- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Nhận thức của phụ huynh về việc cho trẻ 1 – 6 tuổi sử dụng các thiết bị thông minh
Xem mẫu
- TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017
Nhận thức của phụ huynh về việc cho trẻ 1 – 6 tuổi
sử dụng các thiết bị thông minh
Parents’ perceptions of using smart devices by 1 to 6-year-old children
ThS. Đào Việt Cường,
Trường Đại học Sài Gòn
Dao Viet Cuong, M.A.,
Saigon University
Tóm tắt
Dù đã có nhiều cảnh báo tác động tiêu cực của việc trẻ sử dụng thiết bị thông minh (điện thoại thông
minh, máy tính bảng) nhưng trên thực tế, số trẻ em sử dụng thiết bị thông minh không giảm mà có xu
hướng ngày càng tăng. Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết phụ huynh đều nhận thức được những tác
động tích cực lẫn tiêu cực của việc cho trẻ tiếp cận sớm và thường xuyên với thiết bị thông minh. Tuy
nhiên, phần lớn họ vẫn chưa có cách quản lý trẻ chơi thiết bị thông minh một cách phù hợp để phát huy
những ưu điểm của chúng, đồng thời có thể ngăn chặn những tác động xấu từ chúng đối với trẻ. Trong
đó, nhiều phụ huynh còn phó mặc trẻ với các thiết bị thông minh để đỡ phải trông nom hoặc giúp họ dễ
tập trung vào công việc hơn.
Từ khóa: nhận thức của phụ huynh, trẻ 1 - 6 tuổi, thiết bị thông minh, thoại thông minh, máy tính bảng.
Abstract
Despite many warnings about adverse effects on children from smart devices such as tablets or
smartphones, children’s use of these devices has not decreased as expected but even has a tendency to
increase. The survey results showed that most parents are aware of the positive as well as negative
impacts of allowing children’s access to smart devices in early stages of life. However, the majority of
parents still do not have appropriate management methods to promote the advantages, and
simultaneously to limit the negative impacts of these devices on children. In particular, many parents
leave smart devices to their children without any worries in order that they can be relaxed or may focus
on their work.
Keywords: parents’ perceptions, 1 to 6-year-old children, smart devices, smartphone, tablet.
1. Đặt vấn đề trẻ em lứa tuổi 1-6 tiếp cận với những thiết
Thiết bị thông minh như điện thoại bị thông minh ngày càng phổ biến. Tuy
thông minh (Smart Phone), máy tính bảng nhiên, có không ít cảnh báo về những tác
(Tablet Computer), ngày nay không chỉ động xấu của việc trẻ chơi thiết bị thông
hướng đến đáp ứng nhu cầu công việc của minh như hạn chế vận động, giao tiếp, cảm
người lớn mà còn được họ sử dụng như xúc và các vấn đề về thị giác, dư cân ở
một loại đồ chơi công nghệ dùng để dỗ trẻ… Với phụ huynh, liệu họ có nhận thức
dành trẻ rất hiệu quả. Vì vậy, việc có nhiều được những vấn đề trên và có cách quản lý
94
- ĐÀO VI T CƯỜNG
nào giúp trẻ chơi với chúng một cách hợp tiếp xúc thiết bị thông minh từ rất sớm
lý, hiệu quả. Từ thực tiễn đó, tác giả tiến khoảng 2 tuổi. Kết quả phỏng vấn nhiều
hành nghiên cứu thực trạng “Nhận thức của phụ huynh cho biết trẻ không chỉ chơi thiết
phụ huynh về việc cho trẻ 1-6 tuổi sử dụng bị thông minh mà còn được sở hữu chúng.
các thiết bị thông minh”. Giải thích về việc này, nhiều phụ huynh
2. Giải quyết vấn đề cho rằng thiết bị thông minh giúp họ dễ
Khách thể nghiên cứu được chọn ngẫu dàng hơn trong việc dỗ dành trẻ hay thuyết
nhiên từ nhiều khu vực khác nhau trên địa phục trẻ làm điều gì đó mà không bị mất
bàn Quận 8 và Quận 2 TP.HCM, cụ thể 68 nhiều thời gian, hơn nữa, chúng không quá
trẻ từ 1-6 tuổi và phụ huynh của trẻ ở độ đắt để có thể mua cho trẻ.
tuổi này. Thiết bị thông minh được đề cập
trong nghiên cứu chỉ xem xét ở các thiết bị
nhỏ mà trẻ sử dụng phổ biến là điện thoại
thông minh và máy tính bảng. Phương
pháp điều tra chủ yếu dựa vào bảng hỏi
dành cho phụ huynh, đồng thời kết hợp
phỏng vấn để làm rõ thực trạng nhận thức
của phụ huynh về việc cho trẻ sử dụng thiết
bị thông minh ở gia đình. Nhằm đánh giá
một cách tổng quát về thực trạng sử dụng
thiết bị thông minh ở trẻ chúng tôi sử dụng Biểu đồ 1. Lứa tuổi được tiếp cận thiết bị
thang đo Likert, được chia ở 5 mức độ thông minh
tương ứng với thang điểm 5 về sự đồng ý 2.1. Thói quen sử dụng thiết bị thông
trong phần trả lời của người tham gia khảo minh của trẻ ở gia đình
sát, cụ thể điểm quy đổi ở mỗi mức độ Kết quả khảo sát từ 68 phụ huynh ở
tương ứng như sau: điểm tương ứng với bảng 1 cho thấy, 100% phụ huynh khẳng
mức độ hoàn toàn không đồng ý, điểm định trẻ rất thích chơi thiết bị thông minh,
tương ứng mức độ không đồng ý, điểm 96.7% phụ huynh cho rằng trẻ thích chơi
tương ứng mức độ không đồng ý cũng thiết bị thông minh hơn các thứ khác,
không phản đối, điểm tương ứng với 93.3% phụ huynh cho biết biểu hiện hành
mức độ đồng ý và điểm tương ứng với vi dễ thấy của trẻ khi chơi thiết bị thông
mức độ hoàn toàn đồng ý. minh là trẻ thường tự ngồi chơi một mình
Số liệu ở biểu đồ 1 cho thấy có 60 trẻ và dù có người bên cạnh thì trẻ cũng không
trong tổng số 68 trẻ em tham gia khảo sát nói chuyện với ai, có tỉ lệ trả lời khá cao
có sử dụng điện thoại thông minh hoặc 90%. Ngoài ra, ở trẻ cũng có nhiều thói
máy tính bảng, chiếm tỉ lệ 88.3%. Trong số quen khác khi chơi thiết bị thông minh
60 trẻ có sử dụng thiết bị thông minh, hầu như: trẻ có thể tự mình tìm trò chơi trên
hết cha mẹ cho biết trẻ được chơi thiết bị thiết bị, trẻ thành thạo nhiều trò chơi khác
thông minh từ khoảng 3 tuổi, có 46 trẻ, nhau, trẻ thích vừa ăn vừa chơi và khi đang
chiếm tỉ lệ 76.7%, được chơi từ khoảng 2 chơi thiết bị thông minh trẻ thường làm
tuổi có 14 trẻ, chiếm tỉ lệ 23.3%. việc khác qua loa, vội vàng để nhanh
Thực trạng cho thấy, 23.3% trẻ bắt đầu chóng tiếp tục được chơi.
95
- NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH VỀ VI C CHO TRẺ 1 – 6 TUỔI SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ THÔNG MINH
Bảng 1. Thói quen sử dụng thiết bị thông minh của trẻ trong gia đình
Thói quen sử dụng thiết bị thông minh ở trẻ Tỉ lệ đồng ý nói chung Mean
Trẻ em rất thích chơi điện thoại thông minh (hoặc máy
100.0 4.9
tính bảng).
