Xem mẫu

  1. 68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ TRONG THƠ TRO PHÚNG TRẦN TẾ XƯƠNG 1 Đỗ Thị Ngọc Quyên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: tắt: Xu hướng lược bớt những tín hiệu biểu cảm trực tiếp trong thơ ñã tạo ñiệu kiện cho sự thâm nhập của chất tự sự vào thơ. Một trong những tác giả ñầu tiên thể hiện sự ñổi mới như thế trong thơ là Trần Tế Xương. Mỗi bài thơ của ông ñược ví như một câu chuyện có cốt truyện, các nhân vật ñều ñược gọi tên cụ thể. Và ñặc biệt, thời gian, không gian trong thơ Tú Xương mang những ñặc ñiểm của thời gian, không gian trong văn xuôi. Từ khoá khoá: oá: Tú Xương, biểu hiện chất tự sự, thơ trào phúng. 1. MỞ ĐẦU Thơ ca vốn ñược coi là một hình thức tổ chức ngôn từ nghệ thuật giàu nhạc ñiệu, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc và có tính ña nghĩa. Người viết cũng như người ñọc ñến với thơ ñể chia sẻ sự ñồng ñiệu trong tình cảm, cảm xúc. Cho nên, nếu trả thơ về với bản chất nguyên thuỷ của nó thì sẽ thấy: dù nó có nhiều khoảng trắng hơn văn xuôi nhưng nó lại rất giàu tiềm năng biểu cảm nhờ những thán từ, những câu hỏi tu từ, những tính từ hay trạng từ biểu cảm... Nhưng, theo thời gian, càng ngày thơ càng không dựa nhiều vào thán từ ñể thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình nữa. Xu hướng lược bớt những tín hiệu biểu cảm trực tiếp trong thơ ñã tạo ñiệu kiện cho sự thâm nhập của chất văn xuôi vào thơ. Chìm ñi trong sự lên ngôi của sự kiện, của cốt chuyện, và của ngôn ngữ hướng ngoại, thiết nghĩ, lại là môt hướng ñi hay cho nhân vật trữ tình trong cách thể hiện cảm xúc. Một trong những tác giả ñầu tiên thể hiện sự ñổi mới như thế trong thơ là Trần Tế Xương. Mỗi bài thơ của ông ñược ví như một câu chuyện có cốt truyện, các sự kiện, nhân vật ñều ñược gọi tên cụ thể và ñặc biệt, thời gian, không gian trong thơ Tú Xương mang những ñặc ñiểm của thời gian, không gian trong văn xuôi. 1 Nhận bài ngày 15.05.2015; gửi phản biện và duyệt ñăng ngày 24.05.2016 Liên hệ tác giả: Đỗ Thị Ngọc Quyên; Email: dongocquyenbx1@gmail.com
  2. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 69 2. NỘI DUNG 2.1. Mỗi bài thơ là một câu chuyện kể có cốt truyện Không thể phủ nhận rằng hướng tiếp cận cuộc sống trong trạng thái của văn xuôi làm cho cảm xúc trong thơ Tú Xương có thêm ý nghĩa ñể tồn tại, cho dù ñó có thể là những xúc cảm có phần tiêu cực, bi quan. Hay nói cách khác, sự chân thành của xúc cảm trong thơ Tú Xương ñược hình thành từ sự hiện diện của cái lõi sự thật. Tú Xương tái hiện trong thơ bức tranh toàn cảnh của xã hội buổi giao thời, nơi những dư chấn văn hoá phương Tây ñang làm xô lệch ñi mọi giá trị ñạo ñức. Hai mối quan hệ làm rường cột của ñạo lý: tình phụ - tử, nghĩa phu - thê ñã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Đây là một trong rất nhiều câu chuyện của thời ñại ấy: Cô ký sao mà ñã chết ngay? Ô hay, trời chẳng nể ông Tây! Gái tơ ñi lấy làm hai họ, Năm mới vừa sang ñược một ngày. Hàng phố khóc bằng câu ñối