Xem mẫu

  1. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP Nguyễn Thu Hiền* 1 TÓM TẮT: Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán quản trị (KTQT) trong các doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN) tại Việt Nam. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập từ kết quả khảo sát thực tế tại 245 DN mới thành lập. Số liệu được xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 20 để kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA kết hợp với hồi quy tuyến tính bội. Kết quả nghiên cứu có 5 nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN bao gồm: (1) Quy mô doanh nghiệp; (2) Nhận thức của chủ sở hữu/Người quản lý công ty; (3) Trình độ của nhân viên kế toán; (4) Chi phí cho việc tổ chức KTQT; (5) Văn hoá doanh nghiệp. Trong đó, nhân tố “Trình độ của nhân viên kế toán” có tác động mạnh nhất đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tại Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý quản trị và kiến nghị nhằm làm gia tăng mức khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNKN. Từ khóa: Doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN), Kế toán quản trị (KTQT), Nhân tố, Doanh nghiệp (DN). ABSTRACT: This study aimsto analyze and evaluate factors affecting the application of the Management accounting in the startup enterprises in Vietnam. The data used in the study were collected from the results of a field survey of 245 newly established enterprises. The data were processed by using the statistical software SPSS 20 to test the reliabilityvia Cronbach’s Alpha coefficient, exploratory factor analysis EFA combined with multiple linear regression. The results show five factors affecting the application ofManagement accounting in the startup enterprises, including: (1) Enterprise Size; (2) Awareness of the owner / manager of the company; (3) Qualification of accountants; (4) Cost for organizing Management accounting; (5) Enterprise culture. Among them, the factor of “Qualification of accountants” has the strongest impact on the ability to apply the Management accounting in the startup enterprises in Vietnam. This study provides a number of managerial implications and recommendations to increase the feasibility of applying the Management accounting in the startup enterprises. Key word: Startup enterprise (SE), Management accounting (MA), Factor, Enterprises. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khởi nghiệp có thể được hiểu như là một quá trình sáng tạo kinh doanh (Kuratko, 2005), hay việc mở một doanh nghiệp mới (start a new business, new venture creation) (Krueger, 1994), (Lowell, 2003) hoặc tinh thần doanh nhân (entrepreuership) và tự làm chủ, tự kinh doanh (sefl employment) (Laviolette, 2012), hoặc là sự lựa chọn nghề nghiệp khi cá nhân quyết định đánh đổi điều kiện làm việc của mình cho những * Giảng viên, Khoa Kế toán, Học viện Tài chính, số 1 Lê Văn Hiến, Hà Nội, tác giả nhận phản hồi: TS. Nguyễn Thu Hiền . Tel.: +84914646463. E-mail address: nguyenthuhien101282@gmail.com
  2. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 809 khả năng khác để đảm bảo việc tồn tại và phát triển, hay tạo ra cơ hội kinh doanh (Kolvereid, (1996a)). Ở Việt Nam thời gian qua, hệ thống DN phát triển nhanh cả về số lượng lẫn quy mô DN, số lượng các DN thành lập mới (doanh nghiệp khởi nghiệp - DNKN) hàng năm tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó số lượng các DN phải tạm ngừng hoạt động, giải thể cũng tăng lên đáng kể (Bảng 1). Các DNKN đang gặp phải sự cạnh tranh, thách thức rất lớn và dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường, đặt biệt trong những năm đầu sau khi DN vừa hình thành do nguồn vốn và năng lực quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp, trình độ nhân viên,…còn hạn chế (Nguyễn Thu Hiền, 2018). Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới, ngừng hoạt động, giải thể Chỉ DN thành lập mới DN ngừng hoạt động DN giải thể tiêu Số lượng Tăng/giảm so Vốn đăng ký Số lượng Tăng/giảm so Số Tăng/giảm so (DN) với cùng kỳ (nghìn tỷ (DN) với cùng kỳ lượng với cùng kỳ Năm (%) đồng) (%) (DN) (%) 2015 94.754 26,6 601,5 71.391 22,4 9.467 -0,4 2016 110.100 16,2 891,1 60.667 -15,2 12.478 31,8 2017 126.859 15,2 1.295,9 60.553 -0,2 12.113 -2,9 6 tháng 2018 64.531 5,3 649 52.803 39,3 6.629 21,8 Nguồn: Tổng cục thống kê Để các DNKN Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, giảm thất bại trong kinh doanh và phát triển bền vững, đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài việc hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách, bản thân các DNKN cần xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh và kiểm soát hoạt động một cách tốt nhất. Để làm được điều này, các nhà quản trị DN cần dựa vào thông tin do KTQT cung cấp để lập kế hoạch, kiểm soát hoạt động, ra quyết định và đánh giá hiệu quả hoạt động (Kinney & Raiborn, 2011). KTQT là một bộ phận của kế toán liên quan đến việc báo cáo cho các nhà quản trị trong nội bộ DN (Parker, 1984, 1992) và hướng tới các quá trình kỹ thuật xử lý, tập trung vào việc sử dụng một cách có hiệu quả và hiệu suất những nguồn lực của tổ chức, giúp hỗ trợ các nhà quản lý hoàn thành nhiệm vụ, gia tăng giá trị cho khách hàng cũng như cổ đông (Langfield-Smith, 2009). Công việc KTQT còn được coi là một nghề nghiệp có liên quan đến việc tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý, lập kế hoạch và quản lý hiệu suất hệ thống, cung cấp báo cáo tài chính chuyên nghiệp và kiểm soát tài chính nhằm hỗ trợ các nhà quản lý trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược của một tổ chức (Atkinson, 2012). Việc sử dụng các kỹ thuật KTQT trong quản lý, điều hành đã được nhiều DN ở các quốc gia trên thế giới áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, ở Việt Nam, thuật ngữ KTQT mới xuất hiện và được công nhận trong Luật Kế toán từ năm 2003. Cùng với đó là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc áp dụng KTQT trong các DN chưa nhiều. Chính vì điều này, việc vận dụng KTQT tại các DN gặp nhiều khó khăn và làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của DN, đặc biệt là các DN mới thành lập (DNKN). Bên cạnh đó, qua nghiên cứu và khảo sát thực tế tại một số DNKN ở Việt Nam, việc vận dụng KTQT vào công tác quản lý, điều hành bước đầu đã nhận được sự quan tâm của các nhà quản trị DN, nhưng chưa được các DN đầu tư đúng mức do nguồn vốn còn hạn chế và chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác. Điều này dẫn đến việc triển khai áp dụng KTQT trong các DNKN chưa cao. Ngoài ra, số lượng các nghiên cứu về hệ thống KTQT ở Việt Nam còn rất khiêm tốn (Doan, 2011), đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm về KTQT. Sulaiman và cộng sự (2004) cho rằng tại các nền kinh tế đang phát triển Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) vẫn còn thiếu những nghiên cứu thực nghiệm về hệ thống KTQT và cần phải có những nghiên cứu về mức độ áp dụng hệ thống KTQT tại đây.