Trẻ thích chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính
bảng) 96.7 4.8
hơn các thứ khác.
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng)
93.3 4.6
trẻ thường tự ngồi chơi một mình.
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng)
90.0 4.2
dù có người bên cạnh trẻ cũng không nói chuyện với ai.
Trẻ chơi thành thạo các trò chơi trên điện thoại thông
minh 86.7 4.2
(hoặc máy tính bảng).
Trẻ thích vừa ăn vừa xem điện thoại thông minh (hoặc
máy 81.7 3.0
tính bảng).
Khi đang chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính
68.3 3.9
bảng) trẻ làm việc khác vội vàng, qua loa.
Trẻ có thể tự tìm trò chơi trên điện thoại thông minh
68.3 3.9
(hoặc máy tính bảng).
Trẻ chỉ quan tâm người lớn khi muốn được chơi điện
thoại 58.3 3.6
thông minh (hoặc máy tính bảng).
Chúng tôi quan sát hành vi sử dụng cảm thấy vui thì thường cũng phải nửa
thiết bị thông minh ở trẻ để làm rõ thói tiếng, hoặc nhiều hơn và còn tùy trẻ đang
quen của trẻ khi sử dụng chúng, kết quả có làm gì, ở đâu".
thể khẳng định trẻ sử dụng thiết bị thông
minh gần như bất kỳ lúc nào ở nhà và có
biểu hiện trẻ càng "chưa ngoan" càng được
chơi nhiều, như trường hợp trẻ không chịu
hợp tác với người lớn trong việc ăn uống
thì thiết bị thông minh được xem là phương
tiện hiệu quả để "giúp" trẻ ăn.
Với câu hỏi "Mỗi ngày trẻ được chơi
thiết bị thông minh bao lâu?" hầu hết phụ
huynh đều không có câu trả lời một cách Biểu đồ 2. Thời gian trẻ chơi thiết bị
chính xác nhưng họ khẳng định "trẻ chơi thông minh một ngày
96
- ĐÀO VI T CƯỜNG
Khi được hỏi "Trẻ thường chơi gì trên chúng đáng kể. Tuy nhiên, ở góc độ phát
thiết bị thông minh?" nhiều phụ huynh cho triển thể chất, đặc biệt ở lứa tuổi mầm non
biết "chủ yếu chơi trò chơi", kết quả này việc trẻ dành thời gian chơi thiết bị thông
phù hợp với kết quả khảo sát trên phiếu minh ít nhất một giờ cũng làm mất cơ hội
thăm dò trước đó. Ngoài ra, nhiều phụ đáng kể giúp trẻ phát triển vận động và các
huynh cũng cho biết trẻ thường sử dụng vấn đề khác liên quan đến sự phát triển của
thiết bị thông minh để xem hoạt hình và trẻ. Từ đây, có thể thấy sự hấp dẫn của thiết
xem các chương trình ti vi phát trên bị thông minh đối với trẻ là không hề nhỏ,
Youtube. cụ thể, 90.0% phụ huynh cho biết "Khi
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực từ việc trẻ chơi thiết bị thông minh trẻ không nói
sử dụng thiết bị thông minh ở gia đình chuyện với ai", 88.3% phụ huynh đồng ý
Với nhận định "Chơi thiết bị thông "Khi chơi thiết bị thông minh trẻ không
minh có hại cho trẻ không?", có đến 61.7% thích chơi những thứ khác". Về mặt thể
phụ huynh cho rằng có hại, 21.7% phụ chất, các ý kiến phụ huynh đều nhận định
huynh không rõ tác hại của chúng, số còn việc chơi thiết bị thông minh có những tác
lại họ không nghĩ nó có hại cho trẻ. Kết hại điển hình như: trẻ dễ bị mỏi mắt, cận
quả này là bất ngờ vì đa số phụ huynh đều thị, trẻ lười không thích vận động (chạy,
biết trẻ chơi thiết bị thông minh là có hại nhảy, đạp xe, leo, trèo...), trẻ thành thạo
nhưng điều đó không có nghĩa là họ sẽ tìm nhiều trò chơi khác nhau trên thiết bị thông
cách để hạn chế trẻ chơi với chúng. minh nhưng lại không thạo những việc
Nói về thói quen ở trẻ, có đến 91.7% khác (cầm muỗng, rửa tay, mặc quần áo...).
