời Hàn có thể dễ dàng tiếp cận hơn với tiếng Việt? Đây là mối trăn trở rất lớn của những ngƣời tham gia giảng dạy và định hƣớng các phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt, đặc biệt là dạy phát âm tiếng Việt cho ngƣời Hàn nói riêng và cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung. Bài nghiên cứu này đƣợc thực hiện nhằm giúp cho giáo viên ngƣời Việt Nam hiểu rõ hơn về những đặc điểm giống và khác nhau về mặt ngữ âm của hai ngôn ngữ, từ đó đƣa ra những phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt hiệu quả dành cho ngƣời Hàn, giúp giáo viên Việt Nam chủ động lựa chọn phƣơng pháp giảng dạy phù hợp. Đồng thời, bài nghiên cứu này cũng mong muốn có thể giúp cho các học viên ngƣời Hàn Quốc hạn chế bớt những khó khăn khi học phát âm tiếng Việt. Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phƣơng pháp miêu tả và phƣơng pháp phân tích lỗi của ngôn ngữ học ứng dụng (trên cơ sở lý thuyết đã tìm hiểu, tiến hành miêu tả các lỗi phát âm và phân tích chúng, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất phƣơng pháp khắc phục lỗi). Trong giới hạn của bài viết, tác giả tập trung vào những nội dung nghiên cứu chính sau đây: phân tích thực tiễn tình hình dạy và học tiếng Việt cho ngƣời Hàn hiện nay; nêu lên một số khó khăn của ngƣời Hàn khi học tiếng Việt (chủ yếu là trở ngại về mặt phát âm); một số hạn chế của giáo viên dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn ảnh hƣởng trực tiếp tới ngƣời học; phân tích một vài sự tƣơng đồng và khác biệt của hai ngôn ngữ Việt-Hàn; các vấn đề liên quan đến phƣơng ngữ tiếng Việt trong quá trình dạy tiếng; đề xuất một số phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt hiệu quả cho ngƣời Hàn. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Tình hình dạy - học tiếng Việt hiện nay 2.1.1. Khó khăn của người Hàn khi học tiếng Việt Theo phân loại của ngôn ngữ học loại hình, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập (isolating language), khác biệt rất nhiều so với tiếng Hàn là ngôn ngữ chắp dính (agglutinative language). Hơn nữa, tiếng Việt lại có thêm thanh điệu, trật tự câu (SVO) cũng trái ngƣợc với tiếng Hàn (SOV); hệ thống nguyên âm, phụ âm và cách phát âm cũng có nhiều sự khác biệt; 451
  3. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI cùng với sự ảnh hƣởng trực tiếp của phƣơng ngữ tiếng Việt trong quá trình giao tiếp đã khiến không ít ngƣời Hàn bỏ cuộc khi học tiếng Việt. Với môi trƣờng học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh, ngƣời Hàn có điều kiện đƣợc tiếp xúc rất nhiều với những ngƣời đến từ khắp nơi trên mọi miền đất nƣớc. Chính vì thế, sự giao lƣu, tiếp xúc giữa các phƣơng ngữ cũng ngày càng nhiều và rõ rệt hơn. Có khi trong lớp học, ngƣời Hàn học với giáo viên ngƣời miền Nam nhƣng khi ra ngoài xã hội hoặc bƣớc vào một môi trƣờng giao tiếp khác thì lại đƣợc tiếp xúc với ngƣời miền Bắc, miền Trung. Căn cứ vào kinh nghiệm giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn của bản thân, tác giả nhận thấy có 3 vấn đề lớn đƣợc đặt ra khi ngƣời Hàn học tiếng Việt. Một là, chữ viết của tiếng Việt là chữ ghi âm vị, nói thế nào thì viết nhƣ thế ấy. Nhƣng trên thực tế, do sự ảnh hƣởng của phƣơng ngữ mà có khi viết đúng nhƣng lại phát âm sai và ngƣợc lại. Hai là, tiếng Việt không có chính âm mà chỉ có chính tả, ngƣời Hàn buộc phải nắm bắt đƣợc đặc trƣng này để học phát âm với tâm lý thoải mái, không quá nguyên tắc, quy củ. Ba là, phát âm