Xem mẫu

  1. NHÌN XA HƠN CÁC TRƯỜNG ðẠI HỌC ðỈNH CAO: HƯỚNG TỚI MỘT CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG ðỐI VỚI CẢI CÁCH GIÁO DỤC ðẠI HỌC Ở VIỆT NAM Tháng 6 năm 2010 ** ðây là bản thảo. ðề nghị không ñược phổ biến hay trích dẫn nếu chưa có sự ñồng ý chính thức của các tác giả. Mọi ý kiến ñóng góp cho bản thảo xin vui lòng gửi cho Ben Wilkinson (ben_wilkinson@harvard.edu) và Laura Chirot (laurachirot@gmail.com).**
  2. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 2 / 148 Lời nói ñầu ðây là báo cáo nghiên cứu thứ hai do Trường New School và Chương trình Việt Nam thuộc Trung tâm Ash tại Trường Kennedy, ðại học Harvard thực hiện, với sự tài trợ của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) tại Việt Nam. Bài thứ nhất, “Những nhân tố vô hình tạo nên sự ưu tú: Hệ thống quản trị và cuộc tìm kiếm con ñường xây dựng một trường ñại học nghiên cứu ñỉnh cao cho Việt Nam” hoàn tất vào tháng 6 năm 2009 và ñược bổ sung hoàn thiện vào tháng 1 năm 2010. Hai ñề tài ñược UNDP tài trợ này bắt nguồn ý tưởng từ một công trình nghiên cứu có tính mở ñường từ mười năm trước của Tổ Công Tác về Giáo dục ðại học và Xã hội do Giáo sư Henry Rovosky và Giáo sư Mamphela Ramphele thuộc ðại học Cape Town làm ñồng chủ tịch. Tổ Công Tác này ñược Ngân hàng Thế giới và Ủy ban Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO) thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu những thách thức trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục ñại học ở các nước ñang phát triển. Kết quả nghiên cứu chính của nhóm này ñã ñược công bố năm 2000 trong một bản báo cáo có tên “Những mối ñe dọa và triển vọng: Giáo dục ñại học ở các nước ñang phát triển”.1 Bài nghiên cứu này do các tác giả Laura Chirot của Trường New School và Ben Wilkinson của Chương trình Việt Nam thuộc Trường Kennedy, ðại học Harvard thực hiện. Phần viết về tài chính giáo dục ñại học và sự mở rộng quy mô ñào tạo do Tiến sĩ Trần Thị Quế Giang, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright thực hiện; phần phụ lục có sự ñóng góp của Giáo sư Philip Altbach, Trường Boston College, Tiến sĩ Malcolm McPherson, Trường Kennedy thuộc ðại học Harvard và Giáo sư Võ Tòng Xuân, ðại học An Giang. Bản dịch tiếng Việt là của Phạm Thị Ly và Bùi Mạnh Hùng. Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu này, các tác giả ñã nhận ñược rất nhiều ý kiến ñóng góp và phản hồi từ nhiều cá nhân trong và ngoài nước. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những cá nhân sau ñây: Bob Kerrey, Trường New School; Markus Urek, Trường New School; Giáo sư Henry Rosovsky, ðại học Harvard; Tom Vallely, Giáo sư David Dapice, và Tiến sĩ Jonathan Pincus, Chương trình Việt Nam thuộc ðại học Harvard; Giáo sư Philip Altbach; Phó Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Trường ðại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh và Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright; Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright; Tiến sĩ Phạm Thị Ly, ðại học Hoa Sen; Giáo sư Huỳnh ðình Chiến, ðại học Huế; Giáo sư Võ Tòng Xuân, và nhiều người khác ở Việt Nam ñã dành thời gian chia sẻ tri thức và quan ñiểm của họ với chúng tôi. Chúng tôi biết ơn các ñồng nghiệp tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright ñã nhiệt tình dành thời gian cho quá trình dịch và hiệu ñính bài viết. Các bạn Christopher Behrer, Hoàng Bảo Châu, Nguyễn Thị Diễm My, Nguyễn Thục Minh và Văn Thị Quý ñã hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu và viết báo cáo này. Chúng tôi cảm ơn UNDP ở Việt Nam về những hỗ trợ tri thức vô giá trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài viết. 1 Từ ñây ñược gọi tắt là “Những mối ñe dọa và triển vọng”. Toàn văn bài này có thể tải về từ trang web của Tổ Công Tác: http://www.tfhe.net. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  3. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 3 / 148 TÓM TẮT Nhìn chung, hệ thống giáo dục và ñào tạo của nước ta ñang tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Thực trạng này ñã sớm ñược phát hiện. ðảng và Nhà nước ñã có nhiều nghị quyết và chủ trương ñúng ñắn mà chưa ñược thực hiện nghiêm túc. Mấy năm qua, chúng ta ñã trăn trở tìm tòi cách giải quyết, nhưng tình hình chuyển biến rất chậm. Cho ñến nay, vẫn còn những quan ñiểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau chưa ñược ñưa ra trao ñổi, bàn bạc ñể tìm ra phương sách chấn chỉnh có hiệu quả. Sự yếu kém, bất cập kéo dài của hệ thống giáo dục và ñào tạo ñã có ảnh hưởng không nhỏ ñến sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. ðại tướng Võ Nguyên Giáp, VietnamNet, 2007. Ở Việt Nam thời gian qua rất nhiều người ñồng tình có chung nhận ñịnh rằng giáo dục ñại học thật sự cần một cuộc cải cách sâu rộng. Nhận ñịnh chung thống nhất này là của nhiều giới, từ sinh viên và phụ huynh, những nhà trí thức và các chuyên gia giáo dục trong xã hội, cho tới các nhà hoạch ñịnh chính sách cấp cao nhất của chính phủ. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào nguồn nhân lực có chất lượng cao mà hệ thống giáo dục ñại học hiện nay chưa thể cung ứng ñược. Ngày càng nhiều gia ñình chọn giải pháp gửi con ra nước ngoài học ñại học, thậm chí trung học ñể có thể tiếp nhận ñược những năng lực và phẩm chất cần thiết ñể có thể thành công trong một nền kinh tế toàn cầu ñang thay ñổi hết sức nhanh chóng. Tuy nhiên, du học nước ngoài là con ñường chỉ dành cho một số ít người xuất sắc và may mắn có ñiều kiện. ðể phát triển một cách công bằng cho mọi người, tạo ñiều kiện cho nhân tài và phát huy cao nhất tiềm năng kinh tế của mình, Việt Nam phải cải thiện hệ thống giáo dục ñại học trong nước. Các nhà lãnh ñạo Việt Nam nhận thức rất rõ mức ñộ nghiêm trọng của tình hình này. Từ năm 2005 ñã có Nghị quyết 14 của Chính phủ (Số 14/2005/NQ-CP) về “ðổi mới cơ bản và toàn diện nền giáo dục ñại học”. Tiếp theo ñó là một loạt những chính sách và kế hoạch kêu gọi cải cách gần như tất cả mọi khía cạnh của hệ thống giáo dục ñại học trong nước. Tháng 4 năm 2009 Bộ Chính Trị nhận ñịnh “Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém và là nguyên nhân chủ yếu của nhiều yếu kém khác.”2 Tháng Giêng năm 2010 Ban Cán sự ðảng Bộ GD&ðT ra nghị quyết về “ðổi mới quản lý giáo dục ñại học” cho giai ñoạn 2010 – 2012. Văn bản này nêu rõ hơn mối quan hệ giữa quản lý và chất lượng: “Trong thời gian tới, trước nhu cầu ñào tạo tăng nhanh của xã hội, số lượng các trường ñại học sẽ tiếp tục tăng, nếu không có các giải pháp ñổi mới quản lý toàn diện, quyết liệt, có tính ñột phá thì không thể nâng cao ñược chất lượng ñào tạo…”3 Tháng Năm năm 2010 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoàn thành báo cáo ñiều tra về : “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, ñầu tư và ñảm bảo chất lượng ñào tạo ñối với giáo dục ñại học” trong ñó chỉ ra những lỗ hổng trong quy ñịnh khung về trách nhiệm giải trình.4 Bản báo cáo này cũng ñưa ra cơ sở có tính thực tế cho các nỗ lực của chính phủ nhằm hoàn thiện bộ khung pháp lý ñồng thời xác ñịnh rõ ràng hơn trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khác nhau và của các trường ñại học. 2 Kết luận 242-TB/TU, 15/14/2009. 3 Nghị quyết 5-NQ/BCSD, 6/1/2010 4 Báo cáo 329/BC-UBTVQH12, 26/5/2010. p ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  4. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 4 / 148 ðây là phần thứ hai trong một nghiên cứu gồm hai phần do UNDP tài trợ liên quan tới thực hiện cải cách giáo dục ñại học ở Việt Nam. Cả hai phần ñều nhằm mục ñích hỗ trợ cho quy trình soạn thảo chính sách mà nhà nước ñang tiến hành. Phần ñầu thảo luận về một mục tiêu quan trọng trong kế hoạch cải cách của nhà nước: xây dựng một trường ñại học ñỉnh cao. Nội dung của phần này là những lập luận cho thấy cách tiếp cận mục tiêu xây dựng một trường hàng ñầu của Việt Nam hiện nay ñang ñề cao một cách quá mức những yếu tố ñầu vào chẳng hạn như ngân sách và hạ tầng cơ sở, và do vậy làm giảm nhẹ tầm quan trọng của những nhân tố vô hình khác có ý nghĩa không kém phần quyết ñịnh ñối với kết quả ñầu ra, ñó là một cơ chế quản trị có hiệu quả. Một hệ thống nhân sự dựa trên tài năng và phẩm chất, một chính sách kiên ñịnh ñảm bảo tự do trong nghiên cứu khoa học và mức ñộ tự chủ cao ñối với các vấn ñề quản lý ñiều hành và học thuật là ñiều kiện tiên quyết ñể ñạt ñược sự ưu tú trong giảng dạy và nghiên cứu, như có thể thấy rõ trong trường hợp các trường hàng ñầu của Trung Quốc và Ấn ðộ. Những nguyên tắc về quản trị nói trên có thể áp dụng với mọi tổ chức học thuật nhưng ñối với các trường ñại học nghiên cứu thì nó ñặc biệt tối quan trọng. Những trường ñại học này kết nối các quốc gia với các hệ thống tri thức chung toàn cầu, ñồng thời thu hút và ñào tạo những học giả, những nhà khoa học ưu tú nhất của các nước. Bài nghiên cứu thứ hai này nhìn xa hơn việc xem xét vấn ñề các trường ñỉnh cao ñể ñề xuất một bộ khung chính sách mang tầm hệ thống nhằm xây dựng và triển khai một hệ thống giáo dục ñại học hiện ñại, rộng khắp và có chất lượng tại Việt Nam. ðộng lực của những phân tích trong bài này là những câu hỏi bức thiết và phức tạp mà các nhà hoạch ñịnh chính sách giáo dục ñại học hiện ñang phải ñối mặt: ðâu là cái giá phải trả về mặt chất lượng ñào tạo khi mở rộng số lượng sinh viên? Cơ chế thị trường có vai trò gì trong giáo dục ñại học? Các trường ñại học và cao ñẳng có thể làm gì trong việc giúp trang bị kiến thức và kỹ năng cho sinh viên ñể họ có thể ñóng góp cho sự phát triển của ñất nước Việt Nam? Làm thế nào ñể các tiêu chuẩn ñược tuân thủ trong một hệ thống có tới gần hai triệu sinh viên và 400 trường ñại học và cao ñẳng? Liệu chế ñộ phân cấp có giúp ích gì không? Cái gì sẽ dẫn dắt quá trình chuyển ñổi từ hệ thống giáo dục ñại học do nhà nước kiểm soát sang một hệ thống gồm các trường tự chủ do nhà nước giám sát, như quan ñiểm của Nghị Quyết 14? ðây là những câu hỏi mấu chốt mà mọi cải cách ở tầm hệ thống phải tìm cách trả lời. Việt Nam thường ñược cho là nước có lợi thế của người ñi sau trong các cuộc cải cách kinh tế xã hội của mình nhờ các bài học từ kinh nghiệm quốc tế. Tất nhiên diều này cũng ñúng trong lĩnh vực giáo dục ñại học. Tại nhiều nước, phải mất nhiều thập kỷ cùng những nỗ lực ñồng bộ người ta mới thiết lập ñược một mạng lưới các trường ña dạng ñể có thể vừa trang bị kiến thức cho số ñông và vừa ñào tạo những người xuất chúng. Cải cách giáo dục ñại học là một quá trình lâu dài và những cải cách của Việt Nam cần tiến hành dựa trên cơ sở những bài học ñược ñúc kết trong quá trình cải cách ở các nước khác. Nhiều văn bản chính sách ñã xác ñịnh những yếu tố mà kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng rất quan trọng ñối với việc cải cách hệ thống, ñó là mức ñộ tự chủ cao, hệ thống ñánh giá kiểm ñịnh chất lượng chặt chẽ, cùng với sự tham gia của cộng ñồng và doanh nghiệp. Bài nghiên cứu này có mục ñích giúp tăng cường những nhận thức ấy thông qua việc ñúc rút kinh nghiệm quốc tế trong những bối cảnh gần gũi với tình huống của Việt Nam. Bộ GD&ðT ñã thực hiện một số bước ñi cụ thể ñể bắt ñầu quá trình ñổi mới. Bộ ñã nâng cao yêu cầu về tính minh bạch, ñặc biệt là qua chính sách Ba Công Khai, và cho phép các trường ñại học ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  5. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 5 / 148 có nhiều quyền kiểm soát hơn ñối với các quyết ñịnh liên quan tới tài chính và vận hành. Các hệ thống giáo dục và thể chế thường thay ñổi rất chậm, phải mất một thời gian nữa người ta mới có thể xem xét và ñánh giá tác ñộng của những bước ñi ban ñầu này. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy những nỗ lực ñổi mới nói chung nhiều khi chỉ nhấn mạnh vào những ñợt vận ñộng và hội thảo ngắn ngày dành cho giới quản lý của các trường ñại học chứ không phải là những thay ñổi một cách sâu sắc cơ cấu của các chính sách quản lý và nhân sự, ñiều rất cần thiết cho những thay ñổi thể chế về lâu về dài. Trong khi ñó, có một sự thật ñáng báo ñộng là hệ thống giáo dục ñại học hiện ñang chệch theo một hướng khác, như những gì mà dư luận trong nước ñã phản ánh và ñược xác nhận qua báo cáo ñiều tra năm 2010 về giáo dục ñại học của Quốc hội. Bài nghiên cứu này cho thấy thương mại hóa ñang là một xu thế rất mạnh trong phát triển giáo dục ñại học. Có thể thấy rõ ñiều này qua hình ảnh các lớp học chen chúc học sinh, các chương trình tại chức chủ yếu là ñể tạo nguồn thu và những trường tư hoạt ñộng vì mục tiêu kinh doanh. Xu thế phân cấp cũng có thể thấy rõ với trách nhiệm ñược chuyển giao về cho chính quyền các ñịa phương và các trường ñại học ngay cả khi chưa có các cơ chế giải trình trách nhiệm phù hợp có thể bảo ñảm cho các quyền lợi chung của xã hội. Việt Nam cần một chiến lược có thể thực hiện ñược dựa trên những giả ñịnh có cơ sở, cùng với một lộ trình thực hiện ñể hướng dẫn việc xây dựng những chính sách cụ thể trong những vấn ñề liên quan, từ ñánh giá chất lượng tới vai trò của các trường ñại học ngoài công lập. Tuy nhiên, dù Bộ Giáo dục và ðào tạo soạn thảo ñi, soạn thảo lại nhiều lần văn bản chiến lược phát triển, những người thực hiện bài nghiên cứu này nhận thấy trong nhiều lĩnh vực chủ chốt, có một khoảng cách lớn giữa mục tiêu của Việt Nam với những hành ñộng chính sách cần thiết ñể ñạt ñược các mục tiêu ñó. Dưới ñây là một số kết luận chính của bài nghiên cứu này dành cho các nhà hoạch ñịnh chính sách phát triển giáo dục ñại học ở Việt Nam. Thứ nhất, một hệ thống giáo dục ñại học ñại chúng thực hiện tốt chức năng của mình là một hệ thống có sự phân chia thứ bậc một cách rõ ràng giữa các trường ñại học và các trường cao ñẳng dạy nghề nhằm ñáp ứng nhu cầu ña dạng của sinh viên và của thị trường lao ñộng. Các trường ñại học nghiên cứu nằm ở vị trí trên cùng trong hệ thống phân tầng này, ñáp ứng ñòi hỏi về khoa học và tri thức ñỉnh cao của toàn xã hội. Dưới ñó là một hệ thống gồm các trường cao ñẳng và ñại học hai, ba và bốn năm, ñược phân loại theo mục ñích ñào tạo chứ không phải theo chất lượng, nhằm tạo ñiều kiện tiếp cận giáo dục cho số ñông sinh viên. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy yếu tố then chốt của việc mở rộng tiếp cận giáo dục bậc cao cho số ñông là hướng các sinh viên mới vào các chuyên ngành, thuộc các trường cao ñẳng cộng ñồng và kỹ thuật. Các dạng thức tổ chức khác nhau ñược kết nối thành một hệ thống liên thông và thống nhất, cho phép sinh viên có thành tích học tập tốt có thể chuyển tiếp lên bậc cao hơn. Việc phân tầng giúp làm giảm sự lãng phí và dư thừa khi các trường ñại học ñua nhau mọc lên, ñồng thời giúp giảm áp lực ñối với ngân sách nhà nước. Trong nhiều văn bản chính sách, Việt Nam ñã xác nhận mục tiêu xây dựng mạng lưới phân tầng của hệ thống của các trường ñại học và cao ñẳng khu vực. Nghị quyết 14 ấn ñịnh tới năm 2020 trong tổng số sinh viên mới vào trường 70 – 80% sẽ theo học các chương trình chuyên ngành. Tuy nhiên, ñến nay vẫn chưa có ñược một chính sách hay một cơ cấu tài chính cụ thể nào ñể hiện thực hóa hay giúp tăng cường những thế mạnh ñặc thù của các loại hình tổ chức trường khác nhau. Trái lại, ñộng lực chính ñối với các trường dạy nghề, cao ñẳng và ñại học lại vẫn là tìm cách tăng nguồn thu nhập. Hậu quả là sự nâng cấp ñại trà từ trường dạy nghề lên cao ñẳng và từ ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  6. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 6 / 148 trường cao ñẳng lên thành ñại học và hàng loạt kế hoạch xây dựng các trường ñại học mới ở tất cả các tỉnh. Có một thực tế là phần lớn các tỉnh không có ñủ năng lực hay nhu cầu cho trường ñại học riêng của mình nhưng tỉnh nào cũng ñược lợi nếu có một hệ thống năng ñộng gồm các trường cao ñẳng cộng ñồng và các trường dạy nghề, phù hợp tình hình và yêu cầu riêng của ñịa phương mình. Ở Việt Nam ngày nay, số lượng sinh viên ñang gia tăng nhưng hầu hết số tăng lên này là sinh viên theo học các chương trình ñại học không chính quy, chỉ tập trung vào một số ngành kinh tế và kinh doanh và thường có chất lượng thấp hơn các chương trình ñào tạo chính quy. Chúng tôi nhận thấy rằng Trung Quốc và các nước khác trong khu vực ðông Nam Á tập trung nguồn lực và sự chú ý vào một nhóm nhỏ các trường ñỉnh cao trong khi trút trách nhiệm ñối với phần còn lại của hệ thống cho chính quyền cấp ñịa phương và cho thị trường. Việt Nam cũng thể hiện xu hướng tương tự một cách ñáng quan ngại. Việt Nam có kế hoạch vay 500 triệu ñô la Mỹ từ các nguồn cho vay ña phương ñể xây dựng bốn trường ñại học ”kiểu mới” nhằm tới cái ñích là một vị trí trong bảng xếp hạng 200 trường tốt nhất thế giới nào ñó trong vòng 10 năm tới, nhưng chưa có một chương trình hành ñộng chính sách nào cho việc xây dựng một hệ thống các trường ñại học, trường kỹ thuật hay trường dạy nghề cấp vùng với chất lượng tốt. Có vẻ như chiến lược này là phó mặc những trường loại này cho thị trường. Cho dù các trường ñại học nghiên cứu là một thành phần hết sức quan trọng trong các hệ thống giáo dục ñại học, việc tập trung một cách phiến diện cho các trường ñỉnh cao sẽ làm cho ñại ña số sinh viên trong các trường ñại học và cao ñẳng khác bị bỏ rơi, tụt lại trong các chương trình hạng hai, chất