Xem mẫu

  1. NHẬN DIỆN NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP BÁO CHÍ TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ThS. Huỳnh Bá Thúy Diệu ThS. Nguyễn Thị Như Quỳnh Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin Hữu nghị Việt- Hàn Tóm tắt Bài viết này nhóm tác giả tập trung phân tích, xác lập, đo lường và nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp báo chí trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Dựa trên thuyết ích kỷ, thuyết vị lợi và tổng quan các công trình nghiên cứu trước về đạo đức nhà báo, kết quả nghiên cứu cho thấy có năm nhân tố tác động đến đạo đức nghề nghiệp nhà báo: (1) Tính ích kỷ, (2) Lương tâm, (3) Tính vị lợi, (4) Tôn giáo và (5) Thâm niên. Từ đó tác giả kiến nghị các hàm ý chính sách về tính ích kỷ, lương tâm, thâm niên và một số giải pháp khác nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khóa: Đạo đức nghề nghiệp, báo chí, cách mạng công nghiệp 4.0, nhân tố ảnh hưởng Abstract: This paper focuses on analyzing, identifying, measuring, and identifying factors that affecting to journalistic professional ethics in the Industrial 4.0. Based on egoism, utilitarianism and an literature overview on journalistic ethics, the research results show that there are five factors: (1) egoism, ( 2) conscientiousness, (3) utilitarian, (4) religiosity and (5) seniority. We suggest policy implications for egoism, conscience, seniority, and others to improve journalistic ethics in the industrial 4.0. Keywords: Professional ethics, journalism, Industrial 4.0, influencing factor 1. Đặt vấn đề Báo chí đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của kinh tế- xã hội. Khi nền kinh tế càng phát triển thì báo chí cũng không ngừng đổi mới và sáng tạo hơn trong tác nghiệp. Bên cạnh đó báo chí còn là cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà quản lý, hoạch định chính sách giúp Nhà nước điều chỉnh chủ trương, đường lối cho phù hợp với thực tiễn. Báo chí còn tham gia một cách đồng cảm trên mặt trận đấu tranh tham những, chống tiêu cực và tệ nạn xã hội và ngày càng tạo được niềm tin cho nhân dân. Bản chất của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy… Và nó đã 315
  2. và đang tác động trực tiếp đến sự phát triển của các phương tiện truyền thông, ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỹ năng tác nghiệp của nhà báo. Trong thời đại truyền thông kỹ thuật số, báo chí sẽ bị ảnh hưởng bởi sự dẫn dắt của mạng xã hội và người làm báo vô trách nhiệm, không chuẩn mực khi tham gia mạng xã hội. Trong những năm qua số lượt vi phạm đạo đức nghề nghiệp nhà báo có dấu hiệu tăng cao như sau: Bảng 1. Số lượt vi phạm của cơ quan báo chí và đạo đức báo chí từ năm 2011-2017 ĐVT 2011- 2015 2016 2017 2014 Cơ quan báo chí bị xử lý vi Lượt 205 37 79 55 phạm Cơ quan báo chí bị phạt tiền Lượt 198 33 75 55 Số thẻ nhà báo bị thu hồi Thẻ 18 8 13 12 (Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Thông tin và truyền thông, 2018) Ngoài ra cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang lan rộng trong nền kinh tế và xã hội, và sẽ làm nhiều công việc dưa thừa, kể cả ngành báo chí. Theo Borg (2016), cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ phân chia nhân viên theo hai nhóm nhu cầu: nhóm những nhân viên được trả lương cao với trình độ cao và nhóm nhân viên không có kỹ năng, trình độ thấp. Và vì thế lượng lao động với trình độ trung bình (chiếm tỷ trọng cao nhất hiện nay) sẽ bị loại khỏi thị trường lao động. Nghề báo chí luôn đặt đạo đức nghề nghiệp lên đầu. Đó được xem là nền tảng của hoạt động báo chí, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế xã hội bị tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Vì thế cần thiết phải nghiên cứu mô hình đạo đức nghề nghiệp báo chí trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 để công tác đào tạo, bồi dưỡng cho sinh viên ngành báo chí được kịp thời và chuẩn xác. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Các khái niệm a. Cách mạng công nghiệp 4.0 Trong những ngày qua, khái niệm "Cách mạng Công nghiệp 4.0" được nhắc đến nhiều trên truyền thông và mạng xã hội. Cùng với đó là những hứa hẹn về cuộc "đổi đời" của các doanh nghiệp tại Việt Nam nếu đón được làn sóng này. Vậy cuộc cách mạng này nên được hiểu như thế nào? Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 316
  3. 2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa công nghiệp, kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong. b. Đạo đức nghề nghiệp nhà báo TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn “ Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” cho rằng: Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định về thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Tháng 12-2016, Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. Và 10 điều này đã được luật hóa thông qua Luật Báo năm 2016. Cụ thể, tại điểm b, khoản 2, Điều 8 Luật Báo chí quy định: Hội Nhà báo Việt Nam “Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”. Quy định này không chỉ khẳng định đạo đức nghề nghiệp là yếu tố hết sức quan trọng đối với mỗi người làm báo, tạo ra hành lang pháp lý đối với người làm báo trong quá trình tác nghiệp mà còn đồng thời khẳng định yếu tố đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí của mọi hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, không phân biệt giữa người làm báo có Thẻ Nhà báo, hay người làm báo không có Thẻ Nhà báo. Do đó những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp nhà báo bao gồm: (1) trọng dân, vì dân; (2) tính trung thực; (3) trách nhiệm xã hội và (4) lương tâm nghề nghiệp. c. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến ngành báo Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, nền kinh tế và các ngành công nghiệp trong đó có ngành báo chí. Minh chứng rõ ràng nhất là báo chí tự động hóa (hay báo chí robot) đang có những bước phát triển mới nhờ việc tìm ra các thuật toán có thể xử lý những khối dữ liệu khổng lồ. Robot báo chí có thể tạo ra Infographic, đề xuất các đề tài, xác minh thông tin từ công chúng truyền thông, xử lý nhanh thông báo về các sự kiến có tính chất báo chí trên diện rộng…Bên cạnh đó việc xử lý big data ở các mạng xã hội để phân phối tin tức, quảng bá đến đúng đối tượng công chúng cũng đã được thực thi bởi trí tuệ nhân tạo. Với xu thế như trên có thể thấy nghề báo cũng sẽ bị trí tuệ nhân tạo đe dọa bởi lẽ máy móc rất phù hợp với những thông tin được phân loại. Và như thế lao động trong ngành báo cũng dễ dàng bị thay thế. Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang tác động trực tiếp đến sự “sinh tồn” của các phương tiện truyền thông truyền thống, ảnh hưởng mạnh mẽ đến kỹ năng tác nghiệp của nhà báo. Đồng thời Cách mạng Công nghiệp 4.0 tác động mạnh mẽ vào tất cả các yếu tố căn bản của nền báo chí truyền thông từng quốc gia, với 3 yếu tố căn bản: nhà sản xuất sản phẩm báo chí truyền thông, sản phẩm báo chí truyền thông - như là một hàng hóa, dịch vụ và sự biến đổi sâu sắc các nhóm công chúng truyền thông. Theo đó, cách mạng 4.0 tạo ra một lớp công chúng tương thích của thời kỳ truyền thông số. Chẳng hạn, thay bằng tiếp cận với các tờ báo in, kênh phát thanh hay truyền hình thuần túy, công chúng có thể tiếp nhận thông tin bằng cả cơ quan xúc giác và cảm xúc của mình, bởi họ như được tham gia chính vào thời điểm xảy ra sự kiện trong không gian ảo 3 chiều hay 4 chiều, nơi có thể tái hiện lại sự kiện, các nhân vật, âm thanh, tiếng động cũng được mô phỏng lại theo đúng ở hiện trường. 317
  4. Tốc độ và kết quả chuyển đổi của nền báo chí, truyền thông trong thời công nghệ 4.0 phụ thuộc vào mức độ đáp ứng yêu cầu của 5 yếu tố căn bản: kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; xây dựng môi trường pháp lý cho nền báo chí truyền thông kỷ nguyên số; nghiên cứu và tìm kiếm giải pháp an ninh truyền thông hiệu quả. Vì thế một nhà báo hiện đại phải có đủ kỹ năng: vừa biết viết, chụp ảnh, biết quay hình, biết sử dụng đồ họa, thậm chí biết cả lập trình. Nếu không hội tụ được những điều kiện này thì sẽ khiến nhà báo bị đào thải. Và đứng trước yêu cầu này đòi hỏi nhà báo phải tự mình trau dồi rèn luyện, không được sử dụng hình ảnh của người khác. Nhà báo phải luôn luôn giữ những tiêu chuẩn của người làm báo là sự thật, công bằng và cân bằng. 2.2. Các lý thuyết được sử dụng trong nghiên cứu a. Thuyết ích kỷ Thuyết ích kỷ được phát triển tiên phong bởi nhà tư tưởng hiện đại Thomas Hobbes (1588-1679). Sau đó lý thuyết này được củng cố và hoàn thiện bởi nhà triết gia Thrasymacus và triết gia Ayn Rand. Các tác giả cho rằng việc theo đuổi lợi ích cá nhân được xem là dẫn đến lợi ích của xã hội. Do đó, lợi ích cá nhân là điều kiện tiên quyết để mỗi người dẫn đến hành vi tự tôn trọng và tôn trọng người khác. Thuyết ích kỷ giải thích sự tác động của tính ích kỷ cá nhân đến đạo đức nghề nghiệp nhà báo. b. Thuyết vị lợi Chủ nghĩa vị lợi, hay chủ nghĩa công lợi còn gọi là thuyết duy lợi hay thuyết vị lợi (tiếng Anh: utilitarianism) là một triết lý đạo đức, một trường phái triết học xã hội và cũng đóng vai trò quan trọng trong ngành khoa học kinh tế. Chủ nghĩa này cho rằng hành động tốt nhất là hành động đạt được một cách cao nhất những gì được cho là hữu ích, lợi ích. “Lợi ích” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, thường là theo thuật ngữ “hạnh phúc của các sinh vật sống”, như là con người hay các động vật khác. Jeremy Bentham, người đặt nền móng cho chủ nghĩa vị lợi, mô tả “lợi ích” như tất cả những gì làm hài lòng chúng ta xuất phát từ hành động, không gây ra đau đớn cho bất kì ai liên quan. Chủ nghĩa vị lợi là một hình thức khác của chủ nghĩa hệ quả hay hệ quả luận (consequentialism), thuyết này tuyên bố rằng kết quả của bất kì hành động nào là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá sự đúng và sai của hành động đó. Không giống như các hình thức khác của thuyết hệ quả, như là chủ nghĩa vị kỉ (egoism), chủ nghĩa vị lợi cho rằng lợi ích của tất cả mọi người là công bằng. Chủ nghĩa Bentham, triết học vị lợi do Jeremy Bentham sáng tạo ra, được sửa đổi một cách đáng kể bởi người kế nhiệm ông, John Stuart Mill, cũng là người làm cho thuật ngữ “ chủ nghĩa vị lợi ” (“Utilitarianism”) phổ biến. Trong năm 1861, Mill thừa nhận trong một chú thích rằng, mặc dù “ông ấy tin rằng mình là người đầu tiên đã làm cho từ ngữ “người vị lợi”(“utilitarian”) được thông dụng, nhưng ông không sáng tạo ra nó. 2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp nhà báo 318