tiếng Việt rất khó vì có hệ thống thanh điệu phức tạp (bao gồm 6 thanh điệu: thanh không hoặc không dấu, thanh huyền hoặc dấu huyền, thanh sắc hoặc dấu sắc, thanh hỏi hoặc dấu hỏi, thanh ngã hoặc dấu ngã, thanh nặng hoặc dấu nặng). Vì thanh điệu có chức năng phân biệt vỏ âm thanh, phân biệt nghĩa của từ nên khi phát âm tiếng Việt đòi hỏi phải phát âm đúng thanh điệu vì nếu phát âm sai có thể sẽ làm thay đổi nội dung biểu đạt. Bốn là, hệ thống các phƣơng ngữ trong tiếng Việt khá phức tạp. Đặc biệt là các biến thể ngữ âm trong các phƣơng ngữ gây khó khăn cho ngƣời Hàn khi giao tiếp, nghe – hiểu – phản hồi. Chính những vấn đề đó đã khiến cho ngƣời Hàn gặp nhiều trở ngại khi học tiếng Việt. Họ đánh giá tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ khó học nhất. 2.1.2. Những hạn chế của giáo viên dạy tiếng Việt cho người Hàn ảnh hưởng trực tiếp tới người học Có 5 vấn đề lớn cần đƣợc quan tâm sau đây. Một là, những ngƣời dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn ở Việt Nam hầu nhƣ chƣa đƣợc đào tạo về lí luận mà chỉ dạy theo kinh nghiệm hoặc mô phỏng cách dạy tiếng nƣớc ngoài cho ngƣời Việt mà thôi36. Chính vì lẽ đó, việc lựa chọn phƣơng pháp giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ vẫn chƣa thực sự phù hợp và hiệu quả. Hai là, khi nói đến các phƣơng pháp giảng dạy ngoại ngữ, chúng ta có thể liệt kê đƣợc những phƣơng pháp rất phổ biến hiện đang đƣợc nhiều ngƣời dạy tiếng Việt lựa chọn áp dụng nhƣ: phƣơng pháp ngữ pháp/văn phạm – phiên dịch (The Grammar-Translation Method); phƣơng pháp trực tiếp (The Direct Method); phƣơng pháp nghe – nói (Audiolingual Method); phƣơng pháp giao tiếp (Community Language Learning / Communicative Approach)37, v.v. Tuy nhiên, khi giảng dạy tiếng Việt, ngƣời dạy lại không sử dụng linh hoạt hoặc kết hợp chƣa hợp lý các phƣơng pháp này mà thƣờng chỉ tập trung vào việc đọc – viết hoặc văn phạm – 36 Nguyễn Thiện Giáp. (2017). Lược sử Việt ngữ học. Nxb. Tri thức. 37 Bùi Hiền. (1997). Phương pháp hiện đại dạy – học ngoại ngữ. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 452
  4. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI phiên dịch dẫn đến ngƣời học bị kém về kỹ năng giao tiếp nghe – nói. Từ đó, việc luyện phát âm cho ngƣời Hàn khi học tiếng Việt cũng không đƣợc chú trọng. Ba là, ngƣời dạy vẫn còn ít đề cập và lồng ghép các yếu tố văn hóa vào việc dạy tiếng. Điều này khiến ngƣời học cảm thấy khó hiểu và khó cảm nhận khi tiếp xúc với những biểu hiện ngôn ngữ đặc trƣng chỉ có trong tiếng Việt. Việc đƣa các yếu tố văn hóa vào việc dạy tiếng không những sẽ giúp cho việc học không bị khô khan, cứng nhắc mà còn giúp ngƣời học có điều kiện hiểu sâu hơn về ngôn ngữ mà mình đang học, chứ không đơn thuần chỉ lả hiểu nó trên phƣơng diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng. Bốn là, chƣa hệ thống và phân loại đƣợc các cấp độ ngữ pháp phù hợp khi dạy tiếng. Hiện nay, vẫn còn rất ít giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn đƣợc trình bày một cách khoa học, hiệu quả. Các điểm ngữ pháp vẫn còn trình bày khá mơ hồ, diễn giải dài dòng, chung chung mà chƣa đƣợc hệ thống thành công thức cụ thể. Năm là, các bài tập phát âm còn quá ít và ngƣời dạy cũng chƣa thực sự tập trung vào vấn đề này. Sự ảnh hƣởng của phƣơng ngữ đến việc dạy – học tiếng Việt là vấn đề cần đƣợc quan tâm hơn cả bên cạnh những vấn đề về việc dạy ngữ pháp. Bởi nếu chỉ tập trung dạy ngữ pháp, từ vựng mà không dạy về ngữ âm hay các phƣơng ngữ Việt thì khi giao tiếp thực tế, ngƣời Hàn sẽ gặp nhiều khó khăn và lúng túng. 2.2. Phƣơng ngữ và các vấn đề liên quan đến phƣơng ngữ tiếng Việt trong quá trình dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn 2.2.1. Định ngữ phương ngữ Phƣơng ngữ (PN) đƣợc hiểu là ―một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác‖38. Bên cạnh thuật ngữ này còn có những thuật ngữ khác nhấn mạnh khía cạnh ngữ âm hoặc giọng nói địa phƣơng nhƣ ―giọng địa phƣơng‖ hay ―thổ âm‖. Tùy từng quan điểm của mỗi tác giả mà có nhiều ý kiến khi phân vùng phƣơng ngữ tiếng Việt nhƣ sau: - Theo Cadiere39, phƣơng ngữ tiếng Việt có 2 vùng: vùng cao và vùng đồng bằng. - Theo Hoàng Thị Châu40, phƣơng ngữ tiếng Việt có 3 vùng: ✔ PN Bắc (Bắc Bộ  Thanh Hóa) ✔ PN Trung (Bắc Trung Bộ) ✔ PN Nam (Nam Trung Bộ + Nam Bộ) - Theo Nguyễn Văn Ái41 thì phƣơng ngữ tiếng Việt có 4 vùng: 38 Hoàng Thị Châu. (2009). Phương ngữ tiếng Việt. Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội. 39 Cadiere. (1911). L. Le dialecte du Bas – Annam, Bulletin de l‘Ecole Francaise‘ d‘Extreme – orient. T11. Paris. 40 Hoàng Thị Châu. (2009). Phương ngữ tiếng Việt. Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội. 453
  5. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI ✔ PN Bắc Bộ ✔ PN Bắc Trung Bộ ✔ PN Nam Trung Bộ ✔ PN Nam Bộ Phƣơng ngữ học là một bộ môn của ngôn ngữ học, nghiên cứu mọi mặt về các phƣơng diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của một phƣơng ngữ cụ thể giống nhƣ nghiên cứu về một ngôn ngữ nhƣ tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Hàn…v.v chứ không nghiên cứu một phƣơng diện nào đó riêng lẻ. Đối với ngƣời Hàn, thuật ngữ 사투리 hay 방언 đều đƣợc hiểu là phƣơng ngữ và cũng có định nghĩa giống với định nghĩa phƣơng ngữ trong tiếng Việt. Tuy nhiên, khi sử dụng 2 thuật ngữ nêu trên, ngƣời Hàn cho rằng sẽ dễ gây ra cảm giác kỳ thị đối với đối phƣơng nên hiện nay họ cũng hạn chế sử dụng 2 thuật ngữ đó mà thay thế bằng thuật ngữ 지역언어 (ngôn ngữ địa phƣơng/ ngôn ngữ vùng miền). 2.2.2. Các vấn đề liên quan đến phương ngữ tiếng Việt trong quá trình dạy tiếng Phƣơng ngữ của tiếng Việt là vấn đề cần đƣợc chú ý khi giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời Hàn. Ngƣời Hàn thƣờng bối rối khi gặp phải những từ vựng tuy cùng một nghĩa nhƣng mỗi địa phƣơng lại sử dụng các từ vựng khác nhau. Trong trƣờng hợp này ngƣời dạy cần giúp cho ngƣời học nhận thức đƣợc sự khác nhau của phƣơng ngữ. Đa số các quốc gia trên thế giới thƣờng chọn tiếng nói của thủ đô làm ngôn ngữ chuẩn (nhƣ ở Hàn Quốc, tiếng Seoul là ngôn ngữ chuẩn). Vì thế, có nhiều ngƣời Hàn khi học tiếng Việt ở Việt Nam nghĩ rằng tiếng Hà Nội là tiếng chuẩn. Tuy nhiên, thực tế là tiếng Hà Nội chỉ đƣợc coi là cơ sở của tiếng Việt chuẩn chứ không hoàn toàn là tiếng chuẩn. Trong khi đó, tiếng Sài Gòn tuy là một phƣơng ngữ nhƣng lại đƣợc xem là ngôn ngữ chuẩn của phƣơng ngữ Nam Bộ chứ không chỉ đơn thuần là một thứ tiếng địa phƣơng. Vì thế, trong trƣờng hợp này, ngƣời dạy cần giúp cho ngƣời học hiểu đƣợc đặc trƣng đó để giúp quá trình dạy tiếng, dạy phát âm…đƣợc hiệu quả hơn, giúp ngƣời Hàn có cái nhìn mới mẻ và sinh động hơn khi học tiếng Việt. Một phƣơng pháp có thể giúp ngƣời Hàn bƣớc đầu làm quen với phƣơng ngữ, sau đó là phân biệt đƣợc và sử dụng phƣơng ngữ một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp đó là: ngƣời dạy nên cung cấp cho ngƣời học một bảng so sánh phương ngữ. Dựa vào