Xem mẫu

  1. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU NHẬN DIỆN NHÓM CÔNG CHÚNG CHI PHỐI NGHỆ THUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY ĐINH THỊ VÂN CHI* Tóm tắt Công chúng nghệ thuật là những cá nhân, nhóm xã hội hoặc cộng đồng những người thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật. Họ thường được chia thành nhiều nhóm, theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trình độ học vấn, vùng/miền, khả năng kinh tế… Công chúng là cái đích để tác giả hướng tới mà sáng tạo, là người quyết định sự tồn vong của tác phẩm nghệ thuật, thậm chí cả sự tồn vong của tác giả với tư cách nghệ sĩ. Tuy nhiên, chỉ bộ phận công chúng nào chi tiền để thưởng thức nghệ thuật thì mới có tác động định hướng phát triển nghệ thuật. Hiện nay ở Việt Nam, bộ phận công chúng chi phối thị trường nghệ thuật là nhóm những người trẻ, có trình độ học vấn THPT hoặc đại học, là công chức nhà nước hoặc chưa đi làm, và có mức sống trung bình. Tuy nhiên, năng lực cảm thụ nghệ thuật của nhóm công chúng này hiện nay còn hạn chế. Từ khóa: Công chúng nghệ thuật, khách hàng, thị trường nghệ thuật Abstract The public group of art is individuals, social groups or communities who enjoy artworks. They are often divided into groups, by age, profession, educational level, region/local, economic capability... Art public is the destination for the author to create, to be the one who determine the existence of art works, even the author’s existence as an artist. However, only the part of the public who spends money to enjoy art will have an impact on the direction of artistic development. In Vietnam today, the public sector that dominates the art market is a group of young people who have a high school or university education level, are civil servants or have not worked, and have an average living standard. However, the ability to perceive art of this public group is currently limited. Keywords: Public group of Art, customers, art market 1. Công chúng nghệ thuật Công chúng thưởng thức nghệ thuật C ông chúng nghệ thuật là những từ khi ra đời cho tới khi trở về với đất mẹ. cá nhân, nhóm xã hội hoặc cộng Thậm chí khoa học “Thai giáo” ngày nay còn đồng những người thưởng thức khuyến khích các bà mẹ cho con của mình các tác phẩm nghệ thuật. Với sân khấu, điện tiếp cận với nghệ thuật ngay từ khi còn trong ảnh, truyền hình - đó là khán giả; với hội họa, bụng mẹ, nên ngay khi chưa ra đời, các thai nhiếp ảnh - đó là người xem; với âm nhạc - đó nhi đã được mẹ cho nghe nhạc, được cùng là người nghe (thính giả); với xuất bản - đó là mẹ ca hát, vui múa vận động… Trong suốt cuộc đời, mỗi người đều có những sở thích người đọc (độc giả)… nghệ thuật, có những hoạt động thưởng * PGS.TS, Khoa Gia đình và Công tác xã hội, thức nghệ thuật thường xuyên, như nghe Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nhạc, xem TV, xem phim, đọc sách… Cho tận 58 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  2. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT đến khi đã qua đời, con người vẫn được đưa Nếu tác phẩm được công chúng đón nhận, tiễn khỏi cõi trần gian bằng những bản nhạc thì công chúng là người đáp ứng cả những tiếc thương, đau xót. mơ ước bay bổng và những nhu cầu thực tại Phần lớn trong chúng ta, ai cũng là công của tác giả. Họ là người chia sẻ cảm xúc và tư chúng của ít nhất một môn nghệ thuật nào tưởng với tác giả, nuôi dưỡng tâm hồn tác giả; đó, còn thông thường sẽ là công chúng của sự yêu mến, ủng hộ của công chúng làm nên nhiều môn nghệ thuật cùng lúc. Ai ai cũng danh tiếng cho tác giả; không những thế, công là công chúng, nên công chúng nghệ thuật chúng còn là người tạo thu nhập để nuôi sống rất đa dạng, rất khác biệt. Công chúng nghệ tác giả. Nghĩa là, được công chúng ủng hộ thì thuật thường được chia thành nhiều nhóm, tác giả đạt được tất cả. theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, trình độ học Ngược lại, công chúng chờ đợi ở tác giả vấn, vùng/miền, khả năng kinh tế… Mỗi nhóm những món ăn tinh thần đáp ứng nhu cầu của công chúng sẽ có sở thích nghệ thuật khác họ. Nếu những món ăn - tác phẩm nghệ thuật nhau, thị hiếu thẩm mỹ khác nhau, mục đích - có giá trị, có chất lượng, thì sẽ nuôi dưỡng thưởng thức khác nhau, v.v. tâm hồn và cảm xúc của họ, truyền thụ cho 2. Mối quan hệ Tác giả - Tác phẩm - Công họ những tri thức mới mẻ, nâng tầm hiểu biết chúng nghệ thuật của họ, làm giàu năng lực thẩm mỹ Công chúng là một trong ba nhân tố quan và điều chỉnh thị hiếu nghệ thuật của họ. trọng, mang tính quyết định đời sống nghệ Mối quan hệ ràng buộc và tương hỗ chặt thuật của một cộng đồng. Ba nhân tố Tác giả chẽ này khiến cho Tác giả - Tác phẩm - Công - Tác phẩm - Công chúng nằm trong mối quan chúng trở