lượng thấp. Dẫu không có uy thế quốc tế của các trường ñỉnh cao, các trường ñại học và cao ñẳng khu vực vẫn là cơ hội cho các sinh viên khó khăn và các ñịa phương có hoàn cảnh khó khăn, vẫn là cơ sở ñào tạo phần lớn lực lượng lao ñộng của Việt Nam. Tại những nước mà các trường ñại học bị coi là không nhạy bén với việc ñáp ứng nhu cầu của kinh tế (chẳng hạn như Ai-len, Phần Lan) hay tại những nơi sinh viên tốt nghiệp các trường ñỉnh cao thường ra nước ngoài làm việc (như Ấn ðộ chẳng hạn) thì ñội ngũ lao ñộng có tay nghề lại do chính những trường ñại học loại thường và các trường kỹ thuật ñào tạo. Trong chiến lược cải cách của mình các nhà hoạch ñịnh chính sách Việt Nam không nên bỏ qua những trường ở bậc thấp hơn trong hệ thống giáo dục. Chủ ñề thứ hai của bài nghiên cứu này là việc chuyển ñổi từ một hệ thống giáo dục ñại học do nhà nước kiểm soát sang một hệ thống do nhà nước giám sát không có nghĩa là giảm nhẹ tầm quan trọng trong vai trò của nhà nước. Nhà nước là nhân vật chủ yếu ñịnh hướng việc hình thành một hệ thống giáo dục ñại học hiện ñại và ñược thiết kế một cách ñúng ñắn. Trong hệ thống này, nhà nước cần tập trung vào một số ít chức năng như quy hoạch và giám sát nhưng hiệu quả phải ñược nâng cao hơn. Một nghiên cứu gần ñây về Trung Quốc của tố chức OECD cho thấy hệ thống giáo dục ñại học Trung Quốc ñang “thiếu quy hoạch ở tầm chiến lược” nhưng” lại “thừa kiểm soát ở tầm vận hành”. Nhận ñịnh này cũng chính xác với tình hình ở Việt Nam. Những quyết ñịnh quan trọng về chuyên môn hay về việc quản lý ñiều hành như ai thuộc diện ñược ñi học, ai ñược dạy, cái gì ñược phép giảng dạy là do nhà nước quyết ñịnh. Trong khi ñó việc thực thi các chức năng quản lý trong yếu của nhà nước, như quy hoạch phát triển mạng lưới phân tầng hợp lý các trường, hay thực hiện những tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu thì lại rất yếu kém. Bài nghiên cứu này cũng ñưa ra lập luận rằng việc phân cấp cho các cơ quan quản lý nhà nước cấp thấp hơn cũng không phải là một giải pháp tốt. Ở Việt Nam 63 tỉnh thành là những ñơn vị nhỏ lẻ và chính quyền cấp tỉnh còn hạn chế về kiến thức năng lực chuyên môn. Không thể hy ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  7. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 7 / 148 vọng viển vông rằng các Sở Giáo dục và ðào tạo các tỉnh, xưa nay chỉ có nhiệm vụ quản lý hệ thống giáo dục tiểu học và trung học hay coi thi, nay lại có thể gánh thêm trách nhiệm quản lý các trường ñại học. Trường ñại học là những ñơn vị phức hợp, giảng dạy các chuyên môn riêng. Phân cấp quản lý cho các tỉnh không giúp ích gì ñược cho ñà sa sút tiêu chuẩn hiện nay. Một quy hoạch hệ thống và giám sát lành mạnh hơn (cả ở tầm quốc gia và ở cấp vùng) phải gắn với nhiều trường ñược tự chủ hơn nữa. Các tổ chức chuyên ngành có một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên bộ khung này. Việc thiếu vắng một bộ khung giám sát phù hợp ở Việt Nam ñã dẫn ñến tình trạng các trường ñại học ñược tự chủ nhiều hơn nhưng ñộng lực cải thiện chất lượng lại ít hơn. Các nước (cụ thể là các nước Tây Âu) chuyển ñổi từ một hệ thống giáo dục ñại học “do nhà nước kiểm soát” sang một hệ thống “do nhà nước giám sát” bằng cách thiết lập khuôn khổ chính sách cho việc ñiều tiết và khuyến khích nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường ñại học. Những chính sách này - bao gồm quy trình bảo ñảm chất lượng và kế hoạch kiểm ñịnh, một hội ñồng trường vững mạnh, cơ chế phân bổ tài chính dựa trên kết quả hoạt ñộng – sẽ hình thành một hệ thống giáo dục ñại học tự chủ, có tính cạnh tranh với các tiêu chuẩn không ngừng ñược nâng lên. Thứ ba, như ý kiến nhận xét của một số ñại biểu Quốc hội và các nhà bình luận, “xã hội hóa” không phải là giải pháp toàn diện cho mọi vấn ñề trong giáo dục ñại học của Việt Nam.5 Ở Việt Nam vẫn còn nhiều lẫn lộn về vai trò của thị trường trong lĩnh vực giáo dục ñại học. Bài nghiên cứu này phân biệt tính ”thị trường” của giáo dục với ”thương mại hóa” giáo dục. Một thị trường ñược vận hành tốt trong lĩnh vực giáo dục ñại học sẽ có ý nghĩa tích cực. ðặc trưng của nó là sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trường trong việc thu hút sinh viên và nguồn tài chính trong phạm vi một khuôn khổ tiêu chuẩn. Quản trị ñại học theo hướng hiện ñại hóa ñối với hệ thống giáo dục ñại chúng ñòi hỏi phải công nhận vai trò của thị trường và cần có một cấu trúc quản lý phù hợp ñể giúp thị trường này vận hành. Trái lại, thương mại hóa giáo dục có nghĩa là mua và bán kiến thức hay bằng cấp dưới tác ñộng của các tính toán lợi nhuận. Ở Việt Nam bộ khung ñiều tiết quản lý theo cơ chế thị trường mới trong giai ñoạn phát triển sơ khai, trong khi ñó thương mại hóa ñang là xu thế áp ñảo trong cả hai khu vực giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập. Trong nhiều trường hợp những gì nhà nước gọi là “xã hội hóa’ thực chất ñồng nghĩa với thương mại hóa. Hoạt ñộng giáo dục vì lợi nhuận có thể có vai trò ñóng góp tích cực nhưng có giới hạn trong một hệ thống giáo dục ñại học ñượcphân tầng. Các tổ chức vì lợi nhuận có thể cung ứng hoạt ñộng ñào tạo có chất lượng về kỹ năng máy tính, ngoại ngữ, quản trị kinh doanh và những ngành nghề khác. Các khóa học trong các lĩnh vực này không ñòi hỏi ñầu tư nhiều cho cơ sở phòng ốc hay xây dựng ñội ngũ giảng viên chuyên ngành. Thị trường tiềm năng cũng ñặc biệt rộng lớn trong khi chất lượng ñầu vào thì thấp. Tuy nhiên, ít trường hoạt ñộng vì lợi nhuận nào ở Việt Nam có ñủ nguồn lực ñể cung cấp các khóa ñào tạo về lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Những trường loại này thường không quan tâm ñến các ngành khoa học xã hội và nhân văn vì thị trường 5 Tại hội nghị tháng 3-2010, ðại biểu ðào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục – Thanh thiếu niên và Nhi ñồng của Quốc hội, nói: “Xã hội hóa giáo dục theo tôi là vấn ñề rất lớn nên cần phải nghiên cứu kỹ hơn và cần những chính sách cụ thể từ cấp cao nhất. Vấn ñề “vì lợi nhuận” và “không vì lợi nhuận” chúng tôi cũng thống nhất với tên gọi này ñể ñề xuất kiến nghị lên Quốc hội làm rõ.” “ðổi mới giáo dục ñại học – Cần tầm nhìn cao hơn, thấu ñáo hơn”, 31-03-2010, . ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  8. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 8 / 148 quá nhỏ. Hơn nữa, ñộng cơ lợi nhuận sẽ khiến những tổ chức này tiếp nhận sinh viên dựa trên khả năng tài chính của họ chứ không phải là thiên hướng phát triển tri thức hay năng lực xứng ñáng. Xem xét theo hướng này thì quyết ñịnh cổ phần hóa ñại học công hoặc dựa nhiều vào những trường ñại học ngoài công lập hoạt ñộng vì lợi nhuận sẽ có những hậu quả nghiêm trọng ñối với tham vọng của Việt Nam về việc xây dựng một hệ thống giáo dục ñại học có chất lượng, nhằm ñáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. Thứ tư, những mục tiêu ñịnh lượng không khả thi hoặc mâu thuẫn với nhau không thúc ñẩy ñược chương trình cải cách giáo dục của chính phủ. Nhiều cái cũng ñáng là mục tiêu phấn ñấu nhưng lại không ñược hỗ trợ bằng những chính sách hay nguồn lực cần thiết ñể thực hiện. Một số mục tiêu khác lại chứa ñựng mâu thuẫn khiến việc theo ñuổi mục tiêu này sẽ làm phương hại ñến mục tiêu khác. Ví dụ, Việt Nam muốn tăng tỉ lệ tuyển sinh vào các ngành kỹ thuật và công nghệ từ 21% hiện nay lên 35%, tăng số sinh viên theo học trong các ngành khoa học từ mức 2% hiện nay lên 12% 6. Mục tiêu này rất tuyệt vời vì kinh nghiệm quốc tế cho thấy muốn tăng trưởng thành công và bền vững trong các khu vực có giá trị gia tăng cao như chế tạo và công nghệ thông tin thì cần có một ñội ngũ kỹ sư ñông ñảo. Các nước OECD và các nước châu Á ñã ñạt ñược mức tuyển sinh cao vào các ngành kỹ thuật và công nghệ nhờ mở rộng mạnh mẽ các trường và viện kỹ thuật cùng với việc cung cấp những khoản học bổng và tín dụng cho sinh viên trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, Nghị Quyết 14 ñồng thời cũng ñặt mục tiêu ñến năm 2020, 40% sinh viên ñại học, cao ñẳng sẽ học trong các trường ngoài công lập. Sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào các trường tư vì lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn ñến bộ phận các ngành khoa học và công nghệ sẽ giảm ñi so với các ngành kinh doanh hay những ngành có khả năng sinh lời khác. Hiện nay, ñại học ngoài công lập hoạt ñộng trong một bộ khung pháp lý mù mờ và hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn học phí, do vậy các trường này sẽ không có khả năng cung cấp tài chính cho các phòng thí nghiệm, trang thiết bị và những giảng viên có ñủ năng lực cần thiết ñể