  3. 810 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Ở Việt Nam, cho đến nay dường như chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm nào nhằm đánh giá mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng vận dụng KTQT tại các DNKN. Chính vì vậy, nghiên cứu này với mục tiêu nhằm nhận diện và lượng hóa mức độ tác động của từng nhân tố đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Từ đó, có thể khá hữu ích cho các nghiên cứu tương tự trong tương lai cũng như các nhà quản trị DN, các cơ quan quản lý nhà nước khi triển khai và hướng dẫn áp dụng KTQT trong các DN. Dựa vào kết quả nghiên cứu này, các nhà quản trị trong DNKN cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có thể hiểu rõ hơn về mức độ tác động của từng nhân tố đến việc vận dụng KTQT, đồng thời đưa ra các quyết định khi lựa chọn việc triển khai áp dụng KTQT trong DN. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT, XÂY DỰNG GIẢ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu Doanh nghiệp khởi nghiệp: Khởi nghiệp có thể được hiểu như là một quá trình sáng tạo kinh doanh (Kuratko, 2005), hay việc mở một doanh nghiệp mới (start a new business, new venture creation) (Krueger, 1994), (Lowell, 2003) hoặc tinh thần doanh nhân (entrepreuership) và tự làm chủ, tự kinh doanh (sefl employment) (Laviolette, 2012). Như vậy, có thể hiểu doanh nghiệp khởi nghiệp là một công ty mới được thành lập với định hướng tăng trưởng cao (PwC, April 2015). Kế toán quản trị: KTQT là một bộ phận của kế toán liên quan đến việc báo cáo cho các nhà quản trị trong nội bộ DN (Parker, 1984, 1992) nhằm đo lường, phân tích và báo cáo các thông tin tài chính và phi tài chính giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định để thực hiện các mục tiêu của tổ chức (Horngren et al., 2014). KTQT hướng về các quá trình kỹ thuật xử lý, tập trung vào việc sử dụng một cách có hiệu quả và hiệu suất những nguồn lực của tổ chức, hỗ trợ các nhà quản lý hoàn thành nhiệm vụ, gia tăng giá trị cho khách hàng cũng như cổ đông (Langfield-Smith, 2009). Ngoài ra, KTQT là quá trình cung cấp cho các nhà quản trị và các nhân viên trong tổ chức những thông tin thích hợp, bao gồm cả thông tin tài chính và phi tài chính, nhằm mục đích ra quyết định, phân bổ nguồn lực, kiểm tra, giám sát, đánh giá và khen thưởng kết quả thực hiện (Atkinson et al., 2012). Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung KTQT có liên quan với việc cung cấp thông tin cho nhà quản trị nhằm thực hiện các chức năng quản lý. Khung lý thuyết nghiên cứu: thông qua việc sử dụng các kỹ thuật, KTQT bị ảnh hưởng bởi các tổ chức khác nhau, các yếu tố hành vi, kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về KTQT cũng như việc vận dụng KTQT trong các DN, các lý thuyết: lý thuyết dự phòng (contingency theory), lý thuyết đại diện (agency theory), lý thuyết xã hội học (social psychology theory) và lý thuyết về mối quan hệ lợi ích – chi phí (cost benefit theory). Theo lý thuyết dự phòng, việc sử dụng các kỹ thuật KTQT bị ảnh hưởng bởi các tổ chức khác nhau, các yếu tố hành vi, kinh tế và xã hội. Vì vậy, không có một mô hình KTQT khuôn mẫu nào phù hợp cho tất cả các loại hình doanh nghiệp cũng như trường tồn qua các giai đoạn khác nhau (Walker, 1996), (Haldma & Laats, 2002). Việc vận dụng KTQT trong các doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc thù từng ngành, từng lĩnh vực, cũng như phù hợp với quy mô, cơ cấu tổ chức, trình độ công nghệ và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp trong từng giai đoạn. Lý thuyết này đã được sử dụng trong nghiên cứu của Waterhouse and Tiessen (1978), Otley (1980), Nicolaou (2000) và Gerdin and Greve (2004)…. Lý thuyết đại diện giải thích vì sao phải áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm trong DN và đối với các công ty cổ phần, công ty niêm yết hệ thống KTQT cần cung cấp những thông tin gì để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư và các cổ đông. Lý thuyết này đã được Jensen and Meckling (1976), Healy and Palepu (2001) sử dụng trong nghiên cứu của mình để giải thích cho điều trên. Lý thuyết xã hội học cho thấy hệ thống KTQT trong DN không chỉ là những vấn đề mang tính nội bộ DN mà nó chịu tác động ảnh hưởng trong một bối cảnh xã hội chung, nó liên quan đến các chế độ, chính sách hiện hành và giải quyết các mối quan hệ với người lao động trong DN. Vấn đề này đã được sử dụng trong nghiên cứu của Wildavsky and Caiden (2003),
  4. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 811 Covaleski et al. (1996). Lý thuyết quan hệ lợi ích – chi phí chỉ ra rằng lợi ích có được từ việc các thông tin kế toán được cung cấp phải được xem xét trong mối quan hệ với chi phí dùng để tạo ra và cung cấp thông tin đó. Lý thuyết này đã được Trần Ngọc Hùng (2016) sử dụng khi nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt Nam. 2.2. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu Khi nghiên cứu về KTQT cũng như việc vận dụng KTQT trong DN, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã xác nhận và chỉ ra các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong DN như: quy mô doanh nghiệp, nhận thức của chủ sở hữu doanh nghiệp, trình độ chuyên môn của kế toán viên, mức độ cạnh tranh của thị trường, nguồn lực khách hàng,.... Tuy nhiên, với mục tiêu nhằm nhận diện và lượng hóa mức độ tác động của từng nhân tố đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN, nghiên cứu này lựa chọn và đề xuất 05 nhóm nhân tố: (i) quy mô doanh nghiệp, (ii) nhận thức của chủ sở hữu/người quản lý công ty, (iii) trình độ của nhân viên kế toán, (iv) chi phí cho việc tổ chức KTQT và (v) văn hoá doanh nghiệp, có thể tác động đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN ở Việt Nam. Quy mô doanh nghiệp và việc vận dụng KTQT: quy mô DN tác động đến cả cấu trúc lẫn việc sử dụng các công cụ kiểm soát quản lý trong DN. Các DN lớn hơn có nguồn lực cũng như độ phức tạp lớn hơn so với các DN nhỏ, chính vì điều này đã tạo tiền đề cho việc phổ biến KTQT trong các DN lớn hơn. Trong nghiên cứu của mình, Haldma & Laats (2002), Al-Omiri & Drury (2007), Abdel-Kader và Luther (2008) chỉ ra rằng quy mô DN ảnh hưởng đến việc sử dụng KTQT trong việc tổ chức kinh doanh. Một DN lớn hơn thường có tổng nguồn lực lớn hơn và hệ thống thông tin nội bộ tốt hơn, tạo thuận lợi cho việc phổ biến KTQT. Ngoài ra, các DN lớn hơn cũng có hệ thống phức tạp hơn và gặp phải nhiều vấn đề khó khăn hơn. Khi nghiên cứu Hutaibat (2005) đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa nhân tố quy mô DN (được đo lường bằng doanh thu, số lượng nhân viên, các phòng ban,...) với việc vận dụng KTQT. Khi quy mô DN tăng lên thì doanh nghiệp có xu hướng gia tăng, mở rộng việc vận dụng các công cụ kỹ thuật KTQT. Dựa vào kết quả các nghiên cứu trên, giả thuyết đầu tiên của nghiên cứu này được xây dựng như sau: Giả thuyết H1: Các DNKN có quy mô càng lớn thì khả năng vận dụng KTQT trong DN sẽ càng khả thi hơn. Nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty và việc vận dụng KTQT: chủ sở hữu/nhà quản lý là các đối tượng tham gia vào quá trình quản lý công ty, vì vậy họ cần nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của thông tin KTQT trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, hoạch định chiến lược kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, sự nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý về vai trò quan trọng của thông tin KTQT ở các mức độ khác nhau nên việc sử dụng KTQT tại các công ty sẽ khác nhau. Khi nghiên cứu về vấn đề này, Shields (1995), Lybaert (1998) và Brown (2004) đã xác nhận và chỉ ra mức độ tác động của yếu tố này. Trên cơ sở các nghiên cứu này, giả thuyết thứ hai của nghiên cứu này được trình bày như sau: Giả thuyết H2: Các DNKN có người chủ sở hữu/người điều hành công ty có hiểu biết về KTQT, đánh giá cao tính hữu ích của các công cụ kỹ thuật KTQT thì khả năng vận dụng KTQT trong DN sẽ càng khả thi hơn. Chi phí cho việc tổ chức KTQT và việc vận dụng KTQT: qua khảo sát sơ bộ cho thấy, các DNKN ở Việt Nam đa phần là các DN có quy mô nhỏ và vừa nên nguồn vốn còn hạn chế, trong khi để có một hệ thống kế toán tốt, đặc biệt là hệ thống KTQT, các DN cần phải đầu tư một khoản phí không nhỏ để đào tạo nhân viên KTQT và các chi phí khác phục vụ cho việc áp dụng KTQT nên rất ít doanh nghiệp có khả năng đầu tư cho việc này hoặc nếu có thì luôn cân nhắc giữa chi phí đầu tư và hiệu quả mang lại của công tác KTQT. Nhân tố này phù hợp với điều kiện và đặc điểm của các DNKN ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của mình,
  5. 812 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Trần Ngọc Hùng (2016) đã chỉ ra mức độ ảnh hưởng của nhân tố này đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV ở Việt Nam. Vì vậy, để giải thích cho cho mối quan hệ này, giả thuyết tiếp theo của nghiên cứu được xây dựng như sau: Giả thuyết H3: Khi vận dụng KTQT nếu yêu cầu về đầu tư chi phí tổ chức KTQT càng thấp thì khả năng vận dụng KTQT trong DN sẽ càng khả thi hơn. Trình độ nhân viên kế toán và việc vận dụng KTQT: trong DN sự hiện diện của các nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn là một nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT. Thông thường, trong các DN lớn thường có các phòng ban kế toán/tài chính chuyên biệt và có xu hướng tuyển dụng những nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện những báo cáo cũng như những tư vấn chuyên nghiệp. Ngược lại, ở những DN nhỏ thì có sự nghi ngờ rằng hầu hết các DN này đều thuê mướn các nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn (Ahmad, 2012). Ismail and King (2007) chỉ ra rằng có mối quan hệ giữa sự hiện diện của các nhân viên kế toán chuyên nghiệp và mức độ hiểu biết cao về vận dụng KTQT trong DN. Ngoài ra, sự hiện diện của các nhân viên kế toán chuyên nghiệp trong DNNVV giúp tăng khả năng vận dụng KTQT trong DNNVV (McChlery, 2004). Chình vì vậy, giả thuyết về mối quan hệ giữa trình độ nhân viên kế toán và việc vận dụng KTQT được xây dựng như sau: Giả thuyết H4: Các DNKN có nhân viên kế toán được đào tạo có chứng chỉ nghề hoặc bằng cấp kế toán chuyên nghiệp thì khả năng vận dụng KTQT trong DN sẽ càng khả thi hơn. Văn hóa doanh nghiệp và việc vận dụng KTQT: xét từ góc độ quản trị tác nghiệp, văn hoá DN bao gồm một hệ thống những ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, cách nhận thức, phương pháp tư duy được mọi thành viên trong một tổ chức cùng thống nhất, có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến nhận thức và hành động của từng thành viên. Văn hóa DN có vai trò quan trọng trong quản lý, nó là công cụ triển khai chiến lược, phương pháp tạo động lực cho người lao động cũng như sức mạnh đoàn kết cho tổ chức. Điều này cho thấy, nhân tố văn hoá DN có vai trò quan trọng và ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong DN. Khi nghiên cứu về tác động của nhân tố văn hóa DN đến việc vận dụng KTQT, Alper Erserim (2012) cho rằng các loại hình văn hóa DN như: văn hóa hỗ trợ; văn hóa cải tiến và văn hóa quản lý theo mục tiêu có tác động đến việc vận dụng KTQT. Do vậy, giả thuyết cuối cùng của nghiên cứu này được xây dựng như sau: Giả thuyết H5: Các DNKN có văn hóa DN hỗ trợ mạnh thì khả năng vận dụng KTQT trong DN sẽ càng khả thi hơn. Dựa vào việc xem xét các nghiên cứu được thảo luận ở trên, các giả thuyết của nghiên cứu này được mô tả thông qua mô hình nghiên cứu trong Hình 1. Quy mô doanh nghiệp (SIZE) Nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty (PERC) Khả năng vận dụng KTQ T trong các doanh nghiệp khởi Chi phí cho việc tổ chức KTQT nghiệp (POSS) (COST) Trình độ nhân viên kế toán (QUAL) Văn hóa doanh nghiệp (CULT) Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
  6. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 813 Mô hình hồi quy: Dựa vào các giả thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất trình bày ở Hình 1, phương trình hồi quy dự kiến phản ánh mối tương quan giữa “khả năng vận dụng KTQT và các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN” của nghiên cứu này dược mô tả như sau: POSSi= α + β1SIZEi + β2PERCi + β3COSTi + β4QUALi + β5CULTi +εi Trong đó: POSSi là khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN mẫu thứ i; α: Hằng số (constant term); βi: Hệ số các biến giải thích; εi: Phần dư (residual). Các biến SIZE, PERC, COST, QUAL và CULT lần lượt là các biến quy mô doanh nghiệp, nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty, chi phí cho việc tổ chức KTQT, trình độ nhân viên kế toán và văn hóa DN. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN DỮ LIỆU 3.1. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này sử dụng kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để phân tích, xử lý số liệu. Trong đó: Phương pháp nghiên cứu định tính dùng để tổng quan lý thuyết, nghiên cứu trước đây về KTQT và nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DN. Nghiên cứu được thực hiện bằng bảng câu hỏi điều tra (khảo sát) nhằm xác định các biến cần nghiên cứu, từ đó làm cơ sở cho thiết kế câu hỏi đưa vào nghiên cứu định lượng. Phương pháp định lượng nhằm lượng hóa và đo lường những thông tin thu thập bằng con số cụ thể. Dữ liệu thu thập trong nghiên cứu là dữ liệu sơ cấp thông qua bảng câu hỏi điều tra (bảng khảo sát) tại các DN mới thành lập (DNKN) ở một số tỉnh, thành phố như: TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam,… Đối tượng khảo sát là giám đốc, kế toán trưởng, kế toán viên, nhân viên KTQT và những người tham gia KTQT của DN. Để đánh giá mức độ tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN cần thực hiện việc kiểm định các thang đo và mô hình lý thuyết thông qua phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, nhân tố khám phá EFA, phân tích tương quan hồi quy tuyến tính bằng phần mềm SPSS 20. 3.2. Nguồn dữ liệu Khi phân tích hồi quy, các nhà nghiên cứu cho rằng kích thước mẫu tối thiểu phải từ 100 đến 150 (Hair et al., 1998). Theo Bollen (1989) thì kích thước mẫu tối thiểu là 5 mẫu cho 1 ước lượng (tỷ lệ 5:1) (trích Nguyễn Đình Thọ, 2011). Những quy tắc kinh nghiệm khác trong xác định cỡ mẫu cho phân tích nhân tố EFA: thông thường thì kích thước mẫu phải bằng 4 hay 5 lần số biến trong phân tích nhân tố (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Trong mô hình nghiên cứu đề xuất của nghiên cứu này có 21 biến quan sát, do vậy kích thước mẫu tối thiểu cho phân tích hồi quy của nghiên cứu này sẽ là: 21*5 = 105 mẫu. Dữ liệu thu thập trong nghiên cứu này được thực hiện thông qua bảng câu hỏi khảo sát chi tiết với thang đo Likert 5 bậc (từ 1: Rất không đồng ý đến 5: Rất đồng ý). Để phù hợp cho mô hình nghiên cứu cũng như việc phân tích, xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS 20, tác giả đã tiến hành gửi 280 bảng khảo sát đến các DN mới thành lập thông qua email, phỏng vấn trực tiếp, kết quả thu về được 250 bảng khảo sát, trong đó có 05 bảng khảo sát không cung cấp đầy đủ thông tin vì vậy không đạt yêu cầu. Sau khi loại bỏ các bảng khảo sát không đạt yêu cầu, còn lại 245 bảng đạt yêu cầu. Như vậy, cỡ mẫu được sử dụng trong nghiên cứu này là 245 mẫu (mỗi bảng khảo sát cho một DN).
  7. 814 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA 3.3. Thang đo Thang đo các biến quan sát trong mô hình của nghiên cứu này được phát triển dựa trên các thang đo gốc của các nghiên cứu trước và được điều chỉnh sau nghiên cứu định tính. Bảng 2. Thang đo các khái niệm trong mô hình và nguồn gốc các thang đo TT Khái niệm nghiên cứu Số biến quan sát Nguồn gốc 1 Quy mô doanh nghiệp 03 Flacke and Segbers (2005), Hutaibat (2005). 2 Nhận thức về KTQT của người chủ/ 04 Shields (1995), Lybaert (1998), Brown người điều hành công ty (2004), Trần Ngọc Hùng (2016). 3 Trình độ của nhân viên kế toán doanh 04 Ismail and King (2007), nghiệp McChlery et al. (2004). 4 Văn hóa doanh nghiệp 03 Alper Erserim (2012). 5 Chi phí cho việc tổ chức KTQT 02 Trần Ngọc Hùng (2016). 6 Vận dụng KTQT trong các doanh 05 nghiệp khởi nghiệp Nguồn: Tác giả tổng hợp 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo Cronbach’s Alpha Thang đo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên là có thể sử dụng tốt và hệ số tương quan biến tổng phải lớn hơn 0,3 thì mới đạt yêu cầu (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Nghiên cứu này tiến hành kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng hệ Cronbach’s Alpha để tìm được thang đo có độ tin cậy cao. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha cho thấy tất cả các biến đều có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,3 và hệ số Cronbach’s Alpha biến tổng lớn hơn 0,6 (Bảng 3), vì vậy thang đo có ý nghĩa và các biến thành phần trong thang đo là đáng tin cậy trong việc đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN. Bảng 3. Kiểm định thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha Trung bình thang Phương sai thang Tương quan Cronbach’s Cronbach’s Số biến Tên biến đo nếu loại biến đo nếu loại biến biến tổng Alpha nếu loại Alpha quan sát biến Quy mô doanh nghiệp (SIZE) SIZE1 7,682 1,759 0,704 0,828 SIZE2 7,629 1,628 0,744 0,792 0,858 3 SIZE3 7,645 1,828 0,755 0,784 Nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty (PERCEPTION) PERC1 11,253 2,682 0,654 0,759 PERC2 11,367 2,619 0,640 0,763 PERC3 11,482 2,406 0,609 0,783 0,814 4 PERC4 11,376 2,604 0,642 0,762 Trình độ nhân viên kế toán (QUALIFICATION) QUAL1 11,771 2,669 0,566 0,793 QUAL2 11,824 2,473 0,629 0,764 QUAL3 11,906 2,553 0,595 0,781 0,812 4 QUAL4 11,886 2,298 0,735 0,712
  8. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 815 Văn hóa doanh nghiệp (CULTURE) CULT1 8,298 2,399 0,723 0,795 CULT2 8,624 1,752 0,752 0,736 0,841 3 CULT3 8,931 1,811 0,693 0,801 Chi phí cho việc tổ chức KTQT (COST) COST1 3,433 1,074 0,654 - COST2 3,416 1,055 0,654 - 0,791 2 Khả năng vận dụng KTQT tại các DNKN tại Việt Nam (POSS) POSS1 16,245 3,997 0,607 0,790 POSS2 16,318 3,898 0,606 0,792 POSS3 16,249 4,065 0,652 0,777 POSS4 16,339 4,274 0,542 0,808 0,822 5 POSS5 16,302 4,212 0,695 0,769 Nguồn: Kết quả nghiên cứu Như vậy, sau khi thực hiện kiểm tra các biến độc lập ở giai đoạn đánh giá độ tin cậy của thang đo, kết quả vẫn giữ nguyên 16 biến quan sát thuộc 5 nhóm nhân tố và không có sự xáo trộn giữa các biến thành phần nên tên các nhân tố vẫn được giữ nguyên. 4.2. Phân tích nhân tố khám phá EFA 4.2.1. Phân tích thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN Kết quả của phân tích nhân tố khám phá các biến độc lập (Bảng 4) cho thấy, hệ số KMO = 0,751 (thỏa mãn tiêu chí 0,5 ≤KMO ≤ 1) nên đạt yêu cầu, và kiểm định Barlett’s có Sig =0,000 50%, tại Eigenvalues = 1,506> 1 nên đạt yêu cầu, và cho thấy các biến độc lập đưa vào mô hình giải thích được 72,314% các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng KTQT trong các DNKN (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Thực hiện phép xoay Varimax bằng phần mềm SPSS 20, ta có ma trận xoay nhân tố (Rotated component matrix) trong đó thể hiện các biến đặc trưng đều có hệ số tải nhân tố (Factor loading) lớn hơn 0,5, đạt yêu cầu. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA là hoàn toàn phù hợp và các nhân tố trích ra đều có độ tin cậy và giá trị. Bảng 4. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA các biến độc lập Ma trận xoay nhân tố (Rotated Component Matrix) Tên biến Thành phần 1 2 3 4 5 PERC2 0,807 PERC4 0,798 PERC1 0,782 PERC3 0,756 QUAL4 0,860 QUAL2 0,794 QUAL3 0,753 QUAL1 0,709 SIZE3 0,892 SIZE2 0,883 SIZE1 0,858 CULT2 0,899
  9. 816 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA CULT1 0,875 CULT3 0,852 COST2 0,902 COST1 0,898 Sig 0,000 Hệ số KMO 0,751 Eigenvalues 1,506 Tổng phương sai trích 72,314% Nguồn: Kết quả nghiên cứu 4.2.2. Phân tích nhân tố thang đo khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA của biến phụ thuộc (Bảng 5) cho thấy, hệ số KMO = 0,841 (thỏa mãn tiêu chí 0,5 ≤ KMO ≤ 1) nên mô hình phù hợp cho việc phân tích. Kiểm định Barlett’s có Sig = 0,000 nên kiểm định này có ý nghĩa thống kê và các biến có tương quan nhau trong tổng thể. Đồng thời, Tổng phương sai trích là 59,173% > 50%; tại Eigenvalues = 2,959> 1 nên mô hình đủ điều kiện để phân tích nhân tố khám phá. Bảng 5. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA của biến phụ thuộc Ma trận thành phần (Component Matrix) 1 POSS5 0,826 2 POSS3 0,795 3 POSS1 0,761 4 POSS2 0,756 5 POSS4 0,702 Sig 0,000 KMO 0,841 Eigenvalues 2,959 Tổng phương sai trích 59,173% Nguồn: Kết quả nghiên cứu Như vậy, toàn bộ 05 khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN ở Việt Nam đều thỏa mãn có hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0,5. Điều này cho thấy, biến phụ thuộc POSS trong nghiên cứu này có 05 biến quan sát là POSS1, POSS2, POSS3, POSS4, POSS5. 4.3. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng KTQT trong các DNKN 4.3.1. Phân tích tương quan Pearson Kết quả phân tích tương quan Pearson (Bảng 6) cho thấy: Giá trị Sig giữa các biến độc lập SIZE, PERC, QUAL, CULT, COST với biến phụ thuộc POSS bằng 0,000 nhỏ hơn 5% nên hệ số tương quan Pearson (Pearson Correlation) có ý nghĩa thống kê, các biến độc lập có tương quan với biến phụ thuộc và sẽ được đưa vào mô hình để giải thích cho biến phụ thuộc. Hệ số tương quan Pearson càng lớn thì tương quan càng chặt. Bảng 6. Sự tương quan giữa các biến trong mô hình nghiên cứu POSS SIZE PERC QUAL CULT COST Hệ số tương quan Pearson 1 0,316** 0,425** 0,508** 0,229** 0,510** POSS Sig. (2-tailed) 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 N 245 245 245 245 245 245 Ghi chú: ***: mức ý nghĩa 1%. Nguồn: Kết quả nghiên cứu
  10. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 817 4.3.2. Kiểm định giả thuyết bằng mô hình hồi quy tuyến tính bội Kết quả phân tích hồi quy (Bảng 7, Bảng 8) cho thấy: Giá trị Sig của mô hình bằng 0,000 nhỏ hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa 1% nên mô hình hồi quy có ý nghĩa thống kê, phù hợp với tập dữ liệu và có thể sử dụng được, tức là các biến độc lập SIZE, PERC, QUAL, CULT, COST có ảnh hưởng đến biến phụ thuộc POSS (khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN); hệ số R2 hiệu chỉnh của mô hình là 64,7%, tức là sự biến thiên khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN được giải thích bởi các nhân tố được đưa vào mô hình là 64,7% (hay nói cách khác, 64,7% biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập). Hệ số phóng đại phương sai VIF (Variance Inflation Factor) của các biến độc lập đều nhỏ hơn 10 nên hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra thấp (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008) và hiện tượng đa cộng tuyến không bị vi phạm nếu VIF < 2.20 (Nguyễn Đình Thọ, 2011), vì vậy không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Ngoài ra, qua kết quả phân tích hồi quy còn cho thấy, tất cả 5 nhóm nhân tố đưa vào mô hình bao gồm: (i) quy mô doanh nghiệp, (ii) nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty, (iii) chi phí cho việc tổ chức KTQT, (iv) trình độ nhân viên kế toán trong DN và (v) văn hóa doanh nghiệp có ý nghĩa thống kê ở mức 1% và ảnh hưởng đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Như vậy, các hệ số hồi quy tìm được có ý nghĩa và mô hình được sử dụng tốt. Bảng 7. Tóm tắt mô hình (Model Summary) Mô hình R R2 R2 hiệu chỉnh Sai số chuẩn của ước Giá trị lượng Durbin-Watson 1 0,809a 0,654 0,647 0,294 2,294 a. Predictors: (Constant), COST, PERC, CULT, SIZE, QUAL b. Biến phụ thuộc: POSS Nguồn: Kết quả nghiên cứu Bảng 8. Kết quả phân tích hồi quy Hệ số chưa chuẩn Hệ số Thống kê hóa chuẩn hóa đa cộng tuyến P-value VIF hệ số Mô hình Độ lệch Hệ số B Beta t Sig. phóng đại chuẩn Tolerance phương sai Hằng số -0,373 0,231 -1,617 0,107 SIZE 0,178 0,030 0,229 5,885 0,000 0,956 1,046 PERC 0,235 0,040 0,247 5,928 0,000 0,837 1,195 1 QUAL 0,352 0,041 0,363 8,666 0,000 0,824 1,214 CULT 0,141 0,028 0,194 5,018 0,000 0,972 1,029 COST 0,256 0,020 0,486 12,723 0,000 0,994 1,007 a. Biến phụ thuộc: POSS Nguồn: Kết quả nghiên cứu Dựa vào kết quả phân tích hồi quy ở Bảng 8, phương trình hồi quy chưa chuẩn hoá của nghiên cứu này được xây dựng như sau: POSS= -0,373+0,178*SIZE+0,235*PERC+0,256*COST+0,352*QUAL+0,141*CULT
  11. 818 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA 5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ Kết quả phân tích hồi quy cho thấy, 05 nhóm nhân tố bao gồm: (i) quy mô doanh nghiệp, (ii) nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty, (iii) chi phí cho việc tổ chức KTQT, (iv) trình độ nhân viên kế toán trong DN và (v) văn hóa doanh nghiệp sẽ đại diện cho 16 biến quan sát có tác động dương đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN với mức ý nghĩa là 1%. Các nhân tố tác động đến việc vận dụng KTQT được phân định thứ bậc rõ rệt, trong đó trình độ nhân viên kế toán trong DN tác động mạnh nhất đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Cụ thể: Trình độ nhân viên kế toán trong DN: hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,352 và quan hệ cùng chiều với khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Điều này có nghĩa rằng, khi trình độ nhân viên kế toán trong DNKN (nhân viên kế toán được đào tạo có chứng chỉ nghề hoặc bằng cấp kế toán chuyên nghiệp) tăng 1 đơn vị (các yếu tố khác không đổi), thì khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tăng 0,352 đơn vị (tương ứng với hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,352). Kết quả này có khác biệt với kết quả nghiên cứu của Trần Ngọc Hùng (2016) nhưng đồng nhất với nghiên cứu của Ahmad (2012) và Ismail and King (2007). Ở Việt Nam, các DNKN đa phần là các DNNVV nên đội ngũ nhân viên kế toán với số lượng ít và hầu hết chỉ có kinh nghiệm về kế toán tài chính, còn kiến thức về KTQT chưa được đào tạo bài bản. Chính vì vậy, dẫn tới bộ phận kế toán nói chung và KTQT nói riêng của DNKN mamh mún, kiến thức về KTQT chưa cao. Do vậy, các DNKN cần nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên kế toán của mình để việc vận dụng KTQT được thuận lợi hơn. Chi phí cho việc tổ chức KTQT: hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,256 và quan hệ cùng chiều với khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Điều này được lý giải rằng, khi chi phí cho việc tổ chức KTQT trong các DNKN (càng thấp) tăng 1 đơn vị (các yếu tố khác không đổi), thì khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tăng 0,256 đơn vị. Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu của Trần Ngọc Hùng (2016). Ở Việt Nam, các DNKN đa phần là có quy mô nhỏ và vừa nên nguồn vốn còn hạn chế, trong khi để có một hệ thống kế toán tốt, đặc biệt là hệ thống KTQT cần phải đầu tư một khoản phí không nhỏ để phục vụ cho việc áp dụng KTQT nên các DNKN luôn cân nhắc giữa chi phí đầu tư và hiệu quả mang lại của công tác KTQT, đây chính là một trong những nguyên nhân mà các DNKN chưa muốn áp dụng KTQT vào DN của mình. Nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty: hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,235 và quan hệ cùng chiều với khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Điều này có nghĩa, khi các DNKN có người chủ sở hữu/người điều hành công ty có hiểu biết về KTQT, đánh giá cao tính hữu ích của các công cụ kỹ thuật KTQT tăng 1 đơn vị (các yếu tố khác không đổi), thì khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tăng 0,235 đơn vị. Kết quả này đồng nhất với nghiên cứu của Shields (1995), Lybaert (1998) và Brown (2004). Các DNKN ở Việt Nam do mới thành lập nên năng lực quản lý của các nhà quản trị/điều hành DN còn hạn chế và các quyết định thường bị chi phối bởi yếu tố cảm tính hơn là tuân thủ các nguyên tắc, kỹ năng, kiến thức quản trị, đồng thời chưa xác định vai trò quan trọng của công tác KTQT (một số nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng KTQT có vai trò cung cấp thông tin cần thiết cho nhà quản trị trong việc xây dựng các chiến lược và ra các quyết định kinh doanh nhưng doanh nghiệp chưa có điều kiện để áp dụng, còn một số lại cho rằng KTQT không thực sự cần thiết vì đã có kế toán tài chính),…dẫn đến việc vận dụng KTQT trong DNKN còn hạn chế. Do vậy, các nhà quản trị DN cần nhận thức được vai trò quan trọng của KTQT trong việc quản lý, điều hành DN. Quy mô doanh nghiệp: hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,178 và quan hệ cùng chiều với khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Có nghĩ khi các DNKN có quy mô càng lớn (được đo lường bằng doanh
  12. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 819 thu, số lượng nhân viên, các phòng ban…) tăng 1 đơn vị (các yếu tố khác không đổi), khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tăng 0,178 đơn vị. Kết quả phù hợp với các nghiên cứu của Abdel-Kader và Luther (2008), Haldma & Laats (2002), Hutaibat (2005) và Al-Omiri & Drury (2007). Các DNKN với quy mô vừa và lớn thường xây dựng các kế hoạch, chiến lược kinh doanh nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động, tiềm lực kinh tế, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và đứng vững trên thị trường thông qua việc sử dụng các công cụ kỹ thuật KTQT như: chi phí (costing), dự toán (budgeting), đánh giá hiệu suất (performance evaluation), hỗ trợ quá trình ra quyết định (decision support), quản trị chiến lược (strategic management). Chính vì vậy, khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN này sẽ tăng và tính khả thi cao hơn. Văn hóa doanh nghiệp: hệ số tương quan chưa chuẩn hóa là 0,141 và quan hệ cùng chiều với khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN. Điều này cho thấy, khi các DNKN có văn hóa DN hỗ trợ mạnh tăng 1 đơn vị (các yếu tố khác không đổi), khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN tăng 0,141 đơn vị. Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Alper Erserim (2012). Tại Việt Nam, văn hóa DN trong các DNKN vẫn mang đậm nét văn hóa gia đình, do đó sẽ có sự gắn kết chặt chẽ giữa các thành viên trong công ty, sự chia sẻ về thông tin hay hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà quản lý với nhân viên, giữa các nhân viên với nhau và đây sẽ là tiền đề tốt cho việc vận dụng KTQT vào DN. Như vậy, nghiên cứu này đã chỉ ra được mức độ tác động của từng nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN. Tuy nhiên, 05 nhân tố đại diện này mới phản ánh được 64,7% vấn đề nghiên cứu và vẫn còn những nhân tố khác, biến quan sát khác có thể cũng ảnh hưởng đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN nhưng chưa được nghiên cứu này chỉ ra hết được trong mô hình nghiên cứu, do giới hạn về phạm vi, thời gian và loại hình DN được khảo sát. Đồng thời, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp từ các nghiên cứu đã được công bố trước đây hoặc được công bố khá lâu, mẫu nghiên cứu còn ít nên tính khái quát còn hạn chế và phần nào làm ảnh hưởng đến chất lượng của nghiên cứu. Do đó, để kết quả nghiên cứu các nội dung tương tự nghiên cứu này được thuyết phục hơn, các nghiên cứu tương lai có thể mở rộng khung khái niệm nghiên cứu bằng cách nghiên cứu mức độ tác động của một tập hợp nhiều nhân tố hơn đến việc vận dụng KTQT, đồng thời cần cập nhật các nghiên cứu được công bố mới nhất và mở rộng quy mô mẫu. 6. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Qua việc nghiên cứu tổng quan các nghiên cứu trước đây ở Việt Nam và trên thế có thể thấy KTQT có vai trò quan trọng như là một công cụ kỹ thuật quản trị hữu hiệu trong các DN nói chung, DNKN nói riêng. Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như lợi ích của việc vận dụng KTQT, tác giả đã tiến hành phân tích và tìm ra nhóm các nhân tố (bao gồm: (i) trình độ nhân viên kế toán trong DN, (ii) chi phí cho việc tổ chức KTQT, (iii) nhận thức của chủ sở hữu/nhà quản lý công ty, (iv) quy mô doanh nghiệp và (v) văn hóa doanh nghiệp) lần lượt tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNKN theo mức độ từ cao xuống thấp bằng phương pháp nghiên cứu định lượng (như phương pháp phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích tương quan hồi quy tuyến tính). Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNKN sẽ được gia tăng khi: trình độ của đội ngũ nhân viên kế toán trong DN được nâng cao; các DNKN nếu tính toán, lập dự toán về chi phí đầu tư ở mức độ phù hợp với khả năng của DN; chủ sở hữu/nhà quản lý công ty có kiến thức, hiểu biết cũng như đánh giá cao về tính hữu ích và vai trò các công cụ kỹ thuật KTQT; DN có quy mô càng lớn (thể hiện qua doanh thu, số lượng nhân viên hoạt động bình quân, số lượng các phòng ban); và DNKN xây dựng được cho mình một nền văn hóa DN mạnh. Trong đó, yếu tố trình độ nhân viên kế toán trong DN có tác động mạnh nhất và văn hóa DN có tác động yếu nhất đến khả năng vận dụng KTQT trong các DNKN.
  13. 820 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA Thông qua kết quả của nghiên cứu này, tác giả đưa ra một số khuyến nghị nhằm gia tăng mức độ khả thi của việc vận dụng KTQT trong các DNKN, cụ thể: Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: cần sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách để phân định phạm vi giữa kế toán tài chính và KTQT; hướng dẫn tổ chức KTQT trong từng ngành, từng loại hình doanh nghiệp, để doanh nghiệp tham khảo, vận dụng phù hợp vào điều kiện cụ thể. Thứ hai, đối với các cơ sở đào tạo và tổ chức nghề nghiệp: phát huy vai trò trong việc đào tạo, bồi dưỡng và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ đối với công tác KTQT tại DN, đồng thời tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức về KTQT cho DN và hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp quốc tế về KTQT. Thứ ba, đối với các DNKN: các nhà quản lý/điều hành DN cần phải học hỏi kinh nghiệm và thay đổi cách nhìn nhận về KTQT; nâng cao kiến thức chuyên môn về KTQT cho bộ phận kế toán của DN và xây dựng hệ thống KTQT phù hợp với công tác quản lý, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,…Đồng thời, xây dựng cho DN mình một nền văn hóa doanh nghiệp mạnh để gắn kết chặt chẽ các thành viên trong DN, có sự sẻ chia về thông tin hay hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà quản lý với nhân viên, giữa các nhân viên với nhau, làm tiền đề cho việc triển khai vận dụng các công cụ kỹ thuật KTQT vào công tác quản lý trong các DNKN tại Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abdel-Kader and Luther. (2008). The impact of firm characteristics on management accounting practices: A UK- based empirical analysis. The BritishAccounting Review. , 40: 2-27. 2. Ahmad K. (2012). The use of management accounting practices in Malaysia SMEs. PhD thesis. University of Exeter. 3. Ahmad, K. & Mohamed-zabri, S. (2013). The relationship between the use of management accounting practices and the performance of Malaysian medium-sized enterprises. Melaka, Malaysia: In: Proceedings the 2nd International Conference on Global Optimization and Its Applications 2013 (Icogoia 2013) 28-29 August 2013. 4. Al-Omiri, M. a., & Drury, A.-O. a. (2007). A survey of factors influencing the choice of product costing systems in UK organizations. Management AccountingResearch, , 18: 399-424. 5. Alper Erserim. (2012). The impacts of organizational culture, firm’s characteristics and external environment of firms on Management Accounting Practices: An empirical research on industrial firms in Turkey. Procedia - Social and Behavioral Sciences 62 , 372-376. 6. Atkinson, A. A. (2012). Management accounting: information fordecision-making and strategy executive, 6thedition. Pearson Prentice Hall. 7. Brown J.H, et al. (2004). Toward a metabolic theory of ecology. the Ecological Society of America . 8. Bùi Ngọc Toản. (2016). Tác động của chính sách vốn lưu động đến khả năng sinh lợi trên tổng tài sản của các doanh nghiệp ngành bất động sản Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ , số tạp chí 44 (2016) 18-27. 9. Chin, W. W., and Todd, P. A. (1995). On the Use, Usefulness, and Ease of Use of Structural Equation Modeling in MIS Research: A Note of Caution. MIS Quarterly, (19:2), pp. 237-246. 10. Covaleski et al. (1996). Managerial accounting research: the contributions of organizational and sociological theories. Journal of Management Accounting Research , 8, p. 1-35, 1996. 11. Doan, N. P. A, Nguyen, D. T & Mia, L. (2011). Western management accounting practices in Vietnamese enterprises: Adoption and perceived benefits. Pacific Accounting Review. 23(2):142 – 164. 12. Donaldson, L. (2001). The contingency theory of organizations. Thousand Oaks, CA: Sage Publications. 13. Franco-Santos et al. (2007). Towards a definition of a business performance measurement system. International Journal of Operations & Production Management, 27, 784-801.