phụ huynh đồng ý "Được chơi thiết bị Kết quả tìm hiểu ở cả ba mặt trên có tỉ tệ
thông minh nhiều trẻ sẽ quen, không chơi đồng ý cao, điểm trung bình khảo sát của
sẽ khó chịu", nhưng với câu hỏi "Trẻ chơi các giá trị này đều mức điểm 4 trở lên, cho
thiết bị thông minh nhiều liệu có bị thấy phụ huynh rất chắc chắn với các nhận
"nghiện"?, chỉ có 60% phụ huynh đồng ý, định của mình. Ngoài ra, cũng nhiều ý kiến
26.7% phụ huynh trả lời không rõ, số còn cho biết trẻ vừa ăn vừa chơi thiết bị thông
lại không nghĩ trẻ sẽ "nghiện". Sự khác biệt minh trẻ ăn uống thiếu tập trung. Dù vậy,
về tỉ lệ đồng ý nói chung ở hai câu hỏi trên nhiều phụ huynh chỉ quan tâm đến việc trẻ
phần nào cho thấy lý do vì sao phụ huynh có chịu ăn và ăn nhanh hay không, còn trẻ
cho trẻ tiếp xúc với thiết bị thông minh có tập trung hay không tập trung thì cũng
sớm. Với câu hỏi "Trẻ chơi thiết bị thông không quan trọng, điều này cho thấy nhiều
minh mỗi ngày bao lâu sẽ có nguy cơ phụ huynh chấp nhận tương tác một khi
"nghiện"? 58.3% phụ huynh cho rằng trẻ chăm sóc bữa ăn cho trẻ. Thực tế chúng tôi
phải chơi nhiều hơn hai giờ, 30% ý kiến ghi nhận được hình ảnh một bên bàn là bà
khác lại cho rằng trẻ phải chơi hơn một giờ mẹ và hai cái chén cơm, ngồi đối diện bà là
và chỉ có 11.7% cho biết trẻ phải chơi trên hai đứa trẻ mắt đang dán chặt vào hai thiết
ba giờ mỗi ngày thì mới có nguy cơ bị bị thông minh được kê sẵn trên bàn trước
"nghiện". Thực tế, các nghiên cứu chỉ ra mặt chúng. Đặc biệt, không cần phải nói,
rằng, nếu trẻ chơi thiết bị thông minh ít bà mẹ chỉ cần ép muỗng cơm đưa lên
nhất một giờ mỗi ngày và ngày nào cũng miệng trẻ, như một phản xạ, trẻ há miệng
vậy có thể gây ra cho trẻ sự phụ thuộc vào ra, dù mắt vẫn không rời màn hình thiết bị.
97
- NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH VỀ VI C CHO TRẺ 1 – 6 TUỔI SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ THÔNG MINH
Bảng 2. Ảnh hưởng tiêu cực từ việc trẻ sử dụng thiết bị thông minh
Ảnh hưởng tiêu cực từ việc trẻ sử dụng Tỉ lệ đồng ý
Mean
thiết bị thông minh nói chung
Được chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) nhiều trẻ
91.7 4.7
sẽ quen, không được chơi khó chịu.
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) trẻ không
90.0 4.3
nói chuyện với ai.
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) trẻ không
88.3 4.6
thích chơi những đồ chơi khác.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) nhiều trẻ dễ bị
88.3 4.6
mỏi mắt hoặc cận thị.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) trẻ lười, không
86.7 4.5
thích vận động (chạy, nhảy, đạp xe, leo, trèo...)