  5. Cohen và cộng sự (1996) nghiên cứu sự đo lường nhận thức đạo đức và định hướng đạo đức của nhà báo. Các tác giả đưa ra yếu tố tác động đến đạo đức nghề nghiệp, trong đó có yếu tố tính ích kỷ. Trong một nghiên cứu của Granitz (2007) đã xác định được các lý luận của sinh viên báo chí khi họ vi phạm, đó là: đạo lý, tính vị lợi, tính hợp lý, tư lợi, thuyết thủ đoạn và thuyết văn hóa tương đối. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng hành vi vi phạm đạo đức trong trường hợp có thể dẫn đến hành vi phi đạo đức khi hành nghề. Tác giả chỉ ra rằng sinh viên chủ yếu sử dụng đạo lý, đạo đức học tình huống và thuyết thủ đoạn để biện minh cho những sai phạm của mình. Lương tâm của đạo đức liên quan đến những nghĩa vụ đạo đức, trách nhiệm, sự chịu trách nhiệm về những yếu tố cơ bản. Yếu tố lương tâm có khả năng tác động tích cực đến đạo đức nghề nghiệp báo chí. Cohen và cộng sự (1996) đưa ra các yếu tố tác động đến đạo đức nghề nghiệp, trong đó có yếu tố lương tâm. Các tác giả nghiên cứu mức độ đào tạo đại học và kinh nghiệm chuyên môn ảnh hưởng đến quyết định đạo đức nghề nghiệp nhà báo tại Canada. Các tác giả đã nhận thấy sự khác biệt về nhận thức về đạo đức, định hướng đạo đức và ý định của sinh viên ngành báo chí và sinh viên của các ngành khác. Armstrong và cộng sự (2003) nghiên cứu đánh giá các tài liệu về giáo dục đạo đức trong báo chí . Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiềm năng của những lời khuyên và các chuẩn mực đạo đức sẽ gia tăng đạo đức đối với sinh viên báo chí và các nhà báo. Trong nghiên cứu của mình về Đạo đức và các quyết định của sinh viên báo chí của Ge, L. Thomas (2008) đã cho thấy sinh viên ngành báo chí thường xuyên sử dụng các yếu tố như: công bằng về đạo đức, tính vị lợi trong cuộc sống và học tập của mình. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. Và nhân tố tôn giáo có khả năng tác động tích cực đến đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Light và cộng sự (1989) cho rằng tôn giáo ảnh hưởng đến niềm tin và hành vi cá nhân. Lý thuyết chức năng giải thích tôn giáo được xem như một nhân tố tiên đoán đáng kể về giá trị của một con người (Huffman, 1988). Lý thuyết chức năng giải thích chiều hướng tác động của nhân tố tôn giáo đến đạo đức nghề nghiệp báo chí.Trong nghiên cứu của Kit-Chun Lam và Bill WS Hung (2005) về khảo sát mối quan hệ giữa đạo đức và thu nhập của các tôn giáo khác nhau đã cho thấy mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa đạo đức và thu nhập. Đồng thời trong nghiên cứu này cũng đã phân tích tác động của các yếu tố khác nhau lên đánh giá đạo đức và thái độ đạo đức của người lao động. Kết quả cho thấy tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến thái độ đạo đức. Weeks và cộng sự (1999) đã nghiên cứu giới tính và các giai đoạn trong sự nghiệp của một cá nhân có ảnh hưởng như thế nào đến nhận thức đạo đức. Bài nghiên cứu đã 319
  6. đưa ra kết luận rằng những lao động trong giai đoạn phát triển sự nghiệp biểu hiện cách nhìn về đạo đức cao hơn so với những người trong giai đoạn bắt đầu sự nghiệp. Như vậy thâm niên cũng ảnh hưởng tích cực đến đạo đức nhà báo. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Xây dựng mô hình và các giả thiết nghiên cứu Các nhân tố tác động đến đạo đức báo chí trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được xác định là: tính ích kỷ, đạo lý, tính vị lợi, thâm niên, tôn giáo và hệ thống pháp luật. Bảng 2. Mô tả các biến và xây dựng giả thuyết nghiên cứu Tên biến Giải thích Giả thuyết nghiên cứu Tính ích kỷ Là lối sống luôn chỉ đặt lợi ích H1: Người làm báo có tính của bản thân lên trên hết, không ích kỷ sẽ không có đạo đức quan tâm gì đến mọi người xung nhà báo và ảnh hưởng tiêu quanh và không bao giờ chịu thiệt cực đến việc truyền đạt thông tin Lương tâm Là những hành động liên quan H2: Người làm báo có đạo lý đến nghĩa vụ đạo đức, trách sẽ là nhà báo có đạo đức tốt nhiệm, sự chịu trách nhiệm của một hành động Tính vị lợi Là hành động đem đến lợi ích tốt H3: NHà báo có tính vị lợi sẽ nhất cho nhiều người nhất. ảnh hưởng tích cực đến đạo đức nghề nghiệp nhà báo Tôn giáo Tôn trọng điều thiêng liêng, tôn H4: Tôn giáo ảnh hưởng tích kính thần linh cực đến đạo đức nghề nghiệp nhà báo Thâm niên Thời gian làm việc trong một H5: Người có thâm niên càng ngành nghề, một lĩnh vực công cao thì đạo đức nghề nghiệp tác nào đó càng nhiều. 320
  7. Tính ích kỷ H1 H4 Tôn giáo H2 Lương tâm Đạo đức nghề H5 nghiệp báo chí Thâm niên Tính vị lợi H3 Hình 1. Mô hình nghiên cứu 3.2. Xây dựng thang đo và mô tả các biến Trong nghiên cứu của bài viết, tác giả điều chỉnh một số thang đo đã có sẵn ở một nghiên cứu trước cho phù hợp với tình hình hiện tại của Việt Nam, thông qua kết quả nghiên cứu định tính, đồng thời tác giả xây dựng một thang đo mới dựa trên kết quả của phương pháp nghiên cứu tình huống. Thang đo cấp quảng Likert với năm mức độ (1 đến 5) là phù hợp để đo lường nghiên cứu. Xây dựng thang đo và mô tả biến độc lập Tính ích kỷ: thang đo của biến này kế thừa từ nghiên cứu của Cohen và cộng sự (1996); Granitz (2007);). Kết quả có 5 biến quan sát cho biến này. Lương tâm: thang đo của biến này kế thừa từ nghiên cứu của Cohen và cộng sự (1996). Tác giả đã điều chỉnh và bổ sung một số thang đo cho phù hợp. Kết quả có 5 biến quan sát. Tính vị lợi: thang đo của biến này kế thừa từ nghiên cứu của Armstrong và cộng sự (2003); Ge, L. Thomas (2008). Kết quả có 4 biến quan sát. Tôn giáo: thang đo của biến này kế thừa từ nghiên cứu của Light và cộng sự (1989); Nghiên cứu của Huffman (1988) và nghiên cứu của Kit- Chun Lam và Bill WS Hung (2005). Tác giả đã điều chỉnh và bổ sung một số thang đo cho phù hợp. Kết quả có 4 biến quan sát. Thâm niên: thang đo của biến này kế thừa từ nghiên cứu của Weeks và cộng sự (1999); Nghiên cứu của Greiger, M.A và O’Connell (1999). Tác giả đã điều chỉnh và bổ sung một số thang đo cho phù hợp. Kết quả có 5 biến quan sát. 321
  8. Xây dựng thang đo và mô tả biến phụ thuộc (DDBC): là nhân tố đạo đức báo chí. Biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu là do tác giả tự xây dựng, căn cứ vào việc thu thập ý kiến chuyên gia từ phương pháp nghiên cứu tình huống và lý thuyết nền tảng. Đây là thang đo bậc 1, được đo lường bởi 4 biến quan sát. 3.3. Mẫu nghiên cứu và phương pháp thu thập dữ liệu Đối tượng khảo sát: các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm với vị trí là giảng viên giảng dạy ngành báo chí, phóng viên, biên tập viên, thư ký tòa soạn và tổng biên tập. Phương thức khảo sát: Phiếu khảo sát phục vụ cho nội dung nghiên cứu này được tác giả khảo sát thông qua hai cách: Bảng khảo sát được tác giả gửi trực tiếp đến đối tượng khảo sát và thu lại sau khi khảo sát hoàn thành; Gửi email cho các cá nhân phù hợp với các tiêu chuẩn lựa chọn mẫu. Xác định kích thước mẫu: Theo Hair & ctg (2006), lấy tỷ lệ 5 khảo sát cho 1 biến quan sát thì kích thước mẫu tối thiểu là 135 phiếu. Với tổng số phiếu khảo sát phát đi là 300, số đạt yêu cầu cho nghiên cứu nhận được là 228, thỏa mãn kích thước tối thiểu 135. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Thông tin mẫu nghiên cứu Trong tổng cộng 228 phiếu hồi đáp có 77 giảng viên giảng dạy ngành báo chí, 78 phóng viên, 60 biên tập viên, 10 thư ký toàn soạn và 03 tổng biên tập. 4.2. Kết quả kiểm định mức độ tin cậy và các biến trong tập dữ liệu mẫu Tác giả xử lý dữ liệu qua phần mềm SPSS 20.0 và có được Kết quả tổng hợp hệ số Cronbach Alpha cũng như hệ số tương quan biến tổng, kiểm định độ tin cậy của các biến độc lập đều cho thấy rằng các hệ số đều lớn hơn 0.6 và tất cả các biến quan sát cho các biến trong mô hình gồm cả biến độc lập và biến phụ thuộc đều có hệ số tương quan biến tin cậy. Ngoài ra khi phân tích độ tin cậy tổng hợp và phương sai trích cho thấy các hệ số tin cậy tổng hợp đều lớn hơn 0.7 và phương sai trích các nhân tố đều lớn hơn 0.5. Như vậy có thể khẳng định được các thang đo đạt tính tin cậy cần thiết. Điều này được thể hiện ở Phụ lục 1. 4.3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá Bảng 3. Kiểm định KMO và Bartlett KMO and Bartlett’s Test Kaiser- Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy 0,852 Bartlett’s Test of Sphericity Approx. Chi-Square 2363.393 Df 253 Sig. .000 (Nguồn: kết quả phân tích của tác giả) 322
  9. Với kết quả ở Bảng 3 cho thấy chỉ số KMO là 0,852 thuộc khoảng từ 0,5 đến 1,0 là đạt yêu cầu, cho thấy việc phân tích nhân tố là thích hợp và mức ý nghĩa sig. là .000 nhỏ hơn 0,05 là đạt yêu cầu ý nghĩa thống kê. 4.4. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính Kiểm định hệ số tương quan (r) Theo kết quả ở Phụ lục 2 Ma trận hệ số tương quan cho thấy rằng hệ số tương quan giữa “ nhân tố cản trở” với các biến như sau: với biến “Tính ích kỷ” ( Pearson = 0,567), biến “Thâm niên” (Pearson= 0,447), biến “Lương tâm” (Pearson= 0,406), biến độc lập “ tính vị lợi” (Pearson = 0,455), biến “tôn giáo” ( Pearson = 0,462). Do vậy bước đầu có thể kết luận rằng các biến độc lập có thể đưa vào mô hình để giải thích cho các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức báo chí bao gồm 5 biến độc lập là phù hợp. Phân tích hồi quy Kết quả kiểm định hồi quy tuyến tính được thể hiện qua bảng 4 như sau: Bảng 4. Kết quả kiểm định hồi quy tuyến tính Model R R Square Adjusted R Std. Error Durbin- Square of the Watson Estimate 1 .705a .497 .486 .63049 2.013 a. Predictor: (Constant), TIKY, LUTA, TOGA, TVLO, TANI b. Dependent Variable: DDBC Model Unstandardize Standardize t Sig. Collinearrity Coefficients Coefficients Statistics B Std. Beta Tolerance VIF Error (Constant) -.895 .302 - .003 2.967 TIKY .370 .085 .259 4.369 .000 .644 1.552 TANI .284 .059 .251 4.871 .000 .833 1.201 LUTA .225 .065 .182 3.489 .001 .834 1.199 TOGA .222 .067 .188 3.329 .001 .712 1.405 TVLO .196 .065 .169 3.026 .003 .724 1.382 Kết quả trên cho thấy hệ số R2 điều chỉnh có giá trị là 0,497. Điều này có ý nghĩa rằng mô hình nghiên cứu giải thích được 49,7% sự biến thiên của biến phụ thuộc bằng 323
  10. các biến độc lập trong mô hình. Hệ số VIF (Variance Inflation Factor) của các nhân tố độc lập trong mô hình đều có giá trị thấp và nhỏ hơn 2.2 ( từ 1.199 đến 1.552). Điều này cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập trong mô hình (Nguyễn Đình Thọ, 2011). Ngoài ra hệ số Sig. của các hệ số nhân tố độc lập trong mô hình đều nhỏ hơn 0,05. Do đó toàn bộ 5 nhân tố đều ảnh hưởng đến biến phụ thuộc. Mô hình hồi quy chuẩn hóa thể hiện mối quan hệ tuyến tính giản đơn giữa các biến : DDBC= 0,259*TIKY+ 0,251*TANI+ 0,182* LUTA+ 0,188* TOGA+ 0,169* TVLO Trong đó biến “Tính ích kỷ” với hệ số Beta là 0,259 với mức ý nghĩa thống kê đạt cao >99,99% khi mà chỉ số Sig. đạt 0,000; Tương tự biến “ thâm niên” với hệ số Beta là 0,251 với mức ý nghĩa thống kê Sig. có giá trị là 0,000. Tiếp đến là các biến “ Lương tâm” với hệ số Beta là 0,188 và mức ý nghĩa thống kê Sig. là 0,001, biến “ Tôn giáo” với 2 giá trị Beta và Sig. lần lượt là 0,182 và 0,001. Cuối cùng là biến “ Tính vị lợi” với giá trị Beta là 0,169 có mức ý nghĩa thống kê Sig. là 0,003. Kết quả nghiên cứu này cho thấy rằng nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến đạo đức của ngành báo chí đó là tính ích kỷ, thâm niên đóng vai trò khá quan