thành bộ ba gắn bó khăng khít, hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau, tác động lẫn không thể tách rời. Công chúng là cái đích để nhau, hỗ trợ lẫn nhau một cách biện chứng, tác giả hướng tới mà sáng tạo; công chúng là tạo nên thế chân kiềng vững chắc, bảo đảm người quyết định sự tồn vong của tác phẩm sự tồn tại và sự vận hành của đời sống nghệ nghệ thuật, thậm chí cả sự tồn vong của tác thuật của xã hội. Có người gọi thế chân kiềng giả với tư cách nghệ sĩ. Tác giả - Tác phẩm - Công chúng là “cái tam vị” Nhưng, bởi công chúng rất khác biệt theo của nghệ thuật. Dù sử dụng thuật ngữ nào, các nhóm xã hội, nên không thể có một công cách diễn tả nào, thì bản chất của vấn đề vẫn chúng chung chung, hư ảo, mà sẽ là những là: Ba nhân tố này ngang bằng nhau về vai trò nhóm công chúng có những đặc điểm nhân trong việc tạo dựng nên đời sống nghệ thuật khẩu xã hội khác nhau, có sở thích và thị hiếu của cộng đồng. khác nhau, có năng lực tiếp nhận nghệ thuật Tác giả, khi sáng tạo một tác phẩm, trước khác nhau. Những nhóm công chúng đó có sự hết là giải phóng nguồn năng lượng sáng tạo yêu thích đối với những dạng tác giả và những nội tại, thăng hoa những cảm xúc nghệ thuật thể loại tác phẩm khác nhau. Đồng thời, mỗi trong tâm hồn, thể hiện những thông điệp và tác giả cũng có những công chúng “ruột”, gửi gắm những tình cảm của mình bằng ngôn những fan hâm mộ của mình, những người ngữ nghệ thuật. Bên cạnh đó, những nhu cầu luôn chờ đợi các tác phẩm của họ. Tác giả sẽ cuộc sống của tác giả tạo sự thúc bách, tác sáng tạo các tác phẩm dành cho công chúng động tới quá trình sáng tác, ghi dấu vào tác của mình. Bởi vậy có thể nói, tác giả nào thì phẩm, khiến cho nó vừa là sản phẩm của sự tác phẩm ấy và công chúng ấy. Ngược lại, công sáng tạo, vừa là kết quả của những thúc bách chúng nào thì tác phẩm ấy và tác giả ấy. Không đời thường. thể có một tác giả (cũng như một tác phẩm) Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 59
  3. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU vừa lòng tất cả mọi nhóm công chúng, được mua chứ không thiếu hàng hóa. Người sản tất cả công chúng ưa thích và đánh giá cao. xuất cần khách hàng, tìm kiếm khách hàng, Bởi thế, tác giả sẽ sáng tác các tác phẩm chăm sóc khách hàng nhằm tiêu thụ được dành cho đối tượng công chúng của mình - hàng hóa của mình. Các doanh nghiệp xác những người yêu thích và ủng hộ anh ta, sẵn định khách hàng là nguồn vốn - một nguồn sàng chi tiền để thưởng thức các tác phẩm của vốn ảo về hình thái tồn tại, nhưng lại mang anh ta, chứ không thể sáng tác phục vụ mọi tới những khoản doanh thu và lợi nhuận hoàn đối tượng công chúng được. Mỗi tác giả sẽ đều toàn thật. Doanh nghiệp đặt cho mình mục có công chúng mục tiêu mà mình nhắm tới. tiêu “đến với khách hàng”, “tạo ra khách hàng”, Ở chiều ngược lại, tác giả sẽ lắng nghe công nên luôn cố gắng làm vừa lòng khách hàng, chúng của mình, điều chỉnh các tác phẩm của chiều theo ý thích của khách hàng, cung cấp mình cho phù hợp với họ, thậm chí điều chỉnh những sản phẩm mà khách hàng muốn mua. cả phong cách nghệ thuật của mình để công Mối quan hệ này giữa người cung cấp sản chúng “ruột” hài lòng hơn. Hiện tượng này phẩm và người tiêu thụ sản phẩm của kinh tế được gọi là “chiều công chúng” hoặc “chiều thị trường cũng hiển hiện trong mối quan hệ theo thị hiếu công chúng”. giữa tác giả và công chúng. Ngày nay, nghệ Công chúng có tác động mạnh mẽ, đôi khi thuật đã tham gia vào thị trường, các tác phẩm là quyết định tới sức sáng tạo, xu hướng sáng nghệ thuật đã được coi là hàng hóa tinh thần, tạo, phong cách sáng tạo của tác giả. Nhưng được trao đổi theo các quy luật của thị trường, không phải tất cả mọi nhóm công chúng đều có mà một trong số đó là quy luật cung - cầu. tác động như nhau, mà chỉ nhóm công chúng Công chúng ngày nay chính là khách hàng tiêu nào chịu chi tiền để thưởng thức tác phẩm thì thụ các hàng hóa - tác phẩm nghệ thuật, bởi vì mới có được sức mạnh chi phối đó. Còn những trước khi thưởng thức các tác phẩm ấy với tư nhóm công chúng (dù yêu thích tác giả và tác cách công chúng thì họ đã chi tiền mua chúng phẩm) nhưng chỉ ngồi nhà thưởng thức miễn (sách báo, băng đĩa…) hoặc mua vé (xem biểu phí qua truyền hình, qua mạng internet,… thì diễn) theo cách mua một hàng hóa. Một điều không có được vai trò quyết định đó. Như vậy, đã trở thành phổ biến là tâm trạng thấp thỏm bộ phận công chúng nào chi tiền để thưởng thức của các diễn viên trước khi sân khấu mở màn, nghệ thuật thì sẽ có tác động định hướng phát là sự hồi hộp chờ thông tin từ phòng vé. Niềm triển nghệ thuật. hưng phấn và hạnh phúc của diễn viên trên 3. Công chúng - khách hàng của thị trường sân khấu là khi được thấy khán phòng đông nghệ thuật chật khán giả. