Xem mẫu

  1. DI SẢN VĂN HÓA NHỮNG DI SẢN VĂN HÓA KHẢO CỔ HỌC Ở TỈNH HÒA BÌNH TRÌNH NĂNG CHUNG Tóm tắt Là một bộ phận cấu thành của văn hóa Đông Sơn, di sản văn hóa khảo cổ học tỉnh Hòa Bình nổi bật với ba loại hình tiêu biểu: Văn hóa Hòa Bình; trống đồng (trống Đông Sơn, trống Mường) và mộ Mường. Đến nay, Hòa Bình là địa phương phát hiện nhiều di tích văn hóa Hòa Bình nhất với hơn 70 địa điểm. Số lượng phong phú các di tích, di vật văn hóa Hòa Bình phát hiện được khẳng định rằng tỉnh Hòa Bình là quê hương của nền văn hóa tiền sử nổi tiếng này. Hòa Bình cũng là địa phương phát hiện được nhiều trống đồng cổ với hơn 70 trống, trong đó 10 trống Đông Sơn (trống loại I Heger) và hơn 60 trống Mường (trống loại II Heger). Nghiên cứu cho thấy có sự kế thừa trực tiếp từ trống Đông Sơn sang trống Mường ở Hoà Bình, trống Mường là biểu tượng văn hóa của người Mường, tiêu biểu cho bản sắc Mường. Cùng với đó, nghiên cứu mộ Mường ở Hòa Bình đã góp thêm nhiều tư liệu quý, có giá trị khoa học để tìm hiểu nhiều khía cạnh về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Mường. Những tư liệu đó đóng góp vào việc truy tìm nguồn gốc tộc Mường, một tộc người anh em có chung cội nguồn xa xưa với dân tộc Việt. Từ khóa: Khảo cổ học, Hòa Bình, văn hóa Hòa Bình, trống đồng Đông Sơn, trống đồng Mường, mộ Mường Abstract As an integral part of Dong Son culture, Hoa Binh archaeological cultural heritage is outstanding with three typical types: Hoa Binh culture; bronze drums (Dong Son drums, Muong drums) and Muong tombs. Up to now, Hoa Binh is the locality where has discovered the most Hoa Binh cultural relics with more than 70 archaeology locations. The extremely rich number of discovered Hoa Binh cultural relics and vestiges has affirmed that Hoa Binh province is home to this famous prehistoric culture. Hoa Binh is also the locality where many ancient bronze drums were discovered: more than 70 drums, including 10 Dong Son drums (Heger drums I) and more than 60 Muong drums (Heger drums II). The study shows that there is a direct inherit from the Dong Son drum to the Muong drum in Hoa Binh, the Muong drum is a cultural symbol of Muong people, typical for Muong identity. Along with that, the study of Muong tomb in Hoa Binh has contributed more valuable and scientific documents to learn many aspects of the social, material and spiritual life of Muong ethnic people. These materials contribute to tracing the origin of the Muong ethnic group who have a common origin with the Kinh or Viet people. Keywords: Archeology, Hoa Binh, Hoa Binh culture, Dong Son bronze drums, Muong bronze drums, Muong tombs H òa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp nguyên đá vôi chạy suốt từ Phong Thổ - Lai với phía tây đồng bằng sông Hồng. Châu đến bờ biển tỉnh Ninh Bình, hoạt động Hòa Bình có địa hình bị chia cắt karst hóa đã tạo ra các bồn địa giữa núi có phức tạp và có độ dốc lớn. Vùng núi cao hiểm điều kiện cư trú thuận lợi, hình thành nên các trở nằm ở phía tây bắc tỉnh với độ cao trung xứ Mường trù phú, thường được dân gian ca bình 600m - 700m so với mặt nước biển. Phía tụng: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. đông nam tỉnh là vùng núi thấp. Trên dải cao Trong nền cảnh văn hóa truyền thống đa dạng Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 5
  2. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU của Việt Nam, di sản văn hóa khảo cổ học tỉnh M.Colani đề xuất đã được các nhà khảo cổ học Hòa Bình là một trong những mảng màu văn thế giới tham dự Hội nghị thảo luận và thông hóa đặc sắc của cư dân cổ miền núi phía Bắc qua nghị quyết, công nhận thuật ngữ “Văn hóa nước ta, nổi bật với ba loại di sản lớn: Văn hóa Hòa Bình” để chỉ một nền văn hóa thời Tiền sử Hòa Bình, trống đồng (trống Đông Sơn, trống ở Việt Nam [4]. Mường) và mộ Mường. Từ năm 1960 đến nay, các nhà khảo cổ học 1. Văn hóa Hòa Bình đã phát hiện và nghiên cứu trên 160 địa điểm Văn hóa Hòa Bình là một nền văn hóa tiền văn hóa Hòa Bình, trong đó, riêng địa phận sử nổi tiếng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam tỉnh Hòa Bình đã có trên 70 địa điểm được Á. Kể từ năm 1926, khi di tích Hòa Bình đầu tiên khảo sát và tiến hành nghiên cứu. Các di tích được phát hiện ở tỉnh Hòa Bình cho đến nay, chủ yếu tập trung ở những vùng núi đá vôi tại các nhà khoa học đã thu được rất nhiều thành các thung lũng hoặc trong các hang động, mái tựu trong công cuộc nghiên cứu văn hóa Hòa đá; rất ít các di tích ở ngoài trời và thềm sông. Bình. Văn hóa Hòa Bình không chỉ tồn tại ở Việt Vùng núi đá vôi Hòa Bình, Thanh Hóa là nơi Nam mà còn ở các nước khác trong khu vực tập trung nhất các di tích văn hóa Hòa Bình. Đông Nam Á, ít ra là Đông Nam Á lục địa, với Dưới góc độ địa lý sinh thái, đây là khu vực đa phạm vi phân bố rộng từ phần cực nam Trung dạng, ổn định trong sự thống nhất. Do ảnh Quốc, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia đến hưởng của lịch sử cấu tạo địa chất, địa hình quần đảo phía đông Malaysia và đảo Sumatra mà điều kiện tự nhiên khu vực này rất phong (Indonesia). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng phú và đa dạng, khí hậu thủy văn mang tính văn hóa Hòa Bình là hiện tượng văn hóa của trung chuyển với đủ các giống loài ở các khu Đông Nam Á tiền sử. hệ xung quanh. Ở Việt Nam, các di tích Hòa Bình được phát Có một quy luật phân bố cư trú rất dễ nhận hiện và nghiên cứu trong nhiều thời kỳ khác thấy của cư dân Hòa Bình, đó là sự phân bố nhau, do nhiều thế hệ các nhà khoa học và các theo từng cụm, mỗi cụm có từ 3 đến 10 di chỉ cơ quan khác nhau tiến hành. liền khoảnh và chiếm cứ vài ba thung lũng đá Tại tỉnh Hòa Bình, trong hai mùa điền dã vôi. Ở tỉnh Hòa Bình có 10 cụm di chỉ1. Xung năm 1926, với những kết quả thu được từ việc quanh các di chỉ là các thung lũng có nhiều khai quật 9 trong số 23 địa điểm di tích hang suối nhỏ, hợp lưu vào suối lớn. Hệ thống sông động tại vùng núi đá vôi Hòa Bình, nữ khảo suối dày đặc ở đây không chỉ cung cấp nước cổ học người Pháp - Madelene Colani trong sinh hoạt mà còn cung cấp nguồn thức ăn dồi công trình nghiên cứu “Thời đại Đá trong tỉnh dào từ các loài động, thực vật thủy sản và là Hòa Bình”, lần đầu tiên đã nêu lên thuật ngữ nguồn đá cuội nguyên liệu để chế tác công Văn hóa Hòa Bình với những đặc trưng cơ bản cụ. Trong các thung lũng là những cánh rừng và ba giai đoạn phát triển từ cuối thời đại Đá nhiệt đới nhiều tầng xanh tốt quanh năm. cũ đến thời đại Đá mới [2; 3]. Có thể nói, với Xung quanh các thung lũng là những dãy núi những phát hiện và nghiên cứu về văn hóa đá vôi bao bọc, mà ở đó chứa nhiều hang động Hòa Bình, M.Colani được xem như là người lớn nhỏ - nơi cư trú lý tưởng của những chủ khai sinh văn hóa Hòa Bình, đánh dấu giai nhân văn hóa Hòa Bình. đoạn đầu của quá trình nghiên cứu văn hóa Trong các hang động thuộc văn hóa Hòa Hòa Bình trên lãnh thổ Việt Nam và trong khu Bình thường có tầng văn hóa dày, hàm chứa vỏ vực Đông Nam Á. Tháng Giêng năm 1932, tại các loài nhuyễn thể, tàn tích xương răng động Hội nghị Tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất tổ vật. Đó là tàn tích thức ăn để lại của người tiền chức tại Hà Nội, những luận điểm khoa học do sử, cùng với các di vật khảo cổ, than tro và di 6 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
  3. DI SẢN VĂN HÓA cốt người. Các tích tụ này thường nằm trực tích thực vật trong văn hóa Hòa Bình phát hiện tiếp trên nền hang đá vôi, hoặc trong lớp đất chưa nhiều và hầu như chưa thấy giống loài đã sét vôi màu, thường có kết cấu bở rời, có tuổi được con người thuần hóa. sau Cánh Tân. Tiêu biểu như hang Làng Đồi Nghiên cứu kinh tế - xã hội của cư dân văn (huyện Lương Sơn), tầng văn hóa dày tới 4,5m hóa Hòa Bình, thực chất là tìm hiểu phương chứa hơn 1.000 công cụ đá tiêu biểu của chủ thức kiếm ăn, giải quyết vấn đề lương thực của nhân văn hóa Hòa Bình, cùng rất nhiều di tích các tập đoàn người cổ Hòa Bình. Phần đông xương răng động vật, vỏ ốc suối, và di tích mộ các nhà khoa học thừa nhận, săn bắt, hái lượm táng với 1 mảnh hộp sọ và 3 mảnh xương hàm. là phương thức tìm kiếm thức ăn chủ đạo của Hoặc như ở hang Sào Đông I (huyện Kim Bôi), cư dân văn hóa Hòa Bình. Những hoạt động tầng văn hóa tương đối nguyên vẹn, dày tới săn bắt hái lượm của người Hòa Bình chủ yếu 2m. Các nhà khảo cổ tìm thấy gần 1.200 hiện diễn ra trong các thung lũng đá vôi. Khi nghiên vật bằng đá mang đặc trưng văn hóa Hòa Bình cứu thành phần các giống loài động vật trong các di chỉ Hòa Bình cho thấy, người Hòa Bình là cùng nhiều di tích xương răng động vật. Cũng những cư dân săn bắt đa tạp, không nhằm vào đã phát hiện vài mảnh gốm trên bề mặt [15, một vài giống loài động vật nào cụ thể, trong tr.34-37; tr.83-116]. điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, nghĩa Các di tích động vật trong các di chỉ văn hóa là săn bắt theo phổ rộng. Đối tượng hoạt động Hòa Bình gồm các loài nhuyễn thể, chủ yếu là hái lượm của cư dân Hòa Bình khá phong phú, ốc núi, ốc suối và xương cốt động vật có xương bao gồm các động vật nhỏ, trứng chim, nấm, sống. Đó là dấu tích sau những bữa ăn thường hoa quả và đặc biệt là các loài thủy sinh thân ngày của cư dân nguyên thủy. Xương cốt động mềm sống ở dưới sông, suối. vật thường bị đập vỡ, hầu như chưa tìm thấy Đặc trưng nổi bật của văn hóa Hòa Bình di cốt đầy đủ của một động vật lớn. Tất cả di là tổ hợp di vật gồm đồ đá, đồ xương, vỏ trai, cốt động vật trong các di tích Hòa Bình là động trong đó đồ đá là chủ yếu. Người Hòa Bình cổ sử vật hoang dã mà ngày nay vẫn đang tồn tại. dụng đá cuội sông, suối để chế tác công cụ với Đó là những đối tượng săn bắn của người Hòa kỹ thuật ghè đẽo còn thô sơ. Họ cũng đã biết Bình. Trong các cuộc khai quật tại hang Xóm đến kỹ thuật mài, tuy mới ở mức sơ khai. Di vật Trại (huyện Lạc Sơn), hang Động Can (huyện công cụ đá Hòa Bình phong phú và ổn định với Kỳ Sơn) cho thấy, động vật nhỏ chiếm đa số một số loại hình đặc trưng như công cụ có hình so với động vật lớn [5, tr.27]. Hiện tượng này hạnh nhân, hình tam giác, hình đĩa, hình ô van cũng thấy khá phổ biến ở các hang động Hòa cùng rìu ngắn, rìu dài được làm từ cuội nguyên Bình khác. hoặc cuội bổ và chủ yếu được ghè một mặt. Công cụ bằng xương, vỏ trai trong văn hóa Hòa Các nhà nghiên cứu cho rằng nhuyễn thể là Bình có số lượng rất ít. Bước đầu xác nhận ở đây đối tượng chủ yếu trong hoạt động thu lượm có mặt rìu xương, đục xương, mũi nhọn xương, của cư dân văn hóa Hòa Bình. Khối lượng vỏ nạo vỏ trai. Phần lớn công cụ xương trong văn các loại trai ốc trong các hang động Hòa Bình hóa Hòa Bình được mài và được chuốt nhẵn rất lớn, một số di chỉ đạt tới hàng trăm mét cẩn thận. Trên một số rìu xương được khắc khối như ở hang Làng Đồi, hay Hang Muối vạch. Gốm cũng đã xuất hiện trong các lớp mặt (huyện Tân Lạc). Điều này khiến một số nhà của 50 địa điểm (khoảng 1.800 mảnh) thuộc nghiên cứu xem đặc trưng văn hóa Hòa Bình lớp văn hóa Hòa Bình muộn. Gốm thô, có loại như là văn hóa của cư dân “ăn ốc”. Những tàn gốm nặn tay, được trang trí văn thừng đập, văn tích còn lại trong các hang động Hòa Bình chỉ khắc vạch, trổ lỗ. Đó là những đặc trưng mang phản ánh phần nào kết quả hoạt động tìm tính thống nhất trong tổ hợp di vật của nền kiếm thức ăn của chủ nhân văn hóa này. Vết văn hóa Hòa Bình. Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 7
  4. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Tại tỉnh Hòa Bình, các di tích mộ táng trong của các phương tiện khoa học hiện đại, các văn hóa Hòa Bình khá nhiều. Điển hình là các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tạm thống nhất di chỉ Triềng Xến, Làng Vành, Hang Đắng đã đưa ra một phác đồ về khung niên đại của nền tìm thấy nhiều xương người bị đốt cháy hoặc văn hóa Hòa Bình tại Việt Nam như sau: có vết chẻ. Bên cạnh di cốt người, trong mộ - Niên đại mở đầu của nền văn hóa Hòa Bình táng ở Hang Đắng có chôn theo hàm dưới của là khoảng từ 18.420 năm ± 50 năm cách ngày khỉ, cầy cáo. Đặc điểm quan trọng là người Hòa nay (di chỉ hang Xóm Trại - Lạc Sơn) đến 16.470 Bình chôn người chết ngay trong địa điểm cư năm ± 80 năm (di chỉ Làng Vành - Lạc Sơn). trú. Tại các hang Động Can, Làng Vành, Hang Đắng, mộ có thể ở góc hang hoặc hốc đá, gần - Niên đại kết thúc của nền văn hóa Hòa bếp lửa. Điều này phản ánh tâm lý của người Bình là 7.500 năm cách ngày nay (lấy niên đại Tiền sử không muốn xa rời người thân của C14 ở di chỉ Hang Đắng làm căn cứ). mình, mong muốn người chết được “yên nghỉ” Khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức xã hội của ở chỗ sinh hoạt thường ngày của cộng đồng người Hòa Bình, nhiều ý kiến cho rằng người như bếp lửa, hoặc nơi nghỉ ngơi. Qua những tư Hòa Bình thuộc về chế độ bộ lạc mẫu hệ. Mỗi liệu khai quật khảo cổ học cho thấy, phương hang động là một đơn vị cư trú. Trong hang thức chôn nằm co, hoặc nằm nghiêng bó gối có di tích bếp lửa hoặc vài đống tro phân bố ở là hình thức chôn phổ biến của người Tiền sử trung tâm hoặc gần khu vực cửa hang. Khuynh Hòa Bình, thứ đến là chôn ngửa, chân tay duỗi hướng phát triển của các bếp lửa theo niên đại thẳng. Phần lớn là những mộ chôn đơn, cũng từ sớm đến muộn là nhỏ dần về kích thước và có trường hợp bắt gặp hiện tượng chôn tập tăng dần về số lượng. Có thể cho rằng, mỗi thể như địa điểm hang Làng Gạo (huyện Lương hang là nơi cư trú của một gia đình lớn. Nếu coi Sơn). Tại đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy di những bếp lớn chiếm gần hết diện tích hang ở cốt của 20 cá thể người. Xương đã mủn nát và tầng văn hóa Sơn Vi thuộc hậu kỳ Đá cũ là một có cặn vôi bám. Những chiếc sọ này chôn khá gia đình lớn gồm nhiều thế hệ, thì những bếp tập trung trong khoảng 25m2, ở độ sâu 0,60m. nhỏ trong các di chỉ Hòa Bình là dấu hiệu của Ngoài những cốt sọ ra không tìm thấy các hiện các gia đình nhỏ cùng chung sống. Mặt khác, vật khảo cổ chôn theo. Đây không phải là một đặc điểm phân bố theo từng nhóm di tích và phương thức chôn cất, mà có thể là một tập mỗi nhóm chiếm cứ một vài ba thung lũng tục mang ý nghĩa tôn giáo nào đó [2]. Hầu hết là một kiểu tập hợp cư dân dựa trên quan hệ các di cốt người đều được rắc thổ hoàng trước huyết tộc đóng vai trò quan trọng khi chôn. Đặc biệt, đáng chú ý là tại hang Lam Gan II (huyện Lương Sơn), các nhà khoa học đã Khi nghiên cứu đời sống tinh thần của phát hiện được một chỏm sọ người lớn, bên người Hòa Bình, đã có những bằng chứng về sự trong chứa đựng một vài nhánh xương sườn sáng tạo nghệ thuật nguyên thủy. Người Hòa của một đứa trẻ. Hiện tượng này được các nhà Bình xưa đã nhận thức được vẻ đẹp từ thiên khảo cổ lý giải, người Lam Gan II lấy một chỏm nhiên, rồi sử dụng những cái đẹp sẵn có ấy, sọ của người lớn để đựng một bộ phận xương biến nó thành những đồ trang sức phục vụ con cốt trẻ con. Đó chính là bằng chứng của tục cải người. Họ đã lấy những vỏ ốc đẹp xâu lại thành táng [7, tr.10-13]. Hầu hết các mộ táng đều có vòng đeo tay, đeo cổ. Những ý tưởng làm đẹp chôn theo đồ tùy táng. Đó là những dụng cụ sơ khai này là mầm mống của sáng tạo nghệ lao động, sinh hoạt hàng ngày như công cụ đá, thuật. Nhìn chung, nghệ thuật nguyên thủy đồ trang sức. Hòa Bình dung dị, mang tính ước lệ cao, phản Ngày nay, trên cơ sở những cứ liệu khoa ánh mối quan hệ của con người với môi trường học mới được phát hiện, cùng với sự hỗ trợ săn bắt hái lượm ở vùng nhiệt đới. 8 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
  5. DI SẢN VĂN HÓA Trong cuộc khai quật tại hang Triềng Xến, có thể là tác phẩm nghệ thuật do chủ nhân hoặc ở mái đá Làng Mị, hang Lam Gan (huyện nền văn hóa Hòa Bình sáng tạo. Kim Bôi), nhà khảo cổ M. Colani đã phát hiện ra Với số lượng vô cùng phong phú các di tích, những di vật xương, hoặc phiến đá có những di vật văn hóa Hòa Bình, đã khẳng định tỉnh hình khắc độc đáo. Ở hang Xóm Trại, người Hòa Bình là quê hương của nền văn hóa Tiền xưa sử dụng các hình khắc vạch dài ngắn khác sử nổi tiếng này. nhau trên hai thanh đá cuội, dường như biểu 2. Trống đồng (trống Đông Sơn và trống thị hình con thú [6, tr.149]. Đặc biệt, tại hang Mường) Đồng Nội (huyện Lạc Thủy), trên vách hang có hình khắc mặt một con thú và ba mặt người. Trống đồng là một tài sản quý giá được coi Những hình khắc này ở ngay cửa vào hang, là báu vật mà cha ông để lại, là biểu tượng của cao cách mặt đất từ 1,50m đến 1,75m, vừa tầm nền văn minh và văn hóa Việt Nam thời dựng khắc họa của bàn tay người. Hình khắc con thú nước. Hòa Bình là một trong những tỉnh phát không rõ lắm, nhưng phần miệng, mũi và sừng hiện và lưu giữ nhiều trống đồng nhất trong có thể cho thấy đây là loại thú ăn cỏ. Rõ nét cả nước. Tại Hòa Bình, trống đồng Sông Đà là hơn cả là hình khắc ba mặt người. Một hình chiếc trống được phát hiện sớm nhất, do phó mặt người đã bị phá hủy mất một nửa. Hình sứ Muliê tỉnh Hòa Bình lấy từ nhà người vợ góa mặt người ở giữa có kích thước lớn hơn, là hình của viên quan lang Mường vùng sông Đà, được duy nhất có khắc lông mày. Nét khắc trên ba đưa về Pháp, trưng bày tại Hội chợ quốc tế Paris mặt người có tính chất sơ đồ nhưng khá gần năm 1889. Hiện nay, trống Sông Đà được lưu với hiện thực. Điều đặc biệt đáng chú ý là, ở giữ tại Bảo tàng Ghimê thuộc Cộng hòa Pháp. phía trên đỉnh đầu hình ba mặt người đều Cho đến nay, lịch sử nghiên cứu trống đồng khắc hình chữ Y, có thể đó là biểu tượng của đã có hơn 100 năm. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, những cặp sừng mà “tác giả” muốn thể hiện. đầu thế kỷ XX, các học giả phương Tây tập Những nét khắc hình người có sừng đã được trung vào nghiên cứu các hiện vật cổ độc đáo tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Các nhà của xứ sở Viễn Đông mà nổi bật nhất là trống khoa học cho rằng, hình người có sừng là hiện đồng. Năm 1902, nhà khảo cổ học người Áo tượng phi thực tế, chúng giống như loại hình F. Heger đã tiến hành nghiên cứu 165 trống nửa người nửa thú trong nghệ thuật mang đồng sưu tầm được ở Đông Nam Á và phân tính chất tôn giáo, chủ yếu là tô tem giáo, thờ chia thành 4 loại chính: I, II, III, IV và 3 loại trung vật tổ. Người ta tin rằng, nguồn gốc của cộng gian: I-II, I-IV và II-III. Đến nay, trên phạm vi đồng họ là một loài động vật, thực vật hay một tỉnh Hòa Bình đã phát hiện được hơn 70 trống vật vô tri nào đó. Người nguyên thủy thường đồng, trong đó có 10 trống loại I Heger và hơn tổ chức những nghi lễ thờ cúng vật tổ, khoác 60 trống loại II Heger. lốt thú. Người ta cũng khắc vẽ hình vật tổ lên 2.1. Trống Đông Sơn (trống loại I Heger) các vách hang. Từ những hình khắc trên vách đá ở hang Đồng Nội cho phép suy đoán rằng: Trống Đông Sơn ở Hòa Bình bao gồm trống Cư dân nguyên thủy ở đây có tín ngưỡng tô Sông Đà, Đồi Ro, Yên Bồng I, Yên Bồng II, Yên tem giáo. Vật tổ của họ là loài động vật ăn cỏ, Bồng III, Đú Sáng, Khoan Dụ, Chợ Bờ, Lạc Long có thể là hươu, nai, trâu, bò, v.v... Đến nay, việc và Vĩnh Đồng II. xác định niên đại chính xác cho những hình Theo cách phân loại của các nhà nghiên khắc này vẫn đang được tiến hành. Tuy nhiên, cứu, trống Đông Sơn ở Hòa Bình có những dưới nền hang, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhóm loại hình sau: Nhóm A: 2 chiếc (trống nhiều công cụ kiểu Hòa Bình. Như vậy, những Sông Đà, Đồi Ro); nhóm B: 2 chiếc (trống Yên hình khắc trên vách đá ở vách hang Đồng Nội Bồng II, Đú Sáng); nhóm C: 5 chiếc (trống Chợ Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 9
  6. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Bờ, Khoan Dụ, Lạc Long, Yên Bồng I, Yên Bồng Sơn, gồm 2 chiếc rìu xoè cân, 1 chiếc rìu lưỡi II); nhóm D: 1 chiếc (trống Vĩnh Đồng II). Về mặt xéo, 2 chiếc giáo đều bằng đồng thau. Năm niên đại, những trống Đông Sơn ở Hòa Bình có 2000, nhân dân xã Mông Hoá, huyện Kỳ Sơn đã niên đại từ thế kỷ III trước Công nguyên đến tìm được chiếc giáo đồng ở địa điểm Đồng Tò đầu Công nguyên. Đáng lưu ý là 6 trống thuộc và bôn đá có vai ở địa điểm Đồng Nọ. Mới đây, nhóm C và nhóm D ở Hòa Bình đã mang những (năm 2018), trong quá trình canh tác dưới một yếu tố chuyển hóa sang trống loại II [1, tr.36]. chân gò thấp thuộc khu vực xóm Mở Đá, xã Hạ Trong quá trình phát triển của văn hóa Bì, huyện Kim Bôi, người dân địa phương đã Đông Sơn, trống Đông Sơn tồn tại trong một phát hiện được được một số di vật bằng đồng thời gian dài. Chỉ đến khi nhà Hán có chính bao gồm 1 rìu lưỡi xéo có gờ chắn, 1 rìu hình sách tận diệt trống đồng, thu trống đồng với chữ nhật và 1 mũi lao có cánh. Bộ sưu tập đồ mục đích đập ra lấy nguyên liệu đúc ngựa đồng ở đây mang đặc trưng tiêu biểu đồ đồng đồng và cột đồng Mã Viện thì nhiều vùng ở Đông Sơn [8]. đồng bằng, việc đúc trống đồng của người Sự hiện diện của những trống đồng và Việt cổ gặp muôn vàn khó khăn dưới con mắt hiện vật đồ đồng Đông Sơn chứng tỏ tỉnh Hoà nhòm ngó của bộ máy cầm quyền đô hộ. Hơn Bình nằm trong địa bàn phân bố của văn hóa 900 mảnh khuôn đúc trống đồng Đông Sơn Đông Sơn. muộn tìm được trong tòa thành Luy Lâu, Bắc 2.2. Trống Mường (trống loại II Heger) Ninh đã cho thấy sức sống Đông Sơn vẫn tồn tại mãnh liệt ở nhân dân Giao Chỉ. Nhưng ở Bên cạnh những chiếc trống Đông Sơn nói nhiều vùng miền núi, nơi nhà Hán không thể trên, tại tỉnh Hòa Bình đã phát hiện được hơn 60 với tay cai trị trực tiếp thì có nhiều thuận lợi trống đồng loại II Heger, phân bố ở vùng người hơn. Người Việt cổ miền núi vẫn đúc trống, Mường sinh sống. Các nhà nghiên cứu thường nhưng có sự thay đổi hình dáng, từ trống loại I sử dụng thuật ngữ “không gian Mường” (Giáo Heger sang trống loại II Heger. Trong bộ sử thi sư Trần Quốc Vượng) để xác định sự phân bố “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường Hòa Bình của trống đồng Hòa Bình. Cho đến tận gần kể rằng, những trống đồng đầu tiên được đúc đây, người Mường vẫn tiếp tục sử dụng trống dưới thời vua Dịt Dàng. Vua Dịt Dàng sai đúc đồng. Nếu như trống Đông Sơn (trống loại I hàng trăm, hàng nghìn trống đồng, trống nào Heger) là biểu tượng văn hóa, văn minh Việt cổ đẹp thì để lại kho, trống nào xấu thì sai “chú thì trống loại II là biểu tượng văn hóa Mường Khóa thằng Lồi” đem đi bán. ở Việt Nam. Sự hiện diện của trống đồng loại II trên vùng cư trú của người Mường trong gần Ngoài trống Đông Sơn, nhiều nhóm hiện vật của văn hóa Đông Sơn cũng đã được tìm suốt hai thiên niên kỷ đã là một bằng chứng thấy ở tỉnh Hoà Bình. Năm 1983, tại xã Xăm hùng hồn của truyền thống Đông Sơn, là sự Khòe, huyện Mai Châu đã tìm được một chiếc tiếp nối và sáng tạo nền văn hóa văn minh Việt giáo đồng mang phong cách Đông Sơn. Năm cổ. Với những ý nghĩa trên, trống đồng loại II 1985, tại khu mộ táng Ngọc Lâm, xã Đồng Heger có thể gọi là trống Mường. Tâm, huyện Lạc Thuỷ đã tìm được 5 ngôi mộ, Ngoài Hòa Bình, trống Mường còn phân bố trong đó có ngôi mộ số 5 được chôn theo 2 ở Phú Thọ (tập trung ở huyện Thanh Sơn và chiếc rìu đồng, 3 chiếc giáo đồng, 1 chiếc dao Yên Lập), Thanh Hóa, Nghệ An. Các nhà khảo xéo đồng, 1 chiếc đinh đồng. Những hiện vật cổ nghiên cứu trống đồng nhận thấy trống này chứng tỏ đây là một ngôi mộ thuộc văn Mường ra đời trong bối cảnh trống Đông Sơn hoá Đông Sơn ở giai đoạn muộn. Năm 1996, ở bị nhà Hán hủy diệt, thu gom để làm nguyên thôn Suối Cỏ, xã Sơn Hùng, huyện Lương Sơn liệu đúc ngựa đồng và cột đồng Mã Viện như đã phát hiện được một sưu tập hiện vật Đông thư tịch xưa đã ghi chép. Đã phát hiện một số 10 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
  7. DI SẢN VĂN HÓA trống đồng Đông Sơn muộn có yếu tố trống Qua những cuộc khai quật ở những khu Mường, tức là dạng trống chuyển hóa giữa hai mộ Mường cho thấy, người Mường có táng tục loại này ở khu vực miền núi Thanh Hóa. Các nhà chôn theo trống đồng, coi đó là một tài sản khoa học đã chứng minh một cách chắc chắn quý mà người chết được mang theo sang thế rằng, có sự kế thừa trực tiếp từ trống Đông Sơn giới bên kia. Có thể lấy dẫn chứng điển hình: sang trống Mường ở Hoà Bình. Những yếu tố Trong cuộc khai quật “chữa cháy” năm 1987 kế thừa đó thể hiện rõ qua kỹ thuật đúc trống, tại khu mộ Kim Truy, huyện Kim Bôi, các nhà tạo dáng, hoa văn... [12, tr.33-39; 13, tr.9-21]. khảo cổ đã tìm thấy 6 chiếc trống đồng loại II Về hình thức, trống đồng Mường vẫn còn trong 3 ngôi mộ. Những chiếc trống này khá giữ khá nguyên vẹn những truyền thống của thống nhất về kiểu dáng, thân trống được chia trống đồng Đông Sơn. Thân trống thường chia 3 phần: Tang, thân và chân. Các phần được phân cách với nhau bằng các đai nổi. Các vòng làm ba phần: Mặt tròn, tang phình, đế choãi hoa văn nhỏ. Họa tiết trang trí trên trống khá một cách vững chắc. Nét khác biệt có thể chỉ đa dạng: Văn hình học (ô vuông, ô vuông có biểu hiện ở một số chi tiết như tỷ lệ giữa thân, chấm, hình thoi lồng nhau); văn hoa lá (lá đề, lá tang và chân, ở họa tiết trang trí… thị)… Niên đại của 6 chiếc trống có thể từ đầu Kết quả khảo sát phạm vi phân bố trống Công nguyên đến thế kỷ XIV - XV. Niên đại của loại II Heger ở Hòa Bình cho thấy: Hầu như khu mộ Kim Truy hiện vẫn chưa được xác định các huyện và thị xã Hoà Bình đều phát hiện ra cụ thể, riêng ngôi mộ số 2 được xác định vào trống loại này: Lương Sơn, Đà Bắc, Tân Lạc, Yên khoảng thế kỷ XVI [11, tr.182-185]. Nhiều ngôi Thuỷ, Lạc Sơn, Kỳ Sơn, Kim Bôi, Lạc Thuỷ, Mai mộ Mường khác có chôn theo trống đồng, Châu... Điều này khẳng định địa bàn phân bố nhưng đã bị phá huỷ, hoặc bị lấy mất cùng trống đồng loại II cũng là địa bàn sinh sống của nhiều đồ tùy táng quý khác [9, tr.31-42]. người Mường ở Hoà Bình. Ở các tỉnh khác như Tài liệu dân tộc học cho thấy, trống đồng Thanh Hoá, Nghệ An, Phú Thọ,... người Mường loại II đã ăn sâu vào cuộc sống tâm linh của cũng là tộc sử dụng trống loại II trong quá khứ người Mường, kể cả khi đang sống cũng như cũng như hiện tại. Hay nói một cách khác, ở đã chết. Trước tiên, trống được sử dụng như đâu có người Mường, ở đó có trống đồng loại một loại nhạc cụ trong các dịp hội hè. Đồng II, người Mường cư trú ở đâu thì dường như có bào Mường ở Thanh Sơn, Phú Thọ tổ chức lễ sự phân bố của trống đồng loại II ở đấy. Chàm Thau vào tháng Giêng và tháng Bảy âm Sự ra đời của trống Mường có thể vào lịch (thường vào ngày mồng 7 tháng Giêng và khoảng đầu Công nguyên, khi mà người Việt cổ ngày rằm tháng Bảy), họ tổ chức đánh trống (theo các nhà khoa học thì người Việt cổ là cộng đồng. Người ta treo trống đồng loại II vào một đồng người nói tiếng Việt - Mường chung) ở cái sào, dưới đó đào hố cộng hưởng. Các cặp dưới đồng bằng gặp rất nhiều khó khăn trong nam nữ người Mường cầm dùi đánh vào mặt việc đúc và sử dụng trống Đông Sơn. Trong khi trống theo những tiết tấu nhịp nhàng. Đối với đó, người Việt cổ ở miền núi (sau đó chuyển người Mường, trống đồng là một của gia bảo hóa thành cộng đồng người Mường hiện nay) rất thiêng và chỉ được đưa ra sử dụng trong vẫn tiếp tục sử dụng trống đồng, nhưng đã có những nghi thức tế lễ trọng thể. Ngày nay, sự thay đổi ít nhiều thành dạng trống loại II. Sự người Mường vẫn còn giữ được những cách tiếp nối liền mạch của trống loại này với trống đánh trống đồng độc đáo, trong đó có điệu Đông Sơn của người Lạc Việt đã chứng tỏ có múa trống rất sinh động. Trong âm thanh rộn một bộ phận người Việt cổ ở miền núi vẫn đúc ràng của trống đồng, cồng chiêng, điệu múa trống đồng kể cả khi chính quyền phong kiến làm sống lại không khí tưng bừng của ngày phương Bắc đô hộ. hội xa xưa từ thuở khai thiên lập địa. Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 11
  8. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Trống đồng là vật quý, vì thế, không phải ai 3. Mộ Mường trong cộng đồng cũng được phép sử dụng mà Mộ táng là loại hình di tích đặc biệt, phản chỉ những người có quyền thế. Khi Thổ lang, ánh nội dung văn hóa táng tục của con người vợ Thổ lang, anh em của Thổ lang chết mới qua các thời đại. Mặt khác, những hiện vật thu được mang trống đồng ra đánh, còn đối với vợ được trong các mộ táng còn phản ánh khá lẽ, con cái hay những người khác chết không phong phú nhiều mặt của xã hội về kinh tế, kỹ được đánh trống đồng. Ở vùng Vĩnh Đồng thuật, văn hóa của thời đại khi loại hình này (huyện Kim Bôi), Thổ lang có 2 chiếc trống, xuất hiện. cho chôn ở một góc rừng bí mật, chỉ những ngày đặc biệt mới đào lên sử dụng. Như vậy, Mộ Mường, từ lâu đã trở thành đối tượng trống đồng còn là một linh vật đặc biệt biểu được nhiều ngành khoa học quan tâm khi hiện uy quyền, đại diện cho quyền lực chính nghiên cứu, tìm hiểu xã hội Mường và mối trị cũng như sự giàu sang, quý phái của chủ quan hệ Việt - Mường trong lịch sử. nhân. Ở một vài trường hợp khác, trống đồng Qua các tài liệu khảo cổ học cho thấy, vào còn được sử dụng trong những dịp lễ tết, cưới khoảng cuối thời Trần, đầu thời Lê, xã hội xin, báo tin. Mường cổ đã có sự phân hóa mạnh