ñỏ, Ông chồng thương ñến cái xe tay! Gớm ghê cho những cô con gái, Mà vẫn ñua nhau lấy các thầy! (Mồng hai tết, viếng cô ký) Bài thơ, ngay từ ñầu ñã mở ra mối quan hệ tay ba phức tạp giữa cô ký, thầy ký và quan Tây. Bởi lẽ, cô ký chết nhưng tác giả không tỏ ý thương cô, cũng không phải thầy ký mà lại buông lời than tiếc ông Tây. Câu chuyện ñến ñây mới ñược vỡ lẽ: Thầy ký vừa làm trong công sở, vừa mở một hiệu cho thuê xe tay. Để tiện cho việc làm ăn, thầy ta lấy một cô vợ hai rất trẻ rồi cho cô ñi "giao thiệp" với viên cẩm Tây. Cố nhiên, viên cẩm Tây mắc kế mỹ nhân và ñể thầy ký hưởng khá nhiều quyền lợi. Nhưng rủi thay, cô ký lại chết. Nhà văn Nguyễn Tuân, vì thế, viết: "người làm thơ có nhắc ñến một ông Tây và một cái xe tay. Tôi cho rằng hai hình ảnh ñó mới là cái hứng vị chính của bài thơ hiện thực một cách mỉa mai này" [1, tr. 304]. Lời than vãn "Ô hay trời chẳng nể ông Tây" của Tú Xương mang ý châm biếm, thương cho ông Tây mất một thứ ñồ chơi. Nhưng chưa dừng lại ở ñó, tính chất hài hước của câu chuyện còn ñược ñẩy lên ñến mức cay ñộc: cô ký chết vào ngày mùng hai tết, ngày ñó người ta còn mải vui với niềm vui năm mới của mình, nào có ai quan tâm ñến cái chết của cô. Thực tế thì, người chết cứ chết, người ăn tết cứ ăn tết. Ngay cả ñến ông chồng cũng chỉ thương ñến cái sự nghiệp xe tay từ ñây dang dở vì không có cô. Mối quan hệ giữa con người với con người sao mà nhạt nhẽo, bạc bẽo. Sự suy thoái ñạo ñức này sở
  3. 70 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI dĩ bắt ñầu từ thái ñộ coi trọng ñồng tiền của con người trong xã hội ñó. Vì tiền mà những kẻ làm chồng sẵn sàng ñem vợ mình ra ñể ñánh ñổi lấy chút lợi danh. Tình nghĩa phu thê ñơn giản chỉ là một vụ hợp tác ñể làm ăn sao cho thuận tiện. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng có ý kiến tương tự: "Trong cái quan hệ nam nữ này, trong cái quan hệ Pháp - Nam này, trong cái quan hệ bộ ba này cơ sở chính là gì? Là tình thương ư? Là tình yêu ư? Không, ñộng cơ chính là cái xe tay (...). Động cơ là tiền, ñồng tiền buôn bán giữa lúc Tây mở tỉnh" [1, tr. 304]. Sự tham dự của yếu tố văn xuôi vào thơ góp phần ñáng kể trong việc gia giảm các cung bậc khác nhau của tiếng cười trong thơ trào phúng Tú Xương. Trong những câu chuyện ñời, chuyện người ñược nhà thơ tái hiện không phải lúc nào tiếng cười cũng bi phẫn, chát chúa, ñẫm nước mắt. Đôi khi, ñó chỉ là những lời trào tiếu nhẹ nhàng như tếu táo, bông ñùa dí dỏm mà vẫn ñủ ñể người ñọc dễ dàng theo dõi ñược diễn biến câu chuyện cũng như tình cảm mà tác giả gửi gắm: Đêm qua anh ñến chơi ñây, Giày giôn anh dận, ô tây anh cầm Rạng ngày, sang trống canh năm, Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ. Hỏi ô, ô mất bao giờ Hỏi em, em cứ ậm ờ không thưa. Chỉn e rầy gió mai mưa Lấy gì ñi sớm về trưa với tình? (Đi hát mất ô) Nhân việc một nhà nho (có người cho rằng nhà thơ Đức Đình) lên tỉnh chơi hát ả ñào có cái ô ñẹp bị cô ñầu nẫng mất, tiếc của lại bực mình, ông này nhờ Tú Xương làm bài