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) trẻ thờ ơ,
73.3 3.8
không quan tâm đến những người xung quanh.
Trẻ chơi thạo các trò chơi trên điện thoại thông minh (hoặc máy
tính bảng) nhưng lại không thạo những việc khác: cầm muỗng, 73.3 4.0
mặc quần áo...
Khi vừa ăn vừa chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng)
68.3 3.7
trẻ ăn uống không tập trung.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) có hại cho trẻ. 61.7 3.6
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) trẻ ít có cơ hội
61.7 3.6
khám phá, tìm hiểu thế giới xung quanh.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) nhiều trẻ sẽ bị
60.0 3.6
"nghiện"?
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng), trẻ thường
58.3 3.5
bày tỏ sự khó chịu hoặc hời hợt khi người lớn nói chuyện với trẻ.
Khi chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng), dù ở cạnh
53.3 3.4
nhau nhưng trẻ không nói chuyện với nhau.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) làm hạn chế
46.7 3.3
khả năng tư duy của trẻ.
Chơi điện thoại thông minh (hoặc máy tính bảng) làm hạn chế
43.3 3.2
khả năng sáng tạo của trẻ.
98
- ĐÀO VI T CƯỜNG
Ảnh hưởng về tâm lý, 61.7% phụ minh giúp trẻ biết quan tâm, giúp đỡ mọi
huynh cho rằng "Khi chơi với thiết bị người, có đến 80% người hỏi không đồng
thông minh trẻ không có cơ hội khám phá ý, chỉ có 6.7% ý kiến đồng ý. Chơi thiết bị
thế giới xung quanh". Tuy nhiên, chưa đến thông minh giúp trẻ phát triển khả năng
một nửa số phụ huynh được khảo sát cho giao tiếp đều có tỉ lệ đồng ý thấp 21%. Ý
rằng việc chơi thiết bị thông minh có thể nghĩa tích cực nhất của việc trẻ chơi thiết
làm hạn chế khả năng tư duy và khả năng bị thông minh cho thấy nó không nằm phía
sáng tạo ở trẻ, thậm chí 30% trong số họ trẻ mà chủ yếu là ở người lớn, 81.7% phụ
không nghĩ chơi thiết bị thông minh lại có huynh phát hiện thiết bị thông minh là
những tác hại đối với hai mặt tâm lý trên công cụ rất tốt để chi phối và điều khiển
của trẻ. trẻ. 63.3% phụ huynh nghĩ thiết bị thông
Không ít phụ huynh khi được chúng minh cũng như các loại đồ chơi khác
tôi phỏng vấn cũng trả lời họ không nghĩ sẽ nhưng chúng có nhiều tính năng vượt trội
lo lắng về sự phát triển tư duy và khả năng hơn, thay vì chơi với đồ chơi thông thường,
sáng tạo của trẻ, vấn đề họ quan tâm là khi trẻ chơi thiết bị thông minh không chỉ
chơi thiết bị thông minh trẻ không thích mang lại sự thích thú mà còn giúp trẻ học
vận động, nhiều khi trẻ quá tập trung vào được nhiều điều bổ ích như: trẻ thành thạo
màn hình thiết bị trẻ sẽ không còn chú ý công nghệ, phát triển kỹ năng tư duy, sáng
đến mọi người xung quanh nữa. tạo. Ở khía cạnh khác, nhiều phụ huynh
Về mặt giao tiếp, 90% phụ huynh cho còn nghĩ rằng việc cho trẻ chơi thiết bị
biết khi chơi thiết bị thông minh trẻ chỉ thông minh sẽ giúp họ cảm thấy rõ hơn về
ngồi một chỗ, không thích nói chuyện với trách nhiệm và tình cảm của mình dành
ai, ngay cả trường hợp trẻ ngồi cạnh nhau cho trẻ. Một số trường hợp lại cho rằng,
nhưng cũng không nói chuyện với nhau. cho trẻ chơi thiết bị thông minh là cách
Từ kết quả này, có thể thấy khi chơi thiết bị giúp họ không bị con cái chi phối, làm
thông minh trẻ phải tập trung nhiều vào phiền mà dễ tập trung vào việc của mình
màn hình, trẻ chỉ quan tâm đến trò chơi, trẻ hơn. Các ý kiến trên của phụ huynh cho
khó nhận biết những thứ khác đang xảy ra thấy suy nghĩ tích cực của họ về việc cho
xung quanh mình, kết quả này hợp lý khi trẻ chơi thiết bị thông minh là rất đa dạng
có đến 73.3% phụ huynh đồng ý khi chơi và trái chiều, nó phụ thuộc vào nhận thức
thiết bị thông minh trẻ rất thờ ơ, không của họ, phụ thuộc vào điều kiện và hoàn
quan tâm đến những người xung quanh và cảnh sống khác nhau của mỗi gia đình.