ñưa các môn học công nghệ và kỹ thuật vào giảng dạy. ðiều này còn ñúng hơn nữa cho các ngành khoa học thuần túy. Vì vậy, việc có thêm nhiều ñại học ngoài công lập khó lòng dẫn ñến nhiều thành tựu hơn trong khoa học và công nghệ. Khoa học và công nghệ có những ñặc tính của hàng hóa công và nếu không ñược nhà nước ñầu tư thích ñáng, thị trường sẽ không cung cấp ñủ thứ hàng hóa này. Những nhà hoạch ñịnh chính sách cũng có xu thế tỏ ra lạc quan một cách phi thực tế về số tiền các trường sẽ huy ñộng ñược từ khu vực tư nhân. Ví dụ, Nghị quyết 14 ñặt mục tiêu ñến năm 2020, 25% nguồn thu của các trường ñại học là từ khoa học và công nghệ (thu từ cung cấp dịch vụ, các khoản tài trợ cho nghiên cứu, bản quyền phát minh sáng chế v.v.). Bộ GD-ðT có ñiều chỉnh lại thành 20% trong dự thảo ðề án Phát triển Giáo dục 2009-20207. Mức thu hiện tại chỉ là 3,4%. ða dạng hóa nguồn tài trợ giáo dục chắc chắn là mục tiêu quan trọng – ngân sách nhà nước không thể ñỡ nổi toàn bộ gánh nặng tài chính cho giáo dục ñại học trong khi khả năng tiền bạc từ gia ñình sinh viên còn khá hạn chế. Tuy nhiên, Việt Nam cần thực tế hơn trong tính toán các ñóng góp từ các doanh nghiệp. Tại những nước tiên tiến nguồn thu từ bản quyền và các khoản tài trợ có tính thương mại cho nghiên cứu dựa vào các quy chế ñối với quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ tiên tiến, thể hiện trình ñộ cao của tự chủ trong ñiều hành và chất 6 Quyết ñịnh số 121/2007/Qð-TTg 7 Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 – 2020, Dự thảo lần thứ mười bốn. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  9. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 9 / 148 lượng cao của các nghiên cứu ñể có thể thu hút tài trợ từ khu vực kinh doanh. Những trường ñại học có ñược nguồn thu cao từ bản quyền và liên kết với doanh nghiệp chủ yếu là những trường trong các lĩnh vực y tế và công nghệ cao. Về phía cầu, các doanh nghiệp Việt Nam không thể hiện các nhu cầu ñủ bức thiết ñối với khoa học và kỹ thuật. Các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh chủ yếu dựa vào giá nhân công rẻ và khai thác tài nguyên tự nhiên. Về phía cung, các trường ñại học không phải là nguồn cung cho ñổi mới, ñiều này thể hiện qua danh sách nghèo nàn các bằng sáng chế phát minh và công bố quốc tế của Việt Nam. Nếu không có những chuyển ñổi quyết liệt về mặt tổ chức ở các trường ñại học và không hiện ñại hóa bộ máy nghiên cứu khoa học vốn có từ thời kế hoạch hóa tập trung, thì các nguồn thu nhập trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật từ khu vực tư nhân khó lòng có thể tăng lên một cách ñáng kể. Phát hiện cuối cùng của nghiên cứu này là tình trạng thiếu nguồn lực không phải là rào cản chính ñối với sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam. Hầu hết mọi thước ño ñều cho thấy Việt Nam ñã chi tiêu rất nhiều cho giáo dục. Ở Việt Nam mức chi thực tế cho giáo dục ở tất cả các cấp học (tiểu học, trung học và ñại học) ñã tăng 125% trong giai ñoạn 2001 – 2008. Trong năm 2008, Việt Nam ñã phân bổ 20% ngân sách nhà nước cho giáo dục các cấp học, ngang bằng với các nước láng giềng có thu nhập trung bình, và cao hơn hẳn mức trung bình 16% của vùng ðông Á Thái Bình Dương. Tuy nhiên, chi tiêu giáo dục lại không hiệu quả và mất cân ñối về cơ cấu, nhất là trong hai lĩnh vực: Thứ nhất, Việt Nam chi quá ít cho giáo dục ñại học, tính theo tỷ lệ trong ngân sách giáo dục: chỉ khoảng 12% ngân sách giáo dục trong khi ñó mức chung toàn cầu là chi cho giáo dục ñại học chiếm khoảng một phần tư cho tới một phần ba tổng chi tiêu cho giáo dục. Thứ hai, việc chi tiêu quá thiên về ñầu tư cơ bản và do vậy làm giảm phần chi thường xuyên, thể hiện thái ñộ coi trọng quá mức ”phần cứng” trong giáo dục- nhà cửa phòng ốc và hạ tầng cơ sở, mà sao lãng “phần mềm”. Mức chi thường xuyên trung bình của các nước trong khu vực chiếm khoảng 86% trong tổng ngân sách chi cho giáo dục và chỉ 14% ñược dành cho ñầu tư cơ bản. Năm 2008 chi thường xuyên của Việt Nam chiếm 72% tổng chi tiêu cho giáo dục và 28% cho ñầu tư cơ bản. Ý kiến rộng rãi trong dư luận là chi tiêu cho giáo dục hiện rất lãng phí và kém hiệu quả, tuy nhiên chẳng có trường nào ñược kiểm toán toàn diện. Thay vì áp ñặt kỷ cương và thiết lập sự minh bạch trong các trường, nhà nước lại tăng mức học phí tại tất cả các cấp giáo dục, từ tiểu học cho tới ñại học. Nhưng nội dung bài nghiên cứu này lý giải rằng nếu các nguồn lực ñược chi tiêu một cách có hiệu quả hơn thì các trường ñại học và cao ñẳng ñã có thể có khả năng chi lương cho giảng viên cao hơn nữa. Bài nghiên cứu cho rằng nhu cầu bức thiết nhất của giáo dục ñại học hiện nay không phải là tăng nguồn thu mà là thay ñổi kiểu cách chi tiêu và tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực có ñược. Tóm lại, chính sách giáo dục ñại học ở Việt Nam có một ñặc ñiểm dễ nhận thấy, là một khoảng cách lớn và ñang gia tăng giữa những kế hoạch và mục tiêu ñầy tham vọng của chính phủ với thực tiễn xã hội. Sự xa rời ngày càng tăng giữa xuất phát ñiểm và việc xác ñịnh mục tiêu không phải là ñặc ñiểm của riêng chính sách giáo dục ñại học hay của việc hoạch ñịnh chính sách ở Việt Nam. Cải cách thể chế là một tiến trình khó khăn và gian khổ, liên quan ñến việc phải thay ñổi mô thức khen thưởng và những mối lợi ñã tồn tại lâu nay. Cũng dễ hiểu việc các chính trị gia và cơ quan nhà nước thích khơi gợi về viễn cảnh tương lai hơn là nói về một thực tế nghiệt ngã của một hệ thống vẫn còn ñang trong giai ñoạn ñầu cải cách. Tuy nhiên, sự thành công phụ thuộc vào năng lực và mong muốn của các nhà hoạch ñịnh chính sách Việt Nam trong việc ñịnh ra ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  10. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 10 / 148 những mục tiêu thực tế và hình thành chiến lược khả thi ñể ñạt ñược các mục tiêu ñó, trên cơ sở ñánh giá khách quan hiện trạng và hiểu biết tường tận kinh nghiệm quốc tế. Có nhiều giải pháp chính sách cho những thách thức của giáo dục ñại học Việt Nam và nhà nước cũng ñã nhận thức ñược rất rõ tất cả những thách thức ấy. Hầu như toàn bộ những ñiểm chúng tôi trình bày ở trên ñều ñã ñược nhà nước ñưa vào các văn bản chính sách và chủ trương. Tuy vậy, ñã năm năm trôi qua kể từ ngày Nghị quyết 14 ñược công bố, có rất ít tiến bộ ñược thực hiện trong số những thay ñổi có tính chất cách mạng mà Nghị quyết ñã chỉ ra. Suy cho cùng tầm nhìn táo bạo của Việt Nam chỉ có ý nghĩa thật sự nếu nhà nước có thể tập hợp ý chí chính trị ñể phá vỡ hiện trạng và theo ñuổi một cách quyết liệt mục ñích phấn ñấu cho một hệ thống giáo dục ñại học rộng lớn, hiện ñại và có chất lượng ñể phục vụ sự phát triển của ñất nước Việt Nam. Nếu ñiều này ñược thực hiện ñược thì những lợi ích mà nó có thể mang lại cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam sẽ vô cùng to lớn. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  11. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 11 / 148 Mục lục Giới thiệu .................................................................................................................................................. 13 Phần Một: Khung khái niệm .................................................................................................................... 21 I. Sự ña dạng hoá hợp lý giữa các nhóm trường: Một nguyên tắc có tính hướng dẫn ........................ 21 II. Hệ thống các nhóm trường ................................................................................................................ 24 III. Thị trường và Nhà nước..................................................................................................................... 25 IV. ðào tạo theo nhu cầu ......................................................................................................................... 29 Phần Hai: Vài nét sơ lược về hệ thống giáo dục ñại học Việt Nam.................................................... 33 I. Quy mô và ñịnh dạng của hệ thống ................................................................................................... 33 A. Sự mở rộng .................................................................................................................................... 33 B. Các nhóm trường ........................................................................................................................... 34 a. Các trường ñại học ñỉnh cao .............................................................................................................. 