thơ ñả kích nhà hàng ñó. Câu chuyện về việc mất ô ñược kể tỷ mỉ, chi tiết: mất ở ñâu, mất trong trường hợp nào, và có thể ñoán ñược người ăn cắp căn cứ vào thái ñộ "ậm ờ không thưa" ñầy nghi hoặc: "Câu chuyên kể lại bằng thơ ít lời nhưng ñủ sự việc, tình tiết không kém gì lời văn xuôi, có thể làm thoả mãn ñược một ông quan toà dự thẩm, và có thể làm mẫu cho một cách giảng văn ở một lớp văn nào". Yếu tố trữ tình trong bài có lẽ chỉ ñược thể hiện rõ ở hai câu thơ cuối. Nhưng cũng chỉ cần hai câu thơ cuối mà cứu vãn ñược cả một ñoạn trên ñể không biến nó thành văn xuôi. Nỗi niềm của nhân vật trữ tình trong bài ñược bộc lộ khiến câu chuyện có phần dung tục, kém thi vị này chuyển sang một hướng khác: "Bài thơ nổi gió lên từ hai câu cuối cùng. Từ một câu chuyện ăn cắp ñồ vật, ñáng lý chỉ gây nổi một chút tiếc của, Tú Xương trang trọng nâng nó lên thành một nỗi niềm hồi
  4. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 71 hộp xót thương của những cặp tình nhân muôn thuở (...) Bên cái tục tằn, Nguyễn Tuân lồng một nét thanh, Tú Xương lấy cái trong trắng mà gạn lọc ñi cái vẩn ñục và hút nó lên theo với thơ mình" [1, tr. 67]. Bài thơ, sau khi ñược lưu truyền ñã khiến tác giả của nó chẳng những ñược nhà hàng xin lỗi mà còn ñược bồi hoàn lại tiền. Dĩ nhiên, nhà thơ Tú Xương lại là người viết lời phúc ñáp bằng một bài thơ theo lối lẩy Kiều khác. Như vậy, khi chất văn xuôi ñã thâm nhập vào thơ ca nó sẽ tạo cho thơ có khả năng của những ký sự, phóng sự: ghi chép những người thật, việc thật khiến thơ lúc nào cũng mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Trong thơ trào phúng của Tú Xương, tính lịch sử, cụ thể, chân thực của những bức tranh người thực, việc thực chính là một ñặc trưng tiêu biểu của thơ ông. 2.2. Sự kiện, con người mang tính lịch sử - cụ thể, chân thực và sinh ñộng Các nhân vật, sự kiện trong tác phẩm của Tú Xương như bước thẳng từ cuộc ñời vào trang sách. Cho nên, trong thơ ông chất nhựa từ cuộc ñời lúc nào cũng nóng hôi hổi bởi những tên người, tên việc cụ thể. Người ta không khó khăn ñể tìm kiếm tư liệu về cuộc ñời, sự nghiệp, thân thế, nơi ăn chốn ở của họ. Tác giả Vương Trí Nhàn cho biết: "Theo ghi nhận của nhà văn Nguyễn Công Hoan, một người nổi tiếng có trí nhớ tốt và ñã có một thời gian dài dạy học ở Nam Định, thì hầu hết các nhân vật ñược nhắc tới trong thơ Tú Xương có ñịa chỉ thật ở ngoài ñời. Các bài thơ hình thành như một cách ñể tác giả ñánh dấu những gương mặt mà mình từng biết và phải chung sống" [1, tr. 371]. Điều ñó không những không làm phương hại ñến hình ảnh nhân vật ông miêu tả mà còn giúp ông bộc lộ rõ hơn thái ñộ, tình cảm tới nhân vật ñó. Trong những bài thơ trữ tình như Gửi ông thủ khoa Phan, ta thấy ông gọi tên họ ñể bày tỏ sự kính trọng, ngưỡng mộ. Trong thơ trào phúng, ông gọi tên nhân vật ñể bày tỏ sự thân mật, suồng sã và cả lòng yêu mến với người ñược nhắc ñến trong bài. Chẳng hạn trong bài Bỡn ông ấm Điềm nhà thơ ñã chơi chữ "ấm" ñể ñùa trêu người bạn của mình: Ấm không ra ấm, ấm ra nồi, Ấm chạy loăng quăng, ấm chẳng ngồi. Chén cả ñồ chuyên cùng chén mẫu Luộc giò, nấu thịt, lại ñồ xôi. Ấm vốn là danh hiệu ñể chỉ con quan. Ông ấm Điềm vốn quê ở Thừa Thiên, gia cảnh sa sút mới ra Nam Định làm ăn, nhà cũng ở phố Hàng Nâu. Hoàn cảnh ra ñời bài thơ này theo như nhà thơ dẫn giải trong bản chữ Nôm AB.194 là: "Ông ấm Điềm ñang ngồi chơi với ta, một chốc bỗng thấy con bé con là người nhà bà Hai Đích tới gọi: Ông ấm ơi, ông về gói hộ bà tôi vài cái giò. Ông ấm lấy làm buồn cười, hỏi mãi thì hoá ra chủ nhà nó sai
  5. 72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI nó gọi thằng ấm, nhưng nó nghe nhầm ra ông ấm. Buồn cười quá ta mới bỡn ông ấm". Bài thơ, như vậy, ñược viết ñể trào tiếu cho vui. Nhà thơ cũng chế giễu cái danh hiệu cậu ấm của bạn bằng cách lái nó sang nghĩa chỉ cái ấm là dụng cụ pha trà. Buồn cười hơn là nếu ñó là dụng cụ pha trà thì hãy còn quý sang. Nhưng ấm "nồi" này lại không ñánh bạn với các thứ chén, tách nữa mà chuyển sang làm việc ninh nấu của nồi. Ấm cũng chẳng còn ra ấm nữa. Bài Vịnh cô Cáy chợ Rồng cũng ñược viết theo lối hài hước ñó. Nhà thơ cũng dùng cách chơi chữ tên cô ñể luận ra cả một họ hàng nhà cáy: Ai ñẹp hơn cô Cáy chợ Rồng Mình cô thì một, chợ thì ñông. Giời còn bể ñó, tuỳ ngang dọc, Người phải cua ñâu, chớ hãi hùng. Buôn trứng những toan kề cửa lỗ Sợ còng chẳng dám ñộng chân lông. Hỡi ai thiên hạ, ra cùng rốc Yếm trắng như cô phải chọn chồng Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Đoàn trong bài Thêm một tư liệu về thơ Tú Xương, cụ nội của ông ñã từng cùng Trần Như Khê và Tú Xương ñến chợ Rồng xem mặt cô Cáy. Nhan sắc của cô ñược cụ diễn tả bằng những từ như "tiểu kiều tuyệt xinh","tuyệt thế", "Tôi trông cũng thấy mê hồn"... Nguyên cô Cáy người làng Phú Ốc (ngoại thành Nam Định) bán gạo ở chợ Rồng. Cô này ñẹp nên hay bị bọn con trai trêu ghẹo. Nhưng cô cũng rất ghê gớm nên thường cự lại. Nhà thơ, tuy có dùng chữ cua, cáy ñể trêu ñùa tên cô nhưng vẫn tỏ rõ sự thiện cảm trước một tư cách ñoan trang, mạnh bạo. Tuy nhiên, phần ña các nhân vật ñược Tú Xương chỉ mặt gọi tên trong thơ ñều bị tác giả bày tỏ thái ñộ không thiện cảm, thậm chí khinh bỉ, căm ghét, căm phẫn. Có lẽ khi gọi tên các nhân vật này Tú Xương mới thể hiện một quan niệm khá phổ biến trong dân gian xưa: người ta thường réo tận tên tục ra ñể chửi khi muốn tỏ ra không tôn trọng ai ñó (Nguyễn Trãi cũng ñã dùng cách này khi gọi giặc Minh là giặc Ngô trong Đại cáo bình Ngô). Thơ trào phúng của Tú Xương vì thế ñược ví như bản cáo trạng chỉ ñúng người, ñúng tội với những kẻ vội vàng chạy theo phong trào Âu hoá ñến lố lăng, kệch cỡm, hoặc bất nhân, hoặc tha hoá vì ñạo ñức, hoặc bất chấp tất cả chỉ vì tiền... Đáng nói là số lượng nhân vật này khá nhiều. Theo tác giả Trần Thị Trâm trong bài Tú Xương - những phóng sự bằng thơ, có ñến 45 nhân vật trong sáng tác của Tú Xương bị lôi ñích danh tên cúng cơm ra mà réo gọi. Từ mụ Tuần Quang, mụ Bố Cao lẳng lơ nhưng ñóng vai mệnh phụ ñức hạnh, ñến Ấm Kỉ, Đô Mĩ, chú Tiểu Long phù mất nết, quen thói giăng hoa; từ cụ thượng