bảng này, ngƣời dạy cần giải thích nghĩa và hƣớng dẫn cho ngƣời học vận dụng vào các tình huống giao tiếp cụ thể. Bảng này có thể do chính ngƣời dạy biên soạn hoặc tham khảo ở các nguồn tài liệu khác. Tuy nhiên, các từ vựng trong bảng so sánh phƣơng ngữ này cần đƣợc chọn lọc một cách cẩn thận, phù hợp với trình độ của ngƣời học (tiếng Việt sơ cấp, trung cấp, cao cấp) để không gây quá tải và khó áp dụng đối với ngƣời học. 3. Đề xuất một số phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt hiệu quả cho ngƣời Hàn 41 Nguyễn Văn Ái (chủ biên). (1994). Từ điển phương ngữ Nam Bộ. Nxb. TP. Hồ Chí Minh. 454
  6. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Dựa trên tình hình thực tế khi giảng dạy tiếng Việt cho sinh viên ngƣời Hàn, tác giả nhận thấy ngƣời Hàn có khả năng nắm vững đƣợc các kiến thức về từ vựng, ngữ pháp nhƣng về mặt ngữ âm, đa số các bạn đều mắc phải một hoặc nhiều hơn các lỗi sau đây: - Không nắm rõ hệ thống phiên âm quốc tế IPA dẫn đến phát âm sai một số phụ âm trong tiếng Việt. - Đọc sai/không rõ thanh điệu. - Xem nhẹ đối lập tròn môi/ không tròn môi khi phát âm. - Không chú ý quan sát khẩu hình của ngƣời hƣớng dẫn phát âm. - Thƣờng xuyên phát âm bật hơi những phụ âm nhƣ: kh, ph, th, ch. - Không phát âm đƣợc các phụ âm: tr, ng, ngh, qu. - Ghi chép đầy đủ những nguyên tắc phát âm nhƣng ngại áp dụng khi đọc văn bản hoặc giao tiếp. Trƣớc tình hình đó, tác giả xin đƣa ra một số phƣơng pháp dạy phát âm cơ bản nhằm giúp ngƣời Hàn học tiếng Việt cải thiện đƣợc tình trạng phát âm chƣa tự nhiên của mình. Đầu tiên, ngƣời dạy cần giúp ngƣời học hiểu đƣợc bản chất của phụ âm trong tiếng Hàn và tiếng Việt thông qua việc nắm vững hệ thống IPA – Ký hiệu phiên âm quốc tế. Hầu hết các học viên ngƣời Hàn học tiếng Việt hiện nay đều không biết đến hệ thống IPA. Chỉ một số nhỏ học viên từng học chuyên ngành tiếng Anh mới có kiến thức về hệ thống phiên âm này. Vì thế, khi nhìn vào bảng chữ cái tiếng Hàn (có phiên âm quốc tế) và bảng chữ cái tiếng Việt, đa số họ không phân biệt đƣợc các âm với nhau, không biết đọc các âm này nhƣ thế nào. Nhƣ vậy, vấn đề đặt ra là học viên cần biết đến hệ thống IPA để có cơ sở so sánh, đối chiếu các âm của tiếng Việt với tiếng Anh và tiếng Hàn. Chỉ khi so sánh các âm với nhau mới có thể hiểu đƣợc bản chất của từng âm trong từng thứ tiếng. Trong hệ thống phụ âm của tiếng Hàn, các âm bật hơi khá quan trọng và dễ phân biệt nhất với hai âm còn lại là âm thƣờng và âm căng. Thực tế trong quá trình giao tiếp, âm thƣờng và âm căng thƣờng rất khó phân biệt. Ranh giới giữa 2 âm này chủ yếu là do cƣờng độ quyết định. Phần lớn ngƣời Hàn đều quen với việc phát âm âm bật hơi nên khi phát âm các phụ âm tiếng Việt nhƣ kh, ph, th, ch thì đều phát âm sai. Đều này không có gì là khó hiểu bởi hầu hết âm bật hơi của tiếng Hàn là hơi bật ra ngoài, trong khi đó tiếng Việt thì ngƣợc lại, đó là hơi nuốt vào trong. Bảng 1: Hệ thống phụ âm của tiếng Hàn (có phiên âm) 글자 ㄱ ㄴ ㄷ ㄹ ㅁ ㅂ ㅅ ㅇ ㅈ ㅎ (letter) 음가 [k] [n] [t] [l] [m] [p] [s] [ŋ] [c] [h] (sound value) 455
  7. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 글자 ㅋ ㅌ ㅍ ㅊ (letter) 음가 [kʰ] [tʰ] [pʰ] [cʰ] (sound value) 글자 ㄲ ㄸ ㅃ ㅆ ㅉ (letter) 음가 [k‟] [t‟] [p‟] [s‟] [c‟] (sound value) (Trong bảng hệ thống phụ âm tiếng Hàn thì hàng đầu là âm thường, hàng thứ hai là âm bật hơi và hàng cuối cùng là âm căng) Bảng 2: Hệ thống phiên âm quốc tế IPA Nếu nhƣ ngƣời học chỉ biết đến bảng 1 mà không biết bảng 2 thì sẽ gặp khó khăn trong việc định hình phụ âm đó trong tiếng Việt đƣợc phát âm nhƣ thế nào. Tuy nhiên, dù cho phụ âm trong tiếng Việt đã đƣợc phiên âm theo âm quốc tế IPA nhƣng thực ra nó chỉ mang tính tƣơng đối (do sự ảnh hƣởng của phƣơng ngữ). Có 4 phụ âm mà ngƣời dạy cần phân tích rõ hơn về bản chất của nó cho ngƣời học hiểu, đó là: ㄱ [k], ㄹ [l], ㅂ [p], ㅅ [s]. Nếu chỉ dựa theo bảng phụ âm (Bảng 1) ở trên thì ngƣời học sẽ không phát âm đúng đƣợc 5 âm này: - Âm ㄱ đƣợc phiên âm là [k] nhƣng ngoài âm này thì nó còn đƣợc biểu hiện dƣới âm [g] (ví dụ: 고기 (thịt) → [gogi]). Trong ngữ âm học, âm [g] là âm tắt - occlusive consonant. Khi phát âm, lƣỡi con nâng lên bịt đƣờng lên mũi, luồng hơi bị cản trở hoàn toàn bởi những cơ quan ở miệng. Muốn thoát ra, phải phá vỡ sự cản trở, tạo nên tiếng nổ : [p, t, b, d, k, g …]. Về âm này thì tiếng Hàn khá giống với tiếng Anh nhƣng lại khác với [g] của tiếng Việt vì trong tiếng Việt nó là [ɤ] âm xát - fricative consonant (ví dụ: gà, gối). 456
  8. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI - Âm ㄹ trong tiếng Hàn đƣợc phiên âm là [l]. Nếu nhìn vào bảng 2, ta sẽ thấy cách phát âm là giống với tiếng Anh. Khi phát âm là [l] thì nó chính là âm vỗ đầu lưỡi - flap consonant (ví dụ: 라면 (mì), letter,...). Nhƣng thực tế là ngƣời Hàn vẫn có thể phát âm âm ㄹ này theo một âm khác đó là âm [r]. Đây chính là âm rung - trill consonant mà chính xác hơn đó là rung đầu lƣỡi – răng. Một điều đáng nói ở đây là âm ㄹ sẽ rất khó phát âm khi nó trở thành patchim (받침 – phần phụ âm cuối nằm dƣới cùng trong các thành phần cấu tạo nên chữ Hàn). Khi nó là patchim thì yêu cầu khi phát âm đó là phải để đầu lƣỡi cong, chạm vào hàm trên và giữ nguyên vị trí từ 1-2 giây rồi mới hạ xuống. Vì tiếng Việt không có phụ âm cuối nào giống nhƣ vậy nên ngƣời học sẽ gặp đôi chút khó khăn khi phát âm âm này khi nó trở thành phụ âm đầu. Không chỉ vậy, khi nhắc đến âm r, do đặc trƣng phƣơng ngữ nên những ngƣời ở vùng cực nam Nam Bộ thƣờng phát âm là g: [gổ:gá] chứ không phải là [rổ:rá]. Vì vậy, nếu ngƣời Hàn không quen nghe giọng địa phƣơng Nam Bộ thì sẽ không thể hiểu đƣợc. - Âm ㅂ đƣợc phiên âm là [p]. Đối chiếu trong bảng 2 ta sẽ thấy [p] là một âm tắt, âm vô thanh. Nhƣng thực tế âm ㅂ trong tiếng Hàn lại không phải là âm tắt nhƣ vậy. Âm ㅂ này là âm thƣờng. Khi phát âm chỉ ra đƣợc âm [b] (âm hữu thanh) trong tiếng Anh và tƣơng đƣơng với âm [b] trong tiếng Việt cũng nhƣ vậy (ví dụ: 방 (phòng) → [bang] khác với 빵 (bánh mì) → [pang]). Khi phát âm âm này, hai môi không mím lại rồi bật ra nhƣ khi phát âm [p] mà chỉ thực hiện các động tác là mở khẩu hình, hàm dƣới tách ra, hạ xuống và hơi cứ thế thoát ra ngoài. Vì thế, chỉ khi phát âm âm ㅃ (âm căng) thì mới phát âm theo [p] (ví dụ: 오빠 (cách gọi anh của nữ) → [oppa]). - Âm ㅅ đƣợc phiên âm là [s]. Phần lớn các bạn sinh viên ngƣời Hàn, đặc biệt là những bạn học chuyên Anh rất dễ hiểu lầm và phát âm sai âm này. Các bạn thƣờng phát âm âm ㅅ ra thành các âm [ʃ], [tʃ] trong tiếng Anh. Đây là cách phát âm sai. Các âm [ʃ], [tʃ] trong tiếng Anh đƣợc hiểu là âm tắc xát - affricative consonant. Trong khi đó âm ㅅ trong tiếng Hàn lại là âm xát - fricative consonant. Tức là khi phát âm, luồng hơi không bị cản trở hoàn toàn mà bộ phận, không khí thoát ra qua một khe nhỏ do các cơ quan phát âm tạo thành. Âm ㅅ thực chất chỉ đƣợc phát âm thành nhƣ ‗x‘ trong tiếng Việt. Cách phát âm các âm [ʃ], [tʃ] là đầu lƣỡi hơi cong lên đồng thời cho hơi thoát ra nơi giao nhau giữa hai hàm răng. Còn cách phát âm âm ㅅ trong tiếng Hàn là đầu lƣỡi thẳng chạm hờ vào chỗ giao nhau của hai hàm răng, thân lƣỡi hơi nâng cao lên hàm trên, vị trí hơi thoát qua kẽ răng cửa. Trong tiếng Việt tồn tại cả hai âm s, x nên ngƣời Hàn phải nắm đƣợc quy tắc phát âm của hai âm này. Ngoài ra, âm ㅇ(ng) trong tiếng Hàn chỉ có giá trị âm tiết khi làm patchim, nếu đóng vai trò là phụ âm đầu thì âm này là âm câm. Vì thế khi phát âm âm ng là phụ âm đầu trong tiếng Việt, ngƣời Hàn thƣờng không thể hoặc rất khó để phát âm đƣợc. 457
  9. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI Một phụ âm khác cũng gây khó khăn cho ngƣời Hàn khi phát âm đó là âm tr. Do đặc trƣng phƣơng ngữ Bắc Bộ phát âm âm tr thành gi (ví dụ: ―trời‖ thành ―giời‖) nên ngƣời Hàn thƣờng không nghe đƣợc rõ phụ âm này mặc dù có thể phán đoán đƣợc nghĩa của từ. Đối với các phụ âm khác nhƣ kh, th, ph ch thì học viên ngƣời Hàn thƣờng xuyên có thói quen phát âm bật hơi dẫn đến việc ngữ điệu không đƣợc tự nhiên và sai với cách phát âm của ngƣời Việt. Ngƣời Hàn thƣờng nhầm lẫn các phụ âm ㅋ, ㅌ, ㅍ, ㅊ trong tiếng Hàn chính là các phụ âm „kh‟, „th‟, „ph‟, „ch‟ trong tiếng Việt nên mới dẫn đến việc phát âm sai. Âm bật hơi trong tiếng Hàn là hơi đƣợc bật mạnh ra ngoài, còn các phụ âm nêu trên trong tiếng Việt âm đƣợc giữ vào trong, luồng hơi bật ra yếu hơn. Mặc khác khi kết hợp với nguyên âm, ngƣời học thƣờng xem nhẹ đối lập tròn môi/ không tròn môi khi phát âm. Ví dụ: xét 3 âm tiết ‘tô’ [또], ‘thô’ [토], ‘ta’ [따]: - Ngƣời Việt thấy cách mở đầu của hai âm tiết ‗tô‘ – ‗thô‘ khác nhau, vì một âm không bật hơi, một âm bật hơi, ghi bằng hai con chữ (phụ âm) khác nhau [t] ≠ [th], trong khi đó ngƣời Hàn có thể thấy hai âm này rất giống nhau: đều tròn môi, còn bật hơi hay không rất khó nhận ra vì âm bật hơi trong tiếng Việt yếu hơn trong tiếng Hàn. - Ngƣợc lại, ngƣời Việt thấy cách mở đầu hai âm tiết ‗tô‘ – ‗ta‘ rất giống nhau: đều là âm không bật hơi: [t]. Nhƣng trong khi đó ngƣời Hàn lại thấy hai âm này rất khác nhau: t trong ‗tô‘ tròn môi [t˚], còn t trong ‗ta‘ không tròn môi [t]. Nhƣ vậy, khi đã hiểu rõ đƣợc bản chất của các phụ âm trong tiếng Việt, ngƣời học sẽ dễ dàng phân biệt đƣợc các âm này và phát âm chính xác hơn. Ngoài phƣơng pháp trên, ngƣời dạy cần yêu cầu ngƣời học thực hiện thao tác tra cứu phiên âm và cách đọc khi gặp từ mới (lưu ý các vấn đề về phát âm rõ từng từ, đúng thanh điệu, không tự ý áp đặt một cách chủ quan các nguyên tắc luyến âm hay biến âm trong tiếng Hàn vào cách đọc từ trong tiếng Việt). Sau khi đã biết cách đọc IPA rồi thì việc đầu tiên và quan trọng nhất, đó chính là rèn luyện thói quen luôn tra từ điển khi có từ chƣa biết rõ cách đọc. Đây là thói quen cần đƣợc duy trì nhằm tránh tình trạng đọc bừa, phát âm theo phán đoán chủ quan. Khác với ngƣời Việt, ngƣời Hàn khi phát âm khá giống với ngƣời Anh ở chỗ đều có hiện tƣợng luyến âm. Hiện tượng luyến âm (연음화) đa số đều xảy ra khi âm tiết đứng trƣớc có patchim (받침) liền theo sau là âm tiết tiếp theo bắt đầu bởi phụ âm câm (이응). Ví dụ: 한국어 [한구거], 음악을 [으마글], 이름이 [이르미] Ngoài ra, vì tiếng Hàn có một thành phần là patchim nên khi phát âm những từ có 2 âm tiết trở lên, âm tiết đứng trƣớc có patchim, nối theo sau là âm tiết tiếp theo bắt đầu bằng một phụ âm thì sẽ rất khó phát âm vì lƣỡi sẽ hoạt động liên tục, di chuyển từ vị trí này qua vị trí khác để đọc liên tiếp nên sẽ rất khó phát âm. Chính vì vậy, một số nguyên tắc biến âm như: trọng âm hóa (경음화), đồng hóa phụ âm (자음 동화), nhũ âm hóa (유음화), vòm âm hóa (구개 음화), giản lượt ―ㅎ‖ (‘ㅎ’ 탈락), âm bật hơi hóa (격음화),v.v đƣợc ngƣời Hàn sử 458