34 b. Các trường ñại học vùng .................................................................................................................... 37 c. Các chương trình ñào tạo sau ñại học và các hệ không chính quy ................................................... 39 d. Các trường cao ñẳng và ñào tạo nghề ............................................................................................... 41 e. Các trường ñại học ngoài công lập .................................................................................................... 43 II. Sự tiến triển của chính sách............................................................................................................... 44 A. Sự ña dạng hóa ............................................................................................................................. 46 B. Chất lượng và vấn ñề giải trình trách nhiệm.................................................................................. 46 C. Quản lý và quá trình phi tập trung hóa........................................................................................... 47 D. Những ñổi mới ở cấp ñộ nhà trường ............................................................................................. 48 E. Mở rộng quy mô ñào tạo và vấn ñề giảng viên.............................................................................. 49 III. Tài chính giáo dục .............................................................................................................................. 51 A. Nguồn chi ngân sách cho giáo dục ................................................................................................ 52 B. Cơ cấu và hiệu quả của chi cho giáo dục .......................................................................................... 54 C. Chia sẻ gánh nặng tài chính giữa nhà nước và nhân dân ................................................................. 58 D. Các nguồn thu ngoài ngân sách khác ................................................................................................ 60 Phần Ba: Các lĩnh vực chính sách quan trọng và kinh nghiệm quốc tế ............................................ 63 I. Một cơ cấu phân tầng ñể tránh lạc hướng về sứ mạng .......................................................................... 63 II. Các trường thuộc nhóm thứ hai và thứ ba ............................................................................................. 65 A. Những trường cao ñẳng bách khoa và những trường ñại học ñược nhà nước cấp ñất: nguồn kỹ năng công nghệ cho sự phát triển .......................................................................................................... 66 B. Các trường cao ñẳng cộng ñồng: “Những trường dành cho tiếp cận phổ cập” ................................ 69 III. Vấn ñề chất lượng và sự tham gia của quốc tế ..................................................................................... 71 ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  12. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 12 / 148 A. Kiểm ñịnh và Bảo ñảm Chất lượng .................................................................................................... 71 B. Quốc tế hóa các tiêu chuẩn như một chiến lược nhằm nâng cao chất lượng .................................. 74 IV. Tài trợ dựa vào thành quả hoặc sứ mạng ............................................................................ ………..77 V. Các trường ñại học ngoài công lập .................................................................................................... 80 Phần Bốn: Kết luận và khuyến nghị ........................................................................................................ 86 A. Yếu tố chính trị của cải cách và vấn ñề khó khăn trong thực hiện……………………………………..….77 B. Khuyến nghị……………………………………………………………………………………………………...79 Phụ lục I. Trường ðại học An Giang: Một trường hợp nghiên cứu ñiển hình về trường ñại học cấp tỉnh ………………………………………………………………………………………………………………….99 Phụ lục II: Quan ñiểm của quốc tế: Bài học của Ấn ðộ và Trung Quốc………………………………113 Phụ lục III: Giáo dục ñại học và tăng trưởng kinh tế……………………………………………………125 Phụ lục IV: Tóm tắt “Những nhân tố vô hình tạo ra sự ưu tú: Quản trị và Cuộc tìm kiếm con ñường xây dựng một ñại học nghiên cứu ñỉnh cao ở Việt Nam” .................................................................. 135 Phụ lục V: Các bảng cho Phần 2, mục III, Tài chính của Giáo dục ñại học……………………….…137 ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  13. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 13 / 148 NHÌN XA HƠN CÁC TRƯỜNG ðẠI HỌC ðỈNH CAO: HƯỚNG TỚI MỘT CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG ðỐI VỚI CẢI CÁCH GIÁO DỤC ðẠI HỌC Ở VIỆT NAM Tháng 6 năm 2010 … Cho ñến nay có rất ít nỗ lực phân tích toàn diện về các hệ thống giáo dục ñại học. ðiều này không có nghĩa là chúng ta ñang trở lại những hệ thống kế hoạch tập trung như trước ñây – không phải thế. Thay vì vậy, nó ñưa ra khả năng cân bằng ñịnh hướng chiến lược với sự ña dạng mà hiện nay chúng ta ñang thấy trong hệ thống giáo dục ñại học ở khắp các nước phát triển. Sự ña dạng này – một sự ñáp ứng với những ñòi hỏi ngày càng tăng – ñã ñưa những nhà cung cấp dịch vụ giáo dục mới vào hệ thống (nhất là từ thành phần tư nhân) và khuyến khích những loại trường mới hình thành. Nó hứa hẹn làm tăng sự cạnh tranh và rút cục là nâng cao chất lượng. Thật không may là triển vọng này sẽ khó lòng trở thành hiện thực nếu như sự ña dạng hóa tiếp tục diễn ra một cách hỗn loạn và vô tổ chức. Tổ Công Tác về Giáo dục ðại học và Xã hội, “Những mối ñe dọa và triển vọng: Giáo dục ñại học ở các nước ñang phát triển” Giới thiệu Việt Nam ñã xác ñịnh mục tiêu phát triển ñầy tham vọng là về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện ñại vào năm 2020. Giáo dục ñại học sẽ là nhân tố trọng yếu ñể xây dựng một lực lượng lao ñộng có kỹ năng cần thiết ñể ñạt ñược tham vọng này. Bộ GD&ðT, cũng như Quốc hội, gần ñây ñã ñưa ra hàng loạt chính sách cải cách giáo dục ñại học nhằm nâng cao chất lượng ñào tạo, mở rộng cơ hội vào ñại học cho người dân và ñổi mới quản lý nhà nước. Báo cáo này nhằm cung cấp thông tin cho quá trình xây dựng chính sách ấy thông qua việc ñề xuất một khuôn khổ có tính ñịnh hướng về cải cách hệ thống giáo dục ñại học Việt Nam. Cụ thể là, chúng tôi ñưa ra khái niệm một hệ thống “ña dạng hóa một cách hợp lý” (rational differentiation), ñặc ñiểm của nó là một hệ thống phân tầng rõ ràng gồm các trường ñược ñịnh hướng nhằm ñáp ứng những nhu cầu ña dạng của thị trường lao ñộng và của xã hội. Hệ thống này có thể ñược sử dụng như một nguyên tắc tổ chức nhằm biến mục tiêu thành những chính sách có hiệu quả. Mặc dù Việt Nam, như nhiều nước khác, ñã và ñang tập trung vào việc phát triển một số trường ñại học nghiên cứu tinh hoa, báo cáo này quan tâm ñến hệ thống giáo dục ñại học– mạng lưới các trường, bao gồm các ñại học vùng, các trường cao ñẳng và trường dạy nghề, những trường ñang ñào tạo phần lớn lực lượng lao ñộng của cả nước trong mọi lãnh vực từ kỹ thuật ñến y tế và kinh doanh. Một hệ thống giáo dục ñại học có chất lượng và có khả năng thích nghi có thể ñào tạo ñược những con người có ñủ năng lực sẽ giúp Việt Nam tạo ra và duy trì những thành tựu ấn tượng ñã có từ khi ñổi mới. Ngược lại, một hệ thống tù ñọng, chất lượng thấp có nguy cơ làm cho những tham vọng của Việt Nam bị trật khỏi ñường ray. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  14. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 14 / 148 Hệ thống giáo dục ñại học Việt Nam ñang bùng nổ sau mười lăm năm tăng trưởng nhanh chóng. Trong khoảng từ năm 1990 ñến 2008, lượng sinh viên của hệ thống tăng gấp mười ba lần và số trường ñại học – cao ñẳng cũng tăng gấp hơn ba lần. Trong phần lớn quãng thời gian này, những sự ñổi mới về mặt hệ thống quản trị ñại học ñược thực hiện ở cấp trường và cấp hệ thống là rất ít ỏi, dù rằng trong hai năm qua nhịp ñiệu cải cách ñã tăng ñáng kể. Nhu cầu xã hội bất tận ñã làm bùng nổ một thị trường giáo dục ñại học bao gồm ñủ kiểu chương trình ñào tạo của trường công cũng như trường tư, nhưng thị trường này hoạt ñộng trong một khuôn khổ luật pháp chưa hoàn thiện và bị thương mại hóa một cách quá ñáng. Trách nhiệm giải trình và tiêu chuẩn chất lượng thì yếu kém, nhất là ở hệ không chính quy, vốn chiếm tới một nửa tổng số sinh viên. Kết quả là, các nhà lập pháp Việt Nam ñang ñặt vấn ñề về việc liệu mô hình mở rộng ñại học theo kiểu hiện nay có thể ñứng vững ñược hay không. Tháng 2 – 1010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ñã trực tiếp kêu gọi tăng cường chất lượng và cải tiến công tác quản lý trong việc phát triển giáo dục ñại học. Ý KIẾN | Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng 1. Cần quán triệt nhận thức: phát triển quy mô giáo dục ñại học phải ñi ñôi với ñảm bảo và nâng cao chất lượng ñào tạo. Kiên quyết chấm dứt tình trạng không kiểm soát ñược chất lượng ñào tạo. Cần tạo ra cơ chế và ñộng lực trong quản lý nhà nước và quản lý của các cơ sở ñào tạo ñể thực hiện mục tiêu ñảm bảo và nâng cao chất lượng ñào tạo. 2. Coi việc ñổi mới quản lý giáo dục ñại học bao gồm quản lý nhà nước về giáo dục ñại học và quản lý của các cơ sở ñào tạo là khâu ñột phá ñể tạo ra sự ñổi mới toàn diện của giáo dục ñại học, từ ñó ñảm bảo và nâng cao chất lượng ñào tạo, nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học một cách bền vững.8 Rõ ràng là Việt Nam sẽ phải tiếp tục tăng số sinh viên và xây dựng thêm nhiều trường mới: số người vào ñại học vẫn còn thấp nếu so với các nước trong vùng,9 với chỉ 15% trong số hơn một triệu thí sinh thi ñại học tìm ñược một chỗ trong các giảng ñường. Nhưng, như Tổ Công Tác ñã nhận thấy, và chúng tôi ñã trích dẫn ở phần trên, sự mở rộng này cần phải tiến hành với một tầm nhìn chiến lược ñược thiết kế một cách thận trọng. ðổi mới kinh tế ñặt ra những ñòi hỏi ngày càng tăng ñối với hệ thống giáo dục ñại học. Việt Nam ñã ñạt ñược tăng trưởng bằng cách chuyển lực lượng lao ñộng từ nông nghiệp sang những nghề nghiệp có năng suất cao trong công nghiệp và dịch vụ. Vượt qua giai ñoạn phát triển kinh tế và nhân lực ban ñầu này, sự có mặt của ñội ngũ kỹ sư và quản lý có trình ñộ cao sẽ ngày càng quan trọng hơn. Nguồn vốn con người ñã và ñang là nút thắt cổ chai trong sự phát triển của Việt Nam. Các doanh nghiệp nước ngoài ñều nói về những khó khăn của họ khi tìm kiếm nhân sự ở Việt Nam, khiến 8 Công văn của Thủ tướng “Chỉ thị về ðổi mới Quản lý ðại học 2010 – 2012” 296/CT-TTg, 27-02-2010. 9 Theo UNESCO, trong năm 2005 tổng số người vào ñại học là 16% ở Việt Nam, so với 21% ở Trung Quốc, 32% ở Malaysia, và 43% ở Thái Lan. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  15. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 15 / 148 họ phải cắt giảm quy mô ñầu tư.10 Nhưng một lực lượng lao ñộng có kỹ năng không chỉ là ñòi hỏi của các nhà ñầu tư nước ngoài như Intel và Foxconn; nó cũng sẽ là một ñiểm quan yếu ñể có thể hình thành những doanh nghiệp nội ñịa có tầm cỡ và có năng lực cạnh tranh; những doanh nghiệp trong nước sẽ dẫn dắt sự tăng trưởng của Việt Nam sẽ là mũi nhọn hội nhập vào dây chuyền sản xuất toàn cầu. Diễn ñàn Kinh doanh Việt Nam, nơi tập hợp những nhà kinh doanh trong nước và quốc tế, do Bộ Kế hoạch và ðầu tư và Tập ñoàn Tài chính Quốc tế của Ngân hàng Thế giới thành lập, rất nhiều lần nêu ý kiến về việc nguồn cung lao ñộng có trình ñộ cao là một trở ngại chủ yếu. Thực ra, trong một báo cáo gần ñây nhất, Diễn ñàn này ñã cho thấy theo các kết quả khảo sát thì chính sự thiếu hụt nguồn nhân lực là nguyên nhân sâu sắc gây ra thất bại của các doanh nghiệpViệt Nam.11 Ý KIẾN| Giáo sư Phạm Duy Hiển* Từ khi bắt ñầu quá trình cải cách theo ñịnh hướng kinh tế thị trường cách ñây hơn hai thập kỷ, thu nhập tính trên ñầu người của Việt Nam ñã vượt lên trên ngưỡng 1.000 USD, ñưa ñất nước ñến vị trí “thu nhập dưới trung bình”. Tuy vậy, vẫn có một sự thật là kinh tế Việt Nam tập trung quá mức vào những bộ phận có giá trị gia tăng thấp như nông nghiệp, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất công nghiệp nhẹ...Nếu Việt Nam muốn tiến lên trên thang bậc về giá trị gia tăng và hội nhập dây chuyền cung ứng toàn cầu, chúng ta cần nhiều hơn những doanh nghiệp lớn với lao ñộng trình ñộ cao, nhất là trong những lĩnh vực khoa học công nghệ, hơn là những gì mà hệ thống giáo dục hiện nay có khả năng tạo ra.12 *Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam Chỉ cần lấy một ví dụ về vai trò của giáo dục ñại học ñối với tiến trình phát triển của Việt Nam: Việt Nam xác ñịnh mục tiêu trở thành một “quốc gia mạnh về công nghệ thông tin” trong thập kỷ tới;13 nhưng việc thiếu hụt những kỹ sư trình ñộ cao ñã là rào cản cho hàng trăm doanh nghiệp nhỏ về công nghệ thông tin của Việt Nam trong việc trở thành những công ty lớn.14 Kinh nghiệm quốc tế từ Ấn ðộ ñến Ai-len ñều cho thấy rõ phải có một số lớn các kỹ sư bậc trung ñể cung cấp nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm thì mới mong thành công.15 Trong lúc Viện Khoa 10 John Ruwitch, “Firms struggle to hire skilled professionals in Vietnam” [Các doanh nghiệp chật vật tìm lao ñộng trình ñộ cao ở Việt Nam], Reuters, 12-5-2009. < http://www.reuters.com/article/idUSPEK46232520090513>. Truy cập 13-5-2009. 11 Diễn ñàn doanh nghiệp Việt Nam (2008), Báo cáo về cuộc khảo sát môi trường kinh doanh 2008 (Report on Business Environment Sentiment Survey 2008) (chuyên ñề Diễn ñàn Doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam, 1- 12-2008). 12 Phạm Duy Hiển, “Nghiên cứu so sánh năng lực nghiên cứu của các nước ðông Nam Á và kết luận cho Việt Nam”, Higher Education (sắp xuất bản) 2010. 13 Phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp, “Thông tin và Truyền thông sẽ là mũi nhọn mở ñường”, Thanh niên, 17-2-2010. http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201008/20100217093545.aspx 14 Xuân Thi, “Công nghiệp phần mềm Việt Nam: Nhận dạng tiềm năng”, Sài Gòn Tiếp Thị, 29-8-2009, http://sgtt.com.vn/Thoi-su/Khoa-giao/56392/Cong-nghiep-phan-mem-Viet-Nam-Nhan-dang-tiem-nang.html 15 Ashish Arora and Alfonso Gambardella, ed., “From Underdogs to Tigers,: Rise and growth of the software industry in Brazil, China, India, Ireland, and Israe” [ Từ kẻ thất bại trở nên người thành công: Sự nổi bật và tăng trưởng của ngành phần mềm ở Brazil, Trung Quốc, Ấn ðộ, Ai-len và Israel], (Oxford: Oxford University Press, 2005). ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  16. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 16 / 148 học Công nghệ Ấn ñộ ñược xếp hạng là một trong những cơ sở ñào tạo ñại học nổi tiếng nhất trong thế giới ñang phát triển, thì thực ra chính những trường công nghệ hạng hai mới là nơi cung ứng một số lớn lao ñộng có kỹ năng ñã cho phép công nghệ phần mềm của Ấn ðộ cất cánh.16 Sự phát triển của giáo dục ñại học cũng có một ý nghĩa hết sức quan trọng về xã hội và chính trị. Giáo dục ñại học mở ra con ñường ñể có thu nhập cao và có một cuộc sống tốt hơn, nhưng những gia ñình nghèo ở Việt Nam thì có rất ít khả năng theo ñuổi giáo dục ñại học.17 Nếu những xu hướng hiện nay vẫn tiếp tục, Việt Nam có thể sẽ rơi vào cảnh ngộ của các nước láng giềng ðông Nam Á nơi giới tinh hoa từ bỏ hệ thống giáo dục của nước mình và người nghèo bị bỏ lại cho những trường hạng hai trong nước. Con số du học sinh tự túc tăng nhanh chưa từng có là một tiếng chuông báo ñộng. Có lẽ sự trỗi dậy của những ñòi hỏi căn bản nhất ñối với giáo dục ñại học, sự không hài lòng ngày càng tăng của công chúng ñối với hệ thống giáo dục hiện tại, ñã làm cho việc cải cách trở thành một nhu cầu chính trị cấp bách. Như một nhà hoạch ñịnh chính sách cao cấp của Việt Nam ñã nói với các tác giả bài này, “Tôi ñã từng nghĩ rằng nông dân Việt Nam muốn có nhiều ñất ñai và kỹ thuật nông nghiệp hiện ñại hơn, nhưng giờ ñây tôi hiểu ra rằng họ không có mong muốn nào lớn hơn là một nền giáo dục tốt hơn cho con cái họ”. ðối với hàng triệu gia ñình Việt Nam, sự công bằng của hệ thống giáo dục là nhân tố trọng yếu trong nhận thức của họ về nỗ lực của nhà nước nhằm ñạt ñược tăng trưởng cùng với sự bình ñẳng. Nhà nước cũng nhận thức rất rõ về nhu cầu khẩn thiết này. Tháng 4 năm 2009, Bộ Chính trị ra nghị quyết nhận ñịnh rằng “giáo dục và ñào tạo chưa thực sự là quốc sách hàng ñầu”. ðây là một sự thừa nhận ñáng ngạc nhiên trong bối cảnh những năm gần ñây các quan chức nhiều lần viện dẫn khẩu hiệu “giáo dục và ñào tạo là quốc sách hàng ñầu”.18 Việc chuyển sang hệ thống giáo dục ñại chúng với cơ chế quản trị hiện ñại là một quá trình cực kỳ phức tạp ñặt ra những thử thách nghiêm trọng ñối với tất cả các chính phủ.19 Nhà nước Việt Nam ñã có những bước ñi quan trọng nhằm bắt ñầu quá trình ñổi mới. Nghị quyết 14, ra ñời năm 2005, công nhận những ñiểm yếu của hệ thống giáo dục hiện tại và kêu gọi “ñổi mới căn bản và toàn diện”. Năm năm gần ñây chúng ta ñã chứng kiến việc áp dụng những sáng kiến mới về chính sách chạm ñến từng nhân tố của hệ thống; những nỗ lực này vẫn ñang tiếp tục trong năm 2010, với trọng tâm cụ thể là những vấn ñề về chất lượng và quản lý ở cấp ñộ hệ thống. Nhà nước ñã có ñược sự tín nhiệm khi cho phép diễn ra những cuộc tranh luận mạnh mẽ và cởi mở về tương lai giáo dục ñại học của quốc gia. Từ cuộc tranh luận này, các học giả Việt Nam và quốc tế ñã ñóng góp nhiều nghiên cứu chính sách về vấn ñề cải cách giáo dục ñại học.20 16 Devesh Kapur, “The Causes and Consequences of India’s IT Boom” [Nguyên nhân và kết quả của sự bùng nổ ngành CNTT Ẩn ðộ”], India Review tập 1 số 2, 2002, 97. 