trọng trong việc quyết định đạo đức nghề nghiệp báo chí, tiếp đến là yếu tố lương tâm của người làm báo, tôn giáo mà người làm báo theo đuổi, tính vị lợi cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức của những người làm báo. 5. Kiến nghị nhằm nâng cao đạo đức nhà báo - Giải pháp đối với tính ích kỷ và lương tâm + Kết hợp trong công việc để chia sẻ cùng nhau: Cách mạng công nghiệp 4.0 đã đưa đến những thách thức lớn cho cuộc sống của con người mạnh mẽ như vậy. Tác động lớn nhất của cuộc cách mạng này là sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo, với những tính cách có thể thay thế con người, thậm chí còn tối ưu hơn con người ở khả năng phân tích, tính toán, bền bỉ và năng suất cao. Như vậy, trong một thị trường việc làm vốn đã rất gay gắt bởi những cuộc cạnh tranh giữa các nhà báo, bây giờ các nhà báo còn phải cạnh tranh thêm với cả robot. Đối với đặc thù ngành báo chí, sản phẩm không chỉ cần sự trung thực, nhanh chóng mà còn phải có tính sáng tạo cao và đảm bảo chất lượng thông tin tốt nhất. Để có được điều này thì yêu cầu các nhà báo phải kết hợp với nhau trong công việc. Đồng thời khi làm việc cùng nhau thì nhu cầu của mỗi cá nhân sẽ được cân bằng vì sự thành công của nhóm và không có tính ích kỷ chính là một phần lựa chọn của các thành viên của nhóm, vì thế kết hợp làm việc với nhau để luyện tập tính rộng lượng và công bằng. + Tham gia các hoạt động thiện nguyện: Khi khoa học công nghệ phát triển, cuộc sống của con người phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ thì tính ích kỷ của mỗi cá nhân lại tăng lên do thiếu sự giao tiếp. Vì thế để giảm tính ích kỷ của con người nói chung và nhà báo nói riêng thì các toàn soạn báo, Hội nhà báo phải yêu cầu các nhà báo tham gia 324
  11. các hoạt động thiện nguyện. Làm tình nguyện sẽ giúp cho các nhà báo cảm kích rõ hơn cuộc sống mà họ đang có được so với những người bất hạnh. - Giải pháp đối với thâm niên Đối với nghề báo khi thâm niên làm việc càng nhiều thì đạo đức nghề nghiệp càng cao. Do đó giải pháp cho vấn đề này yêu cầu các cơ sở đào tạo ngành báo chí tăng cường hoạt động thực tế trong hoạt động giảng dạy của mình. Nên bố trí cho sinh viên được tiếp cận với thực tế ngay khi bước chân vào ngành học để các em hiểu được nỗi vất vả, khó khăn của ngành mình. Từ đó hun đúc nên lòng yêu nghề cũng như đạo đức nghề nghiệp của các em. Bên cạnh đó các chương trình đào tạo cần phải thay đổi để đào tạo một nhà báo không chỉ có nền tảng về kiến thức chuyên môn mà còn phải biết sử dụng được các thiết bị kỹ thuật số, thiết kế web và thậm chí cả lập trình để phù hợp với xu thế 4.0. - Giải pháp khác Hiện nay, vẫn còn nhiều toà soạn tuyển chọn phóng viên theo cách riêng, nhất là tiếp nhận đại trà những người có khiếu về khả năng xử lý tình huống, nắm vững kỹ thuật - công nghệ mới hoặc có kỹ năng trong thương mại về làm việc, rồi tự huấn luyện, không cần đến môi trường đào tạo nghề báo chuyên nghiệp. Đôi khi, ngay chính cả bộ máy lãnh đạo cơ quan và phóng viên báo chí đều vi phạm đạo đức nghề nghiệp mà cơ quan chủ quản cũng không hay. Do đó cần phải tuyển chọn khắt khe đội ngũ người làm báo từ các đơn vị được đào tạo bài bản, năng lực tác nghiệp chuyên nghiệp và được trang bị kiến thức nền tảng về đạo đức nghề báo. Bên cạnh đó, Tổng biên tập của một cơ quan báo chí thì phải biết tư cách đạo đức của phóng viên, không cung cấp giấy giới thiệu tràn lan, không tạo môi trường để nảy sinh tiêu cực, phải biết phóng viên đi đâu, làm việc gì, làm với tư cách nào. Cơ quan quản lý nhà nước cần thiết phải tạo môi trường thuận lợi cho đạo đức nghề báo phát triển. Đời sống