mẽ. Sự Việc xác định niên đại cho từng chiếc trống phân hóa đó thể hiện qua các khu mộ táng. Mộ loại II Heger ở Hòa Bình là một vấn đề không của quan lang Mường và tầng lớp trên của xã đơn giản, bởi trống đồng loại này có đời sống hội có cấu trúc cầu kỳ, quy mô lớn, đồ tùy táng rất lâu dài trong cộng đồng người Mường. Có nhiều và sang trọng. Đặc biệt, nhiều mộ có cả khi tìm được trống đồng chôn trong mộ táng vàng bạc, đá quý và trống đồng, sanh đồng - có niên đại cụ thể, nhưng niên đại này lại cách những hiện vật biểu trưng cho sự quyền lực niên đại đúc trống khá xa, nhất là đối với trống của quan Lang Mường. Mộ của thường dân loại II Heger. Do vậy, khi định niên đại cho từng thường có quy mô nhỏ, đồ vật chôn theo ít về chiếc trống một, các nhà khảo cổ căn cứ vào số lượng và nghèo nàn về giá trị sử dụng, thậm hoa văn, là căn cứ quan trọng nhất. Ngoài ra chí có mộ không có đồ tùy táng. Trong xã hội còn phải lưu ý đến mối tương quan giữa hình Mường cổ đã xuất hiện một số tập đoàn thống dáng trống, sự gần gũi của các nhóm trống. trị theo dòng họ, phản ánh qua các khu mộ Việc xác định niên đại cho trống trong các ngôi dòng họ Đinh (khu mộ Đống Thếch), dòng họ mộ cổ khi được chôn kèm các hiện vật khác Quách (khu mộ Phú Lâu). Khu mộ Nhuận Trạch như gốm sứ cũng cần phải cẩn trọng. Nhìn có lẽ là sự phản ánh cuối cùng của việc các tù chung, trống loại II Heger ở tỉnh Hòa Bình có trưởng, quan lại nhà Mường chôn chung với niên đại từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ dân thường trong một khu mộ. XVII [1, tr.24-56]. Hầu hết các khu mộ Mường đều chôn Tóm lại, trống Mường (trống loại II Heger) trong phạm vi phân bố của người Mường hiện là biểu trưng về sức sống của truyền thống tại. Điều này cho thấy, ở các thế kỷ XIV - XVII, văn minh Đông Sơn, là sự xác nhận quyền địa bàn cư trú của người Mường đã ổn định. lực của phong kiến Việt Nam đối với các thổ Một xã hội Mường với đời sống vật chất và tinh lang Mường, thể hiện tính thống nhất về mặt thần, với phép tắc và lệ Mường đã được xác lập chính trị Việt - Mường. Trống đồng đã gắn bó với cuộc sống của người Mường. Vùng Mường vững chắc. chính là địa bàn kế thừa trực tiếp truyền thống Trong nhiều năm qua, tại bốn vùng Mường trống Đông Sơn. Vì thế, trống loại II là biểu lớn nhất: Bi, Vang, Thàng, Động, các nhà khoa tượng văn hóa của người Mường, tiêu biểu cho học đã khai quật và nghiên cứu nhiều khu mộ bản sắc Mường. lớn. Niên đại của những khu mộ Mường mà 12 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
  9. DI SẢN VĂN HÓA chúng ta biết đến có thể từ cuối thời Trần - đầu lòng mộthường trải than tro. Đồ tùy táng đặt thời Lê, từ thế kỷ XIV - XVI kéo dài cho đến thời cả trên gò mộ và lòng mộ, một vài mộ còn đặt Nguyễn, thế kỷ XIX. trống đồng ở đáy mộ [14, tr.229]. Những nghĩa địa Mường cổ thường là Qua cấu trúc và táng tục của mộ Mường cổ những quả đồi tương đối bằng phẳng, thấp, có thể thấy rõ trong quá trình hình thành và gần xóm làng người Mường cư trú, xung định hình tộc Mường có bảo lưu truyền thống quanh có những đồi núi cao bao bọc. Mộ được của nền văn hóa Đông Sơn như sử dụng quan chôn kín từ sườn đồi đến chân đồi. Theo quan tài thân cây khoét rỗng (truyền thống mộ niệm cổ xưa của người Mường, những người thuyền), tục chôn theo trống đồng, hiện vật chết cũng ở chung với nhau thành xóm, thành bằng đồng, tục dùng đá kè mộ. làng, gọi là Mường ma. Đã có nhiều bằng chứng cho thấy mộ Những ngôi mộ có quy mô lớn thường chôn Mường thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa ở đỉnh đồi, trung tâm của khu mộ. Những mộ tộc Việt - tộc Mường như tục rải tro các mộ này không có nấm, được đào vuông thành sắc thời Trần và nhiều đồ gốm, tiền đồng các thời cạnh, kích thước huyệt mộ khá lớn. Cấu trúc Lý, Trần, Lê, Nguyễn được sử dụng làm đồ tùy phía trên của mộ có nhiều hòn mồ cắm xung táng. quanh. Kích thước hòn mồ ở mỗi khu mộ có Các cuộc khai quật mộ Mường ở Hòa bình sự khác nhau. Hòn mồ ở khu mộ Đống Thếch đã góp thêm nhiều tư liệu quý, có giá trị khoa (Kim Bôi) rất lớn, có hòn cao gần 4m, không kể học để tìm hiểu nhiều khía cạnh về đời sống phần chôn dưới đất. Một số hòn mồ như vậy xã hội, đời sống văn hóa vật chất và tinh thần được khắc đầy chữ Hán như chức năng của bia của dân tộc Mường. Những tư liệu đó đóng mộ. Ở những khu mộ khác như khu mộ Ngọc góp vào việc truy tìm nguồn gốc tộc Mường, Lâu (Lạc Sơn) kích thước hòn mồ nhỏ và thấp một tộc người anh em có chung cội nguồn xa xưa với dân tộc Việt. hơn nhiều, hòn cao nhất chưa đến 2m, các hòn khác cao trung bình khoảng 1m. Ở khu Kết luận mộ Nhuận Trạch (Lương Sơn), các hòn mồ cao Tỉnh Hòa Bình, cái nôi của người Việt thời trung bình khoảng 1m. Số lượng hòn mồ tại Tiền sử, một bộ phận cấu thành của nền văn các khu mộ cũng khác