  10. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI dụng thƣờng xuyên, sau đó vận dụng một cách chủ quan vào quá trình học phát âm tiếng Việt đã làm cản trở việc học phát âm tiếng Việt của chính họ. Tiếng Việt khi phát âm sẽ không có hiện tƣợng luyến âm hay biến âm. Bởi đặc trƣng tiếng Việt là có thanh điệu nên nếu xảy ra hiện tƣợng luyến âm, biến âm sẽ làm cho âm phát ra bị nhiễu. Khi phát âm tiếng Việt, ngƣời Hàn cần tập đọc rõ từng từ và tuân thủ đúng các nguyên tắc về thanh điệu. Tuy nhiên, cũng do đặc trƣng phƣơng ngữ ở các vùng mà hai thanh điệu ngã, hỏi thƣờng bị nhầm lẫn, phát âm không rõ. Ngay chính ngƣời Việt vẫn phát âm chƣa chuẩn hai thanh điệu này nên khi luyện tập phát âm thanh điệu, ngƣời Hàn không cần quá chú trọng việc phân biệt rành mạch hai thanh điệu này mà chỉ cần đảm bảo tính chính xác về mặt chính tả. Tiếp theo, ngƣời dạy cần chủ động luyện ngữ điệu cho ngƣời học khi đọc thành câu sau khi đã luyện đọc từng từ. Tiếng Việt đƣơng nhiên không chỉ có từ vựng. Chúng ta có thể đọc thông thạo tất cả các từ, nhƣng khi ghép vào câu, nếu nhƣ các từ đều đƣợc đọc với cƣờng độ và cao độ nhƣ nhau thì ngƣời đối diện sẽ vẫn không nắm bắt đƣợc thông điệp bạn muốn truyền tải, đặc biệt khi bạn thuyết trình. Vì vậy, cần phải luyện ngữ điệu cho ngƣời Hàn khi họ đọc thành câu. Từ nào cần phải nhấn mạnh, từ nào có thể đọc nhẹ đi. Ngữ điệu là đặc trƣng của ngƣời bản xứ. Chính vì thế, chúng ta cần nghe, lặp lại và bắt chƣớc phát âm, giọng điệu giống nhƣ họ. Sau khi đã nhuần nhuyễn thì tự điều chỉnh ngữ điệu cho phù hợp với giọng của mình. Càng luyện tập nhiều, cách phát âm tiếng Việt của ngƣời Hàn sẽ càng nhuần nhuyễn và khi đó, ngƣời bản xứ có thể hiểu đƣợc lời nói của họ rất nhanh chóng. Một điều rất quan trọng nữa là ngƣời học cần phải quan sát khẩu hình của ngƣời bản xứ khi phát âm. Khá nhiều ngƣời Hàn khi học tiếng Việt rất lƣời quan sát và ngại thực hiện bƣớc này. Khẩu hình môi của ngƣời Hàn rất khác so với ngƣời Việt. Đặc biệt khi phát âm nguyên âm ‗u‘ thì môi họ rất tròn, lƣỡi có xu hƣớng giật về phía sau. Khi chúng ta giao tiếp, ngƣời Hàn có thể nhìn khẩu hình của chúng ta để đoán từ chúng ta nói và ngƣợc lại. Vì vậy, nếu không chịu khó quan sát và luyện tập theo khẩu hình của ngƣời Việt thì sẽ rất khó có thể phát âm đúng. Ngoài ra, việc luyện nghe tuy không phải là phƣơng pháp mới nhƣng nó chính là yếu tố quyết định đến quá trình học phát âm của ngƣời học. Luyện nghe ở đây không nên hiểu theo cách là nghe – hiểu mà là nghe – lặp lại. Ngƣời dạy cần đi từng bƣớc và hƣớng dẫn cho ngƣời học thao tác nghe – lặp lại trƣớc, sau đó mới tiến đến những cấp độ cao hơn. Điều này sẽ giúp ngƣời học phát âm đúng chuẩn của ngƣời bản xứ. Sau đó, ngƣời dạy nên khuyến khích ngƣời học tự ghi âm lại giọng của mình sau khi đọc hoặc nói. Sau đó chúng ta sẽ tiến hành so sánh giọng của mình với giọng của ngƣời bản xứ xem giọng nói của mình khác họ ở điểm nào? Sau khi đã nhận biết đƣợc những sự khác nhau thì ngƣời học sẽ dễ dàng điều chỉnh sao cho giống giọng của ngƣời bản xứ. Đặc biệt, ngƣời dạy cần nhấn mạnh về các bƣớc khi đọc một đoạn văn cho ngƣời học nhƣ sau: nên đọc ít nhất là bốn lần. Lần thứ nhất là đọc lƣớt. Lần thứ hai là đọc rành mạch rõ từng chữ. Lần thứ 3 tiến hành chỉnh sửa ngữ điệu. Lần thứ 4 là đọc lại hoàn chỉnh toàn văn bản. Mỗi lần đọc nhƣ vậy sẽ giúp ngƣời học 459