  6. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 73 Cao, quan Cử Nhu, tri phủ Xuân Trường, Thành Pháo, cử Thăng ñến Huấn Mĩ, tú Tây Hồ, ông Bát, Lê Tuyên... Nào tay Thọ nhu nhược ñể vợ chơi nhăng, ông Hàn phố hàng Song, Vũ Tuân, Lê Sĩ Nghị, tranh nhau cái thủ khoa năm Canh Tý; nào cô Ký vì cơ nghiệp của chồng mà thực hiện kế mỹ nhân, rồi lão Hàn bị vợ doạ bỏ. Nào ông lang Xáng, chú Triều Châu, nào bà Hanh Tụ... [1, tr. 365]. Chẳng hạn như: Cử nhân: cậu ấm Kỷ Tú tài: con ñô Mỹ (Than sự thi) Sơ khảo khoa này bác cử Nhu. Thực ra vừa dốt lại vừa ngu (Ông cử Nhu) Năm nay ñỗ rặt phường hay chữ Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba. (Khoa Canh Tý) Và còn bao nhiêu kẻ xấu nết: kẻ mới phất, rởm ñời, trưởng giả học làm sang nữa.Tú Xương là một nhà thơ lớn bởi ông là người ñầu tiên góp cho lịch sử dân tộc những phóng sự bằng thơ vô giá qua những câu chuyện về người thực, việc thực như thế. 2.3. Thời gian và không gian cụ thể Làm nên tính chân thực trong nội dung phản ánh của thơ Tú Xương còn phải kể ñến sự hỗ trợ của những thông số thời gian, không gian cụ thể. Có rất nhiều bài thơ của ông nêu chính xác, cụ thể ñịa ñiểm, thời gian ñến mức người ñọc hôm nay có thể căn cứ vào ñó ñể tra cứu như thể một tư liệu lịch sử. Đọc những bài thơ như: Đất Vị Hoàng, Phố Hàng Song, Tự cười mình, Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, Phú hỏng thi khoa Canh Tý..., ta thấy rằng, văn xuôi thực sự ñã có mặt trong những dòng thơ ấy ñể ñịnh vị chính xác hoàn cảnh của nhân vật trữ tình. Những yếu tố này trên thực tế ñã kìm hãm ít nhiều tính chất lãng mạn, bay bổng thường thấy của thi ca. Thế nhưng những cứ liệu chân xác trên cũng ñồng thời tạo dựng ñược niềm tin cho người ñọc về thứ cảm xúc có thật bùng phát trên cái lõi sự kiện có thật. Nói về thời gian, nếu như các nhà thơ trung ñại cảm nhận thời gian của cuộc ñời con người thường ngắn ngủi, chóng tàn ñối lập với thời gian vũ trụ tĩnh tại, bất biến có tính chung chung thì Tú Xương lại cảm nhận về thời gian bằng những dấu mốc cụ thể. Ngoài ra, thời gian trong thơ ca trung ñại còn chịu sự quy ñịnh của quy luật cảm thụ toàn vẹn, nhìn mọi sự với toàn bộ quá trình như sự tuần hoàn của thời gian thiên nhiên qua ngày
  7. 74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI ñêm, qua bốn mùa, qua sự sống, cái chết. Với cách cảm nhận như vậy, các nhà thơ trung ñại thường có ý niệm lý tưởng hoá thời cổ xưa. Tú Xương thì khác, thời gian trong thơ Tú Xương là thời gian hiện tại. Nếu có là quá khứ thì ñó cũng là quá khứ rất gần thực tại và ñể làm rõ cho con người hay sự kiện ñang ở thực tại mà thôi. Ngay nhan ñề của bài thơ, tác giả ñã ghi dấu lại khoảng thời gian cho cụ thể ñó: Mồng hai tết viếng cô Ký, Hỏng thi khoa Quý Mão, Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu... Trong bài thơ, nếu ñó không phải là một thời khắc cụ thể thì cùng lắm cũng là ñêm qua, ñêm