17 Theo VHLSS 2004, tỉ lệ tham gia của ngũ phân vị thu nhập cao nhất của xã hội Việt Nam vào giáo dục ñại học (khoảng 40%) cao gấp khoảng 4 lần tỉ lệ của hai ngũ phân vị thu nhập thấp nhất (khoảng 10% mỗi ngũ phân vị). Từ Ngân hàng Thế giới, Việt Nam: Giáo dục ñại học và kỹ năng cho tăng trưởng, 2008, 24. 18 Kết luận số 242-TB/TU, 15-4-2009. 19 Các thuật ngữ “tinh hoa” “ñại chúng” hay “phổ cập” ñược Martin Trow, một nhà xã hội học Mỹ, sử dụng trước tiên. Trow lập luận rằng các hệ thống ñại học nghiên cứu truyền thống có thể tiếp nhận lượng sinh viên tối ña là 15% trong ñộ tuổi, còn nếu vượt trên tỷ lệ này thì sẽ ñòi hỏi những cải cách có tính cơ cấu trong hệ thống giáo dục. Xem bài của Trow nhan ñề “Những vấn ñề của việc chuyển ñổi từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục ñại chúng” trong tài liệu của OECD: Những chính sách Giáo dục ðại học, Paris: OECD, 1974. . 20 Hai nghiên cứu bằng tiếng Anh gần ñây là của Ngân hàng Thế giới nhan ñềViệt Nam: Giáo dục ñại học và kỹ năng cho tăng trưởng, Báo cáo số 44428-VN, 05/2008; và Cải cách giáo dục ñại học ở Việt Nam: Thách thức và ưu ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  17. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 17 / 148 Tuy nhiên, chúng ta cũng ñã thấy có những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng chính sách có thể ñe dọa làm xói mòn những nỗ lực làm một cuộc cách mạng trong giáo dục ñại học của Việt Nam. ðó là: ( 1 ) Những mục tiêu cao ngất so với quá trình thực hiện yếu kém: Việt Nam ñã xác lập một loạt mục tiêu ñầy tham vọng nhằm xây dựng một hệ thống giáo dục ñại học – cao ñẳng rộng lớn, ña dạng, có ñịnh hướng nghiên cứu và theo những chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, những mục tiêu này có xu hướng thiên về ñịnh lượng và thường là không khả thi hoặc không tương thích với những mục tiêu khác về chất lượng. Những mục tiêu này thường là không ñược kèm theo một lộ trình thực hiện. Xin nêu một ví dụ, số sinh viên nhập học ở các trường tư ñược ñề xuất là sẽ tăng lên ñến 40% tổng số sinh viên trước năm 2020 so với 12% trong năm 2009. Tuy nhiên, các nhà làm chính sách lại rất chậm làm rõ khuôn khổ pháp lý cho các trường tư;21 và kết quả là hầu hết các trường tư hoạt ñộng như những doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận, tràn ngập những chương trình ñào tạo pha trộn giữa kinh tế / kinh doanh và vi tính. Một mục tiêu khác dự tính sinh viên học ngành kỹ thuật và công nghệ sẽ tăng ñến 35% tổng số sinh viên từ nay ñến 2020 so với 21% trong năm 2009. Hầu hết các nước thuộc OECD và các nước châu Á có khoảng 20 – 30% tổng số sinh viên theo học ngành kỹ thuật và công nghệ;22 và các nước ñạt ñược trình ñộ cao trong lĩnh vực này ñều ñã theo ñuổi quyết liệt những chính sách thúc ñẩy việc ñào tạo các ngành kỹ thuật, chẳng hạn như các học bổng có mục tiêu, cho vay học phí, và mở rộng thêm các trường cao ñẳng kỹ thuật. Việc xây dựng chính sách cần bắt ñầu với việc ñánh giá một cách thực tế những ñiều kiện nền tảng.23 Trong một số trường hợp, khoảng cách giữa mục tiêu và thực tế xa ñến nỗi không có một chính sách khả thi nào có thể thu hẹp ñược khoảng cách ấy. Những mục tiêu không thực tế tạo ra các chỉ trích giễu cợt và bởi vậy có thể xói mòn thẩm quyền và năng lực của nhà nước trong việc thúc ñẩy sự thay ñổi. (2) Phân cấp so với giám sát và lập kế hoạch chiến lược: Trong giáo dục ñại học, cũng như những lĩnh vực khác của kinh tế và xã hội, phân cấp là nền tảng trong lịch trình cải cách của nhà nước. Thuật ngữ này ñược dùng ñể bao quát tất cả những gì miêu tả sự chuyển giao thẩm quyền xây dựng các quy ñịnh, thẩm quyền về tài chính, và việc quản lý thực hiện cho những ñơn vị quản lý nhỏ hơn, về nguyên tắc ñó là các trường và chính quyền các tỉnh.24 Những tiên do Grant Harman và ñồng tác giả chủ biên chủ biên (The Netherlands: Springer, 2010). Các nghiên cứu bằng tiếng Việt có rất nhiều và toàn diện, ñăng trên báo chí, phỏng vấn, sách trắng và báo cáo. Nghiên cứu này rút tỉa từ những bài viết của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, các phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, Giáo sư Phạm Phụ và những người khác. 21 Nguyễn Thị Bình,“Bảo ñảm sự phát triển ổn ñịnh hệ thống ñại học, cao ñẳng ngoài công lập ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản ñiện tử, 25-5-2009 http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=5&news_ID=25539319. 22 Ngân hàng Thế giới, Việt Nam: Giáo Dục ðại Học và Kỹ năng cho tăng trưởng, Báo cáo 44428-VN, 6-2008, 26. 23 Cuộc ñánh giá gần ñây do ðoàn công tác của Quốc hội thực hiện về “Thực hiện luật và chính sách trong việc thành lập trường, ñầu tư và ñảm bảo chất lượng ñào tạo ñại học” nhằm phục vụ cho việc soạn thảo lại Luật Giáo dục là một ví dụ ñáng khuyến khích về kiểu làm chính sách dựa trên những tư liệu và sự kiện thực tế. Xem phỏng vấn Nguyễn Minh Thuyết, “Chưa nên tăng trường ñại học công lập”, Tuổi Trẻ, 1-2-2010, http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa- hoi/361781/Chua-nen-tang-truong-DH-cong-lap.html 24 Một bài báo viết rằng mùa thu năm 2009, trong dự thảo sửa ñổi Luật Giáo dục có nêu “Các hoạt ñộng kiểm tra, giám sát hiệu quả và chất lượng của các trường ñại học và cao ñẳng” sẽ do ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện) ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  18. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 18 / 148 phương diện khác nhau của phân cấp nên ñược tách bạch. Một mặt, các trường ñại học cần tự chủ trong những quyết ñịnh về quản lý và ñào tạo ñể năng ñộng và hữu hiệu hơn. Mặt khác, các trường ñại học sẽ chỉ chú trọng trách nhiệm giải trình với cộng ñồng xã hội của họ khi nào họ có mối gắn kết chặt chẽ hơn và trách nhiệm sâu sắc hơn ñối với kinh tế và xã hội ñịa phương.25 Về mặt này phân cấp là một ñịnh hướng chính sách ñúng ñắn. Tuy nhiên, về mặt khác, những khung quy ñịnh có tính chất quốc gia và vùng miền cũng rất quan trọng. Sự áp ñặt những tiêu chuẩn tối thiểu về tổ chức và về học thuật sẽ phải ñến từ cấp cao hơn là cấp tỉnh–từng tỉnh trong số 63 tỉnh của Việt Nam sẽ không có ñủ nguồn lực con người hay tài chính ñể giám sát hệ thống con của họ. Vấn ñề thứ hai là kế hoạch chiến lược. Một hệ thống giáo dục ñại học – cao ñẳng hữu hiệu ñược tạo thành với một mạng lưới các trường với những nét riêng nhưng có những sứ mạng khác nhau và bổ sung cho nhau nhằm ñáp ứng nhu cầu ña dạng của xã hội. Tác ñộng của nhân tố phân cấp ñối với việc lập kế hoạch giáo dục là ñiều ñã có thể thấy rõ. Nhiều trường không có một sứ mạng phù hợp rõ ràng. Việc nâng cấp lan tràn các trường cao ñẳng thành ñại học là một ví dụ cho thấy tình trạng thiếu tầm nhìn chiến lược. Những xu hướng hiện nay cho thấy hệ thống giáo dục ñại học sẽ có ñược nhiều lợi ích hơn với việc tăng cường, chứ không phải giảm ñi, một kế hoạch chiến lược và sự giám sát hữu hiệu. Bởi vì Việt Nam không có truyền thống có các tổ chức cấp vùng vững mạnh (kiểu như những tổ chức ở trên các tỉnh), cho nên sự giám sát này chắc chắn sẽ phải là giám sát ở tầm quốc gia. (3) ðào tạo cho nhu cầu trước mắt so với ñòi hỏi của xã hội tương lai: Nhà nước Việt Nam nhắm tới một hệ thống giáo dục ñại học nhằm “ñào tạo theo nhu cầu xã hội”. Nỗ lực của các nhà lãnh ñạo tập trung vào việc tìm hiểu chắc chắn nhu cầu của giới doanh nghiệp và khuyến khích các trường ñưa ra những chương trình ñào tạo trong những lĩnh vực ấy. ðây là một sự theo ñuổi quan trọng có thể củng cố theo cách tiếp cận từ dưới lên ñể ñiều hành các trường cao ñẳng và trung học nghề hướng vào việc thực hiện sứ mạng ñáp ứng nguồn nhân lực trung cấp.26 Tuy nhiên, có một yêu cầu thứ hai và có tính chất dài hạn ñòi hỏi sự can thiệp của nhà nước, ñó là những ñòi hỏi trong tương lai về khoa học và công nghệ. Vào năm 2005, 50% sinh viên Việt Nam ñang học trong hai ngành là sư phạm và kinh tế/kinh doanh trong khi tỉ lệ nhập học trong các ngành kỹ thuật, công nghệ và khoa học tự nhiên còn thấp.27 Khoa học và công nghệ mang lại lợi ích công rất to lớn. Nhu cầu của các doanh nghiệp hiện nay không thực hiện, và dựa trên các quy ñịnh do Bộ GD&ðT ban hành”. Hải Hà, “Giám sát ñại học sẽ không còn là “ñặc quyền” của Bộ?”, VnEconomy, 3 -10-2009, http://vneconomy.vn/20091003071959917P5C11/giam-sat-dai-hoc-se-khong-con-la-dac-quyen-cua-bo.htm 25 Báo cáo Phát triển năm 2010 về Việt Nam của Ngân hàng Thế giới phân biệt giữa trách nhiệm giải trình từ trên xuống (trách nhiệm trước nhân dân về việc phục vụ) và từ dưới lên (trách nhiệm tuân thủ luật pháp, quy ñịnh, tiêu chuẩn). Văn bản này nêu rõ “Cả hai loại trách nhiệm giải trình này ñều cần thiết…ñặc ñiểm xác ñịnh trách nhiệm từ dưới lên là hệ thống thứ bậc, chính sách khen thưởng và trừng phạt, trong lúc trách nhiệm giải trình từ trên xuống là góp ý của khách hàng, thông tin khách hàng và sự tham gia vào quá trình ra quyết ñịnh.” Có thể ñọc tại: http://wwwr.worldbank.org/vn/vdr. 26 Một nghiên cứu gần ñây về thị trường lao ñộng Việt Nam cho rằng phương thức tiếp cận vấn ñề ñào tạo nghề ở Việt Nam thường có xu hướng giải quyết vấn ñề "từ trên xuống" (top-down), và ñược xuất phát từ phía cung lao ñộng, hơn là từ phía nhu cầu của ngành. Kết quả là chúng ta ñã không có những lao ñộng tay nghề cao, có thể tuyển dụng ñược. Ian Coxhead và các ñồng tác giả, “Lao ñộng và tiếp cận việc làm thị trường lao ñộng: Việc làm, và ðô thị hoá ở Việt Nam ñến năm 2020: Học hỏi từ kinh nghiệm quốc tế,” Dự Án 00050577, ðóng góp xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tháng 12-2009. 27 Ngân hàng Thế giới, 2008, 26. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  19. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 19 / 148 phản ánh những kỹ năng cần thiết ñể ñưa Việt Nam vào con ñường công nghiệp tri thức trong mười năm sắp ñến. (4) Thương mại hóa so với lợi ích công: Nhà nước ñang chuyển phần trách nhiệm tài chính ñối với giáo dục ñại học nhiều hơn cho xã hội và các trường tư. Tăng học phí là một biểu hiện của xu hướng này. Một biểu hiện khác là tăng số lượng các trường tư. Biểu hiện thứ ba là sự thương mại hóa các chương trình ñào tạo ở cả trường công lẫn trường tư. Các trường vì lợi nhuận có thể ñưa vào hệ thống giáo dục sự cạnh tranh cần thiết. Tuy nhiên, giáo dục rất dễ bị tổn thương trước tình trạng hoạt ñộng không như mong ñợi của thị trường, và nhà nước cần can thiệp ñể khuyến khích thị trường ñem lại những dịch vụ mà xã hội mong muốn, hoặc trực tiếp cung cấp những dịch vụ ñó thông qua các tổ chức của nhà nước, tức là các trường ñại học công. Sự can thiệp này có thể bao gồm những việc như lập kế hoạch và ñịnh hướng chiến lược, tài trợ cho các tổ chức nghiên cứu và hướng dẫn về khoa học, bảo ñảm sự công bằng xã hội, cải tiến thông tin thị trường và chủ ñộng kiểm soát chất lượng. Câu hỏi quan yếu bởi vậy không phải là trường công hay trường tư, mà là một cơ chế khuyến khích ñối với cả trường công lẫn trường tư. (5) Sự kiểm soát của nhà nước so với sự giám sát: Nhà nước ñã và ñang duy trì một sự kiểm soát chặt chẽ về quản lý và về những vấn ñề ñào tạo với một nỗ lực không thể hiểu nổi nhằm kiềm chế sự mở rộng hỗn loạn của hệ thống; tuy vậy cho ñến gần ñây họ vẫn chưa áp ñặt ñược tiêu chuẩn về chất lượng và trách nhiệm giải trình cho các trường. Việc chuyển sang hệ thống giáo dục ñại học ñại chúng ñòi hỏi nhà nước phải từ bỏ cơ chế “xin cho” và chuyển sang vai trò là người ñiều chỉnh hệ thống một cách công bằng. Dù có chính thức công nhận hay không, rõ ràng là ñang có sự bùng nổ trong thị trường giáo dục ở Việt Nam. Cũng như bất cứ thị trường nào khác, thị trường giáo dục cần có một cơ chế hoạt ñộng ñược quy ñịnh một cách hợp lý ñể có thể hoạt ñộng hiệu quả, trong ñó các trường cạnh tranh với nhau về nguồn tài trợ và nguồn sinh viên. Với một hệ thống giám sát, nhà nước sẽ có ít chức năng hơn –vì các trường nhận trách nhiệm về việc tổ chức nội bộ và các chương trình ñào tạo của mình –nhưng nó cần phải thực hiện những chức năng ấy một cách hiệu quả hơn –bao gồm việc bảo ñảm tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng ñể bảo vệ người học, ñem lại một hướng ñi chung, và ñầu tư cho những hoạt ñộng giáo dục và nghiên cứu mà thị trường sẽ không mang lại. Giải quyết những mâu thuẫn trên ñây ñòi hỏi một cách tiếp cận chiến lược ñể cải cách nhằm ñạt ñược mục tiêu, bao quát ñược mọi mục tiêu, nguyên tắc, phương tiện, những chính sách cụ thể về hoạt ñộng và lộ trình cần thiết nhằm ñạt ñược những mục tiêu ấy. Ở Việt Nam, việc xây dựng chính sách giáo dục có xu hướng lẫn lộn phương tiện và mục ñích; chiến lược chứa ñựng những mục tiêu chi tiết và những quy ñịnh ñược soạn thảo ñi soạn thảo lại, nhưng từng bộ phận của bộ khung các quy ñịnh ấy không cấu thành ñược một tầm nhìn hay một chiến lược chặt chẽ, nghĩa là chính sách này thường mâu thuẫn với chính sách khác. ðây là chỗ mà kinh nghiệm quốc tế có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam có thể học hỏi nhiều từ kinh nghiệm các nước –tích cực và tiêu cực –trong việc biến những mục tiêu (chẳng hạn mở rộng các trường tư, tăng cường số sinh viên học khoa học kỹ thuật hay dùng giáo dục ñại học – cao ñẳng ñể hỗ trợ cho công nghệ phần mềm khi nó mới khởi sự) thành những hoạt ñộng chính sách hữu hiệu. Như nhận ñịnh của Tổ Công Tác trích dẫn ở ñầu bài, không có mâu thuẫn nào ñược nêu trên ñây là vấn ñề của riêng Việt Nam. Cần lưu ý là trong các nước phát triển cũng như ñang phát triển, cải cách thường diễn ra rất ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
  20. Nhìn xa hơn các trường ñại học ñỉnh cao Tháng 6 năm 2010 Page 20 / 148 giống hình thức ñáp ứng với áp lực về nhu cầu ngày càng tăng của sinh viên, về tình trạng cấp bách của giáo dục ñại học phải thích ứng với thị trường, và áp lực của ngân sách công.28 Trong khi hiếm có khả năng nhập khẩu trực tiếp mô hình của nước ngoài, hoặc ñó không phải là ñiều ñáng mong muốn, thì có rất nhiều thứ có thể học ñược từ các nước ñã từng ñi qua giai ñoạn chuyển ñổi từ giáo dục tinh hoa sang giáo dục ñại chúng. Bản báo cáo này sẽ ñưa ra các ví dụ từ Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn ðộ, Ai-len, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ và Hoa Kỳ. Bản báo cáo này gồm bốn phần. Phần thứ nhất ñề xuất một hệ thống nguyên tắc tổ chức bao gồm sự ña dạng hóa, vai trò của thị trường và của nhà nước, vấn ñề ñào tạo theo nhu cầu; ñể giúp làm rõ những vấn ñề phức tạp nảy sinh trong cuộc thảo luận về giáo dục ñại học và sự phát triển của Việt Nam. Phần hai chú trọng ñến tình hình hiện nay ở Việt Nam, tập trung vào quy mô và hình dạng hiện nay của hệ thống, những sáng kiến lập kế hoạch chính sách có tính ñịnh lượng và ñịnh tính, và vấn ñề tài chính cho giáo dục. Phần ba thảo luận về những kinh nghiệm quốc tế có thể mang lại những chỉ dẫn hữu ích cho cơ cấu quy ñịnh và chính sách nhằm ñịnh hình một hệ thống có tính chất ña dạng hóa ở Việt Nam. Những vấn ñề ñược ñề cập chi tiết bao gồm: sự phát triển của các trường kỹ thuật công nghệ, những liên kết ở cấp vùng, kiểm ñịnh chất lượng và quốc tế hóa, vấn ñề tài chính, và vai trò của các trường ñại học tư. Phần bốn ñánh giá những thách thức mà Việt Nam phải ñương ñầu trong việc ñưa những mục tiêu của mình thành việc thực hiện cải cách toàn diện, và ñưa ra một số ñề xuất về chính sách. Có bốn Phụ lục kèm theo bản báo cáo này. Trong Phụ lục I, Giáo sư Võ Tòng Xuân, người sáng lập và nguyên hiệu trưởng ðại học An Giang, ñã ñưa ra bằng chứng minh họa những cơ hội và khó khăn mà một trường ñại học vùng ñồng bằng sông Cửu Long trong hệ thống giáo dục ñại học Việt Nam phải ñương ñầu. Phụ lục II, do Giáo sư Philip Altbach của ðại học Boston (Hoa Kỳ) viết, xem xét những nhân tố của quá trình chuyển ñổi sang giáo dục ñại chúng ở Trung Quốc và Ấn ñộ và ý nghĩa của những kinh nghiệm ấy ñối với Việt Nam. Phụ lục III trình bày quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giáo dục ñại học và ñánh giá vai trò của giáo dục sau trung học trong việc tăng cường sức cạnh tranh của Việt Nam. Phụ lục IV là tóm tắt bản báo cáo “Những nhân tố vô hình tạo ra sự ưu tú: Quản trị ðại học và Cuộc tìm kiếm con ñường xây dựng một trường ñại học nghiên cứu ñỉnh cao cho Việt Nam”, do Trường New School và Trung tâm Ash của Trường Kennedy, ðại học Harvard thực hiện vào tháng 6 năm 2009, và Phụ lục V là một số bảng thống kê về tài chính trong giáo dục ñại học của Việt Nam. 28 D. Bruce Johnstone, “Các vấn ñề tài chính và quản lý giáo dục ñại hoc: báo cáo tình hình về cải cách toàn thế giới” (“The Financing and Management of Higher Education: A Status Report on Worldwide Reforms”) (Hội nghị Quốc tế về GDðH, UNESCO, Paris, 10-1998) http://www.worldbank.org/html/extdr/educ/postbasc.htm. ** Bản thảo | ðề nghị không phổ biến hay trích dẫn**
nguon tai.lieu . vn