nếu buộc phải giao tiếp với họ thì cách của 3. Kết luận
trẻ cũng thường hời hợt, qua loa. Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ có sử
2.3. Ảnh hưởng tích cực của việc trẻ dụng thiết bị thông minh chiếm tỉ lệ lớn,
sử dụng thiết bị thông minh ở gia đình hầu hết trẻ đều được chơi thiết bị thông
Kết quả nghiên cứu cho thấy 88.3% minh từ 3 tuổi, một số trẻ được tiếp cận
phụ huynh không đồng ý tập trung ở các ý sớm hơn khoảng 2 tuổi. Bên cạnh những
kiến cho rằng chơi thiết bị thông minh giúp suy nghĩ tích cực của phụ huynh về việc
trẻ phát triển vận động. cho trẻ chơi thiết bị thông minh còn có sự
Về mặt thái độ, chơi thiết bị thông khác nhau, chưa thống nhất thì nhận thức
99
- NHẬN THỨC CỦA PHỤ HUYNH VỀ VI C CHO TRẺ 1 – 6 TUỔI SỬ DỤNG CÁC THIẾT BỊ THÔNG MINH
của họ về các tác hại từ việc trẻ chơi với TÀI LIỆU THAM KHẢO
chúng cũng không phải ít và không thể 1. Trương Thị Khánh Hà (2015), Tâm lý học
xem nhẹ, trong khi lứa tuổi 1-6 là lứa tuổi phát triển, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội.
đang cần tập trung phát triển toàn diện về 2. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa,
Phan Thị Thảo Hương (2010), Giáo dục giá
nhiều mặt, đặc biệt là thể chất, vận động, trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non,
ngôn ngữ và tình cảm... Nxb ĐH Quốc Gia Hà Nội.
Từ thực trạng trên, thiết nghĩ các bậc 3. Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên) (2008), Tâm lý
phụ huynh cần hiểu rõ nhu cầu, đặc điểm học trẻ em lứa tuổi mầm non (từ lọt lòng đến
6 tuổi), Nxb ĐHSP.
phát triển thể chất và tâm lý của trẻ lứa
4. Nguyễn Ánh Tuyết (2006), Giáo trình giáo dục
tuổi này, đặc biệt phụ huynh nên cân nhắc hành vi văn hóa cho trẻ em, Nxb Giáo dục.
giữa lợi ích và bất cập khi cho trẻ chơi 5. Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa - Giáo dục và
thiết bị thông minh để từ đó có biện pháp Đời sống xã hội và Công ty Nghiên cứu Thị
quản lý và giới hạn việc trẻ chơi một cách trường Epinion (2014), Thực trạng sử dụng
thiết bị thông minh của trẻ em Việt Nam và
hiệu quả để tránh những tác động xấu đến nhận thức của phụ huynh, Báo cáo kết quả dự
trẻ sau này. án khảo sát xã hội.
Ngày nhận bài: 14/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017
100
nguon tai.lieu . vn