nay, xuân này, ngày nay, hay thời gian tết gắn với một sự việc, con người cụ thể ñang diễn ra. Sách ñèn học tập năm Minh Mệnh (Ông lão) Tết nhất năm nay khéo thật là (Sắm tết) Đạo học ngày nay chán lắm rồi (Than ñạo học) Tiến sĩ khoa này ñỗ mấy người (Ông tiến sĩ mới) Tính chất phóng sự, ñưa tin của các bài thơ còn giúp ông phản ánh ñược diễn biến của những câu chuyện ngay khi nó vừa xảy ra. Vì vậy, ông không hoài niệm nhiều về dĩ vãng như chúng ta thường thấy trong thơ của các nhà thơ thời trước. Ngay trong bài thơ có tên Vị Hoàng hoài cổ ta cũng thấy tác giả cảm sự biến ñổi hơn là nhớ tiếc. Cái thời hoàng kim của một vùng ñất "phong vận, ñất nhiều quan" chỉ ñược ñưa ra ñể so sánh với những ñổi thay của con người, của cảnh vật hôm nay. Với ý nghĩa thời gian ñó qua các bài thơ, Tú xương ñã làm ñổi mới quan niệm về thời gian trong thơ trung ñại. Trời kia xui khiến sông nên bãi Ai khéo xoay ra phố nửa làng Khua múa trống chiêng chùa vẫn nức Xì xèo tôm tép chợ hầu tan (Vị Hoàng hoài cổ) Về không gian, mô hình không gian nghệ thuật cơ bản trong thơ trung ñại là không gian vũ trụ trong ñó ñã lần lượt xuất hiện không gian nhàn tản ẩn dật, không gian hoang dại tiêu ñiều biến dịch, không gian luân lạc, tha phương... Thoát khỏi tính ước lệ truyền thống, thơ Tú Xương không hướng ñến vũ trụ, không ñăng cao viễn vọng... mà hướng những ñường phố, những xóm cô ñầu, những mom sông, những ngôi nhà, cao lâu... Tú Xương
  8. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 5/2016 75 hướng người ñọc tới một không gian mang tính thế sự, không gian của ñời sống thường nhật hàng ngày, nơi ñó diễn ra bao nhiêu vấn ñề nhỏ nhặt của cuộc sống cá nhân nhà thơ và những người xung quanh ông như: phố hàng Song, xã Vị Xuyên, chợ Rồng... Ở phố hàng Song thật lắm quan (Phố hàng Song) Áo mũ ăn ngồi xã Vị Xuyên (Ông lão) Chợ Rồng chợ Bến dạo xa chơi (Thi cơm rượu) Một ñiều khác biệt nữa là, nếu không gian trong thơ cổ thường tĩnh tại, thì người ta lại thấy trong không gian trong thơ Tú Xương ồn ào, sôi ñộng, ñông ñúc và ngồn ngộn chất sống của ñời sống phố thị. Con người trong thơ ông vì thế không có vẻ thung dung, nhàn tản ñể chiêm nghiệm, tư lự kiểu "một mảnh tình riêng ta với ta". Họ không có thời gian cho những suy nghĩ riêng tư thì phải vì ñang bị cuốn vào guồng quay hối hả, hỗn ñộn và cũng không kém phần bất an của cuộc sống ñang trong giai ñoạn thị dân hoá. Ậm ọe quan trường miệng thét loa (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu) Khách năm ba kẻ bi bô nói (Khen người hàng Sắt) Xì xèo tôm tép chợ hầu tan (Vị Hoàng hoài cổ) Thầy khoá tư lương nhấp nhổm ngồi (Than ñạo học) Đó thực sự là không gian của ñời sống trần tục. Một không gian nhốn nháo, xô bồ, ầm ĩ, chật chội, ngột ngạt. Cái dáng nhấp nhổm ngồi của thầy khoá tái hiện tư thế bất an của cả một lớp người trong xã hội sống ñầy rẫy những tính toán thực dụng của những kẻ ham tiền, hám sắc. Đây ñúng là hiện thực của xã hội thị dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX ñầu thế kỷ XX. Tú Xương liệt kê ra 39 cái tên ñịa danh chỉ trong cái thành Nam nhỏ xíu của tác giả có lẽ cũng ngầm thể hiện ý này. Những cái tên: Nam Định, Vị Xuyên, Vị Hoàng, Hàng Song, Hàng Nâu, Hàng Thao, phố Giấy, Tràng Lạc, Viễn Lai, non Côi, sông Vị, chợ Rồng, chợ Bến... ñã làm sống lại một thời, làm thơ ông như một bức tranh sinh ñộng mang hơi thở thời kỳ bát nháo Á - Âu lẫn lộn, cũ mới giao tranh? Ông ñã giải thiêng tất cả những gì thuộc về lý tưởng, khuôn thước mẫu mực ñể trả về ñời sống cái vẻ ngoài trần tục như nó
  9. 76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI vốn có. Trần Thị Trâm nhận xét: "Ông xứng ñáng là nhà thơ tiên phong và cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất trong việc viết về người thực, việc thực, ông ñã ñưa nghệ thuật trở về với cuộc sống thường nhật của con người" [1, tr. 369]. Cuối cùng, khi nói về ñặc ñiểm không gian, thời gian trong thơ Tú Xương, chúng tôi xin mượn lời của giáo sư Nguyễn Huệ Chi làm ý khái quát: "Thơ Tú Xương ñã có những ñổi mới về không gian, thời gian. Đó cũng chính là yếu tố làm cho thơ ông mang ñậm chất tự sự" [1, tr. 368]. Nếu so sánh với thơ cổ ñiển rõ ràng không gian trong thơ Tú Xương có sự ñổi mới và cách tân theo hướng hiện ñại hoá rõ ràng. Đây chính là những ñóng góp rất lớn của Tú Xương trên con ñường cách tân thơ truyền thống. 3. KẾT LUẬN Như vậy, sự tham gia của yếu tố tự sự trong quá trình sáng tác ñã tạo nên cho thơ trào phúng Tú Xương một diện mạo khác biệt. Mỗi bài thơ ông viết ñều như một câu chuyện kể trong ñó các nhân vật, sự kiện ñều ñược khắc hoạ cụ thể, rõ ràng. Tú Xương ñã phá vỡ những khuôn vàng thước ngọc thuộc về tính quy phạm, chuẩn mực của văn học trung ñại ñể ñưa thơ trào phúng trở về gần với hiện thực hơn. Ngẫm lại trong văn chương, ñể ñược lưu truyền hậu thế phải là cái gì ñó thật tròn trịa, thật lưu loát, hoặc là cái gì ñó thật khô ráp sần sùi. Cho nên, chính cái giọng trào lộng cùng với sự cách tân táo bạo ñối với thơ truyền thống lại hấp dẫn ñộc giả, làm cho thơ Tú Xương trở thành một hiện tượng ñặc biệt. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhiều tác giả (2001), Trần Tế Xương về tác gia, tác phẩm, Nxb Giáo dục. 2. Nhiều tác giả (1999), Thơ Nôm Tú Xương, Nxb Hội nhà văn Việt Nam. 3. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục. 4. Trần Nho Thìn (2009), Văn học trung ñại Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam. THE AUTOBIOGRAPHICAL ELEMENTS IN EPIGRAMMATIC POETRY OF TRAN TE XUONG Abstract: Abstract Skipping direct expression in poem facilitated the entry of autobiographical elements. Tran Te Xuong (another name: Tu Xuong) was one of the first poets who did such innovation in his works. Each of his poems portrayed a real story, which its character was named specifically. Especially, time and space in poems of Tu Xuong were also featured by time and space of prose. Keywords: Keywords Tu Xuong poet, autobiographical, epigrammatic poetry.
nguon tai.lieu . vn