  11. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI nhận ra đƣợc mình phát âm chƣa tốt ở chỗ nào, sau đó điều chỉnh thì ngƣời học sẽ phát âm chuẩn và rõ ràng hơn. 4. Kết luận Tóm lại, tác giả đã nêu ra một số phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt cho ngƣời Hàn dựa trên những lỗi phát âm thƣờng gặp của học viên khi phát âm tiếng Việt, đồng thời kết hợp thêm các phƣơng pháp khác nhƣ: luyện phát âm theo hệ thống ngữ âm tiếng Việt, luyện phát âm theo kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Nếu ngƣời dạy kết hợp linh hoạt và vận dụng tốt các phƣơng pháp này sẽ giúp cho ngƣời học hiểu đƣợc những đặc trƣng của tiếng Việt về mặt ngữ âm, thanh điệu, phƣơng ngữ v.v, giúp họ từng bƣớc hoàn thiện đƣợc cách phát âm, từ đó định hình cho họ một phƣơng pháp học phát âm tiếng Việt hiệu quả. Thông qua đó cũng giúp cho ngƣời dạy tự đúc kết, lựa chọn và áp dụng đƣợc những phƣơng pháp dạy phát âm tiếng Việt phù hợp hơn, hiệu quả hơn dành cho ngƣời Hàn. Tài liệu tham khảo - Sách Bùi Hiền. (1997). Phương pháp hiện đại dạy – học ngoại ngữ. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Cadiere. (1911). L. Le dialecte du Bas – Annam, Bulletin de l‘Ecole Francaise‘ d‘Extreme – orient. T11. Paris. Đoàn Thiện Thuật. (2007). Ngữ âm tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Thị Châu. (2009). Phương ngữ tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Khắc Cƣờng. (2016). Giáo trình Ngữ âm học (Phonetics). TP. Hồ Chí Minh: Đại học KHXH&NV TP. HCM. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). (2017). Lược sử Việt ngữ học. Hà Nội: Nhà xuất bản Tri thức. Nguyễn Văn Ái (chủ biên). (1994). Từ điển phương ngữ Nam Bộ. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh . Trần Thị Ngọc Lang (1995). Phương ngữ Nam Bộ. TP. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Khoa học xã hội (chi nhánh). - Tài liệu từ internet http://terms.naver.com/entry.nhn?docId=1625162&cid=42192&categoryId=42207 http://terms.naver.com/entry.nhn?docId=1165093&cid=40942&categoryId=32978 - Luận văn, luận án chưa xuất bản Bạch Thanh Minh. (2016). Giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói tiếng Anh bằng phƣơng pháp giao tiếp. Luận văn Thạc sĩ chưa xuất bản. Trƣờng Đại học Quốc tế Hồng Bàng. 460
  12. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI POINTS SHOULD BE CONSIDERED WHEN TEACHING VIETNAMESE PRONUNCIATION TO KOREANS Abstract Currently, the number of Koreans living, studying and working in Vietnam is increasing rapidly. Especially, Vietnamese has become the second foreign language taught in Korean schools. Based on that trend, the application of results in linguistic and Vietnamese research into the teaching Vietnamese to Koreans is essential. In this article, the author focuses on the following main points: analyzing the actual situation of teaching Vietnamese to Koreans today; pointing out some limitations of teachers teaching Vietnamese to Korean that directly adversely affect to learners; analyzing some similarities and differences between Vietnamese and Korean; outlining obstacles that Korean people may encounter when learning Vietnamese pronunciation; thereby suggesting some effective Vietnamese pronunciation teaching methods to Koreans. Keywords teaching Vietnamese, teaching Vietnamese pronunciation, a second foreign language, Koreans, learning Vietnamese 461
nguon tai.lieu . vn