nhau: Ở khu mộ Đống minh Đông Sơn, với một không gian văn hóa Thếch, ngôi mộ của quận công Đinh Văn Kỷ có Việt - Mường còn mang nhiều dấu ấn trầm tích tới 17 hòn mồ [10, tr.43-91]; ở khu mộ Ngọc của lịch sử dân tộc. Đó là những di sản văn hóa Lâu, trung bình mỗi mộ có khoảng 4 - 7 hòn quý giá do ông cha ta để lại trong mỗi di tích, mồ. Kết quả khảo sát khảo cổ học và dân tộc di vật khảo cổ nơi đây. Những giá trị đó sống học cho thấy rõ chức năng của những hòn mồ: mãi với thời gian và là một bộ phận không thể là hàng rào vây quanh bảo vệ mồ, là ranh giới tách rời trong nền văn hóa giàu bản sắc của ngăn cách giữa thế giới người chết và người dân tộc Việt Nam. sống, là bia mộ và minh tinh ghi chép sơ lược Với những thành tựu nghiên cứu khoa học tiểu sử của chủ nhân, là đồ phúng viếng của trên cơ sở hệ thống di sản khảo cổ học ở tỉnh người thân. Hòa Bình, chúng ta đã từng bước dựng lại bức tranh lịch sử đầy đủ hơn, sống động hơn về Phần lớn mộ Mường đều có huyệt mộ, quá trình phát triển của tổ tiên chúng ta trên huyệt hình chữ nhật dài từ 2m - 5m, rộng từ mảnh đất Hòa Bình tươi đẹp. 0,7m - 4m, sâu từ 0,25m - hơn 3m. Cho đến nay, hầu như chưa tìm thấy một thi hài cũng T.N.C như một chiếc quan tài nguyên vẹn nào. Trong (PGS.TS, Viện Khảo cổ học) Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 13
  10. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Chú thích 6. Hoàng Xuân Chinh (chủ biên) (1989), Văn 1 Mười cụm di tích Hòa Bình bao gồm: hóa Hòa Bình ở Việt Nam, Viện Khảo cổ học, Hà + Cụm I gồm 8 di chỉ: Hang Rộng, Hang Tằm, Nội. Hang Trâu, Mái đá Lam Gan, Hang Chổ (Lam Gan 7. Trình Năng Chung (1993), “Nhân một phát I), Hang Lam Gan II, Làng Tiếng và Hang Diêm hiện chưa công bố của M. Colani, bàn về tục cải (huyện Lương Sơn). táng của cư dân văn hóa Hoà Bình”, Khảo cổ học, + Cụm II gồm 5 di chỉ: Làng Gạo, Hang Đồng số 3. Giẽ, Mái đá Đồng Giẽ, Làng Vôi và Làng Đồi 8. Trình Năng Chung, Hà Văn Sơn, Triệu Thanh (huyện Lương Sơn). Thủy (2018), Phát hiện bộ di vật đồ đồng Đông Sơn + Cụm III gồm 10 di chỉ: Quan Vác, Làng Nèo, ở xã Hạ Bì, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, Hội nghị Hang Tăng, Hang Tùng, Hang Chiêng, Hạ Bì, Khu Thông báo Khảo cổ học năm 2018, Viện Khảo cổ Thàng, Đủn Đỉn, Hang Đắng và Hang Giàng học. (huyện Kim Bôi). 9. Trần Anh Dũng, Lại Văn Tới (1986), “Mộ + Cụm IV gồm 3 di chỉ: Hang Dơi, Hang Hủi và Mường cổ, cấu trúc và táng tục”, Khảo cổ học, số Hang Bưng (huyện Đà Bắc). 3. + Cụm V gồm 7 di chỉ: Mường Chuông, Mường 10. Lê Đình Phụng, Phan Tiến Ba (1986), “Khu Khàng, Xóm Giỗ, Hang Muối, Triềng Xến I, Triềng mộ Mường Đống Thếch (Hà Sơn Bình)”, Khảo cổ Xến II và Hang Ma (huyện Tân Lạc). học, số 3. + Cụm VI gồm 7 di chỉ: Làng Vố, Xóm Khăm, 11. Phạm Quốc Quân, Trịnh Căn, Hoàng Văn Làng Báy, Sào Đông I, Sào Đông II, Làng Khay và Thưởng (1988), “Khai quật mộ Mường cổ ở Bộ Mu, Làng My (huyện Kim Bôi). Kim Truy, Kim Bôi (Hà Sơn Bình)”, in trong Những phát hiện mới Khảo cổ học, Viện Khảo cổ học. + Cụm VII gồm 4 di chỉ: Khấu Phục, Đám Đua, Hang Láng, hang Khoài (huyện Mai Châu). 12. Trịnh Sinh (2017), “Các kiểu dáng cơ bản của trống loại II Heger”, Khảo cổ học, số 3. + Cụm VIII gồm 5 di chỉ: Đá Lý, Xóm Trại, Hang Bưng, Đa Phúc và Làng Vành (huyện Lạc Sơn). 13. Trịnh Sinh (2017), “Các phương pháp đúc trống đồng loại II Heger”, Khảo cổ học, số 4. + Cụm IX gồm 10 di chỉ: Thung Mùng, Téc Con, Hang Tôm, Páng I, Páng II, Páng III, Đồng 14. Hà Văn Tấn (chủ biên) (2002), Khảo cổ học Nội, Hang Chim, Hang Ốc và Hang Hào (huyện Việt Nam, tập III: Khảo cổ học Lịch sử Việt Nam, Lạc Thủy). Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. + Cụm X gồm 4 di chỉ: Hang Nhân, Văn Lương, 15. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (1967), Phù Vệ và Trung Đôi (huyện Yên Thủy) [6, tr.28-29]. Những hiện vật tàng trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam về văn hóa Hòa Bình, Hà Nội. Tài liệu tham khảo 1. Quách Văn Ạch, Trịnh Sinh (2002), “Phân Ngày nhận bài: 3 - 9 - 2019 loại và định niên đại trống đồng ở Hòa Bình”, Khảo cổ học, số 2. Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 9 - 2019 2. Colani. M. (1926), “Découverte du Paléo- Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019 lithique la province de Hoa Binh”, L’Anthropologie, Vol XVI. 3. Colani. M. (1927), “L’Âge de la pierre dans la province de Hoa Binh”, Memoires du Service Ge- ologique de l’ Indochine, Vol XIV. 4. Colani. M. (1932), “Différent aspects du néo- lithique Indochinois”, Préhistoris Asiae Orientalis, Premier Congrès des Préhistoriens d’Extrême - Orient. 5. Hoàng Xuân Chinh, Nguyễn Văn Bình, Đặng Hữu Lưu (1981), Báo cáo khai quật di chỉ Xóm Trại, Tư liệu Viện Khảo cổ học, Hà Nội. 14 Số 29 (Tháng 9 - 2019)
nguon tai.lieu . vn