báo chí không tách rời đời sống xã hội. Sự phát triển của báo chí gắn kết với sự phát triển của xã hội. Muốn có một đời sống báo chí lành mạnh, trước hết phải có một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”. Do vậy, cần có chế độ chính sách tiền lương, phụ cấp nghề nghiệp, khen thưởng, vinh danh phù hợp để nhà báo có điều kiện sống, điều kiện làm việc, điều kiện phát triển tài năng ngăn ngừa sự vi phạm đạo đức, hạn chế những tiêu cực nảy sinh. Đồng thời phải xây dựng cho được môi trường báo chí chuyên nghiệp, nền báo chí chuyên nghiệp để có được những nhà báo tác nghiệp với tính chuyên nghiệp cao. Bên cạnh đó,việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí và tăng tính quy định về đạo đức nghề báo. Công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề lớn về kinh tế - xã hội cần nhận thức, cần điều chỉnh cho phù hợp. Báo chí là lĩnh vực không nằm ngoài những biến đổi đó trong quá trình hoạt động. Một số vấn đề trong Luật Báo chí, trong hệ thống văn bản pháp luật, trong văn bản quy định đạo đức của Hội nhà báo Việt Nam không còn phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung luật báo chí, tăng hiệu lực của các văn bản quy định về đạo đức nghề báo là hết sức cần thiết. Ngoài ra, tăng cường sự giám sát của xã hội 325
  12. đối với đội ngũ nhà báo. Cùng với sự quản lý, kiểm tra của cơ quan chủ quản đối với các nhà báo như luật định thì sự tham gia giám sát của xã hội đối với đội ngũ nhà báo là yếu tố có sự tác động mạnh mẽ đến đạo đức người làm báo 6. Kết luận Bài viết trình bày khái quát về trường phái lý thuyết và tổng quan các công trình nghiên cứu về nhân tố tác động đến đạo đức nhà báo. Mô hình nghiên cứu đạo đức nghề nghiệp báo chí được xác định nêu trên nhằm tạo cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn về đạo đức nghề nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trên cơ sở phân tích các nhân tố ảnh hưởng, bài báo đã đề xuất một số kiến nghị về cách thức giảm tính ích kỷ và nâng cao lương tâm cho các nhà báo, tăng cường thâm niên cho nhà báo và một số giải pháp khác để nâng cao đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Đây là một yêu cầu cấp bách trong điều kiện hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS. Hoàng Đình Cúc (2013). Đạo đức nghề báo và những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. TS. Nguyễn Thị Trường Giang (2014). Đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Armstrong, M.B., Ketz, J.E. and Owsen, D (2003). Ethics education in journalism: moving toward ethical motivation anh ethical behavior. Journal of Journalism Education, Vol. 21 (1), pp.1-16. Cohen, J.R., Pant, L.W. and Sharp, D. (1996). Measuring in the ethical awareness and ethical orientation. Behavioral Research in Journalism, Vol. 8, pp. 98-119. Ge, L. Thomas (2008). A cross-cultural comparison of the deliberative reasoning of Jounalism students. Journal of Journalistic Ethics, Vol. 82 (1), pp.371-388. Geiger, M.A and O’Connel, B.T(1999). Journalism student ethical perception: an analysis of training and gender effects. Teaching Journalistic Ethics, Vol. 2 (4), pp.371- 388. Granitz, N. and Loewy, D. (2007). Applying ethical theories: interpreting and responding to student plagiarism. Journal of Journalistic Ethics, Vol. 72 (3), pp. 293- 306. Kit-Chun Lam and Bill WS Hung (2005). Ethics, Income and Religion. Journal of Journalistic Ethics, Vol. 61, pp. 199-214. Weeks, W.A., Moore, C.W., McKinney (1999). The effects of gender and career stage on ethical judgment. Journal of Journalistic Ethics, Vol. 20 (4), pp. 301-313. PHỤ LỤC 326
nguon tai.lieu . vn