  14. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 821 14. Gerbing, D. W., & Anderson, J. C. (1988). Structural Equation Modeling in Practice: A Review and Recommended Two-Step Approach. Psychological Bulletin, Vol.103, 3, pp.411-423. 15. Gerdin, J. and Greve, J. (2004). Forms of contingency fit in management accounting research - a critical review. Accounting, Organizations and Society, 29: 303-326. 16. Hair, J.F et al. (1998). Multivariate Data Analysis, Fifth Edition. Prentice-Hall International, Inc. 17. Haldma, T. & Laats, K. (2002). Contingencies influencing the management accounting practices of Estonian manufacturing companies. ManagementAccounting Research, 13: 379 - 400. 18. Hayes, D. (1977). The contingency theory of managerial accounting. Accounting Review, 52 : 22-39. 19. Healy, P. and Palepu, K. (2001). Information Asymmetry, Corporate Disclosure, and the Capital Markets: A Review of the Empirical Disclosure Literature. Journal of Accounting and Economics , 31, pp. 404-440. 20. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2008). Phân tích dữ liệu nghiên cứu SPSS. NXB thống kê. 21. Hove, P., Sibanda, K. & Pooe, D. (2014). The impact of Islamic banking on entrepreneurial motivation, firm competitiveness and performance in South African small and medium enterprises. Mediterranean Journal of Social Sciences, 5(15), pp. 165-174. 22. Hutaibat, A. (2005). Management Accounting Practices in Jordan - AContingency Approach. Ph.D thesis. University of Bristol, United Kingdom. 23. IFAC. (1998). International Management Accounting Practice Statement: Management Accounting Concepts. New York. 24. IMA. (2008). Definition of Management Accounting. Institute of Management Accountant. 25. Ismail, N.A and King. M. (2007). Factors influencing the alignment of accounting information systems in small and medium sized Malaysian manufacturing firms. Systems and Small Business . 26. Jensen, M. C. and Meckling, W. H. (1976). Theory of the Firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure. Journal of Financial Economics. 27. Jöreskog, K. G. & Sörbom, D. (1989). Lisrel 7. A guide to the program and applications. (2nd Ed.). Chicago: Illinois: SPSS Inc. 28. Kolvereid, L. ( (1996a)). Organizational employment versus sefl – employment: Reasons for career intentions. Entrepreneurship Theory and Practice, 20 (3), 23-31. 29. Krueger,N.B. (1994). Entrepreneurial Potential and Potential Entrepreurs. Entrepreurship Theory and Practice, 18 (3), 91-104. 30. Kuratko, D. (2005). The emergence of entrepreneurship education:. 31. Laitinen, E. K. (2003). Future-based management accounting: a new approach with survey evidence. Critical Perspectives on Accounting, 14 : 293 – 323. 32. Laitinen, E. K. (2001). Management accounting change in small technology companies: towards a mathematical model of the technology firm. Management Accounting Research, 12: 507-541. 33. Langfield-Smith K., H. T. (2009). ManagementAccounting: Information for creating and managing value, 5thed, McGraw-HillIrwin. 34. Laviolette, E. L. (2012). The impact of story bound entrepreneurial role models on sefl – efficacy and entrepreneurial intention. International Journal of Entrepreneurial Behavior and Research , 18 (6), 720-742. 35. Lord, B. (1996). Strategic Management Accounting: The emperor‘s new clothes?. Management Accounting Research, 7:347-366. 36. Lowell, W. (2003). Entrepreneurship Research in Emergence: Past Trends and Future Directions. Journal of Management , 29 (3), 286 -309. 37. Lybaert, N. (1998). The information use in a SME: its importance and some elements of influence. Small Business Economics, 10(2), 171-191.
  15. 822 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA 38. Maziriri, E. T.& Mapuranga, M. (2017). The Impact of Management Accounting Practices (Maps) on the Business Performance of Small and Medium Enterprises within the Gauteng Province of South Africa. Journal of Accounting and Management , V o l. 7, no. 2, pp. 12-25. 39. Maziriri, E.T. and Chinomona, E. (2016). Modelling the Influence of Relationship Marketing, Green Marketing and Innovative Marketing on the Business Performance of Small, Medium and Micro Enterprises (SMMES). Journal of Economics and Behavioral Studies , 8(3), pp. 127-139. 40. McChlery, S. M. (2004). Barriers and catalysts to sound financial management systems in small sized enterprises. Research Executive Summaries Series. CIMA,1: 3. 41. Mitchell, F. & Reid, G.C. (2000). Editorial problems, challenges and opportunities: the small business as a setting for management accounting research. Management Accounting Research , vol. 11, pp. 385– 390. 42. Nguyễn Đình Thọ. (2011). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh - thiết kế và thực hiện. Nhà xuất bản Lao động Xã hội. 43. Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang. (2008). Nghiên cứu khoa học marketing - Ứng dụng mô hình cấu trúc tuyến tính SEM. TP. HCM: NXB Đại học Quốc Gia. 44. Nguyễn Thu Hiền. (2018). Một số vấn đề về kế toán quản trị trong các doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam. Tạp chí công thương , Số 2 - Tháng 2/2018, tr339-343. 45. Nicolaou, A. (2000). A contingency model of perceived effectiveness in accounting information systems: Organizational coordination and control effects. 46. Norman, G. L. & Judith, S. L. (2015). What Is A Theoretical Framework? A Practical Answer. Journal of Science Teacher Education , 26, 593–597. 47. Otley, D. (1980). The contingency theory of management accounting: achievement and prognosis. . Accounting, Organizations and Society, 5: 413-428. 48. Parker R.H. (1984, 1992). Macmillan Dictionary of Accounting. 49. PwC Consulting (Singapore) Pte Ltd. (April 2015). Singapore’s tech-enabled startup ecosystem. Strictly private and confidential. 50. Robin Mann & Dennis Kehoe. (1994). An Evaluation of the Effects of Quality Improvement Activities on Business Performance. International Journal of Quality & Reliability Management , Vol. 11 Issue: 4, pp.29-44. 51. Scapens, R. & Bromwich, M. (2010). Management Accounting Research: 20 years. Management Accounting Research , 21, pp. 278–284. 52. Segars, A. and Grover, V. (1993). Re-Examining Perceived Ease of Use and Usefulness: A Confirmatory Factor Analysis. MIS Quarterly , 17, 517-525. 53. Shields, M. D. (1995). An empirical analysis of firms’ implementation experiences with activity-based costing. Management Accounting Research , 7,1–28. 54. Smith, T. M. & Reece, J. S. (1999). The relationship of strategy, fit, productivity, and business performance in a services setting. Journal of Operations Management, 17(2): 145-161. 55. Steenkamp, J.B. E. M., & Van Trijp, H. C. M. (1991). The Use of Lisrel in Validating Marketing Constructs. International Journal of Research in Marketing , 8(4), 283-299. 56. Sulaiman, M.B et al. (2004). Management accounting practices in selected Asian countries: A Review of the Literature. Managerial Auditing Journal, 19(4):493–508. 57. Taylor, S., Sharland, A., Cronin, J. and Bullard, W. (1993). Recreational Service Quality in the International Setting. International Journal of Service Industry Management , 4, 68-86. 58. Tổng cục thống kê. (n.d.). Tình hình kinh tế - xã hội năm 2015, 2016, 2017 và 6 tháng đầu năm 2018. 59. Trần Ngọc Hùng. (2016). Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các DN nhỏ và vừa tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh .
  16. INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION 823 60. Walker, E. R. (1996). An Empirical Analysis of Factors Contributing to the Implementation of an Activity – Based Costing System. PhD thesis. University of Houston. 61. Wang, D.H.M. and Huynh, Q. L. (2013). Mediating Role of Knowledge Management in Effect of Management Accounting Practices on Firm Performance. Journal of Knowledge Management, Economics and Information Technology , Vol. III, 3, pp. 1-25. 62. Waterhouse and Tiessen. (1978). A Contingency Framework for Management. Accounting Systems Research. Accounting, Organizations and Society. 3: 65-76. 63. Wildavsky, A. and Caiden, N. (2003). The New Politics of the Budgetary Process. Fifth Edition, New York: Longman. 64. Wood, E. H. (2006). The internal predictors of business performance in small firms. Journal of Small Business and Enterprise Development , 13(3): 441-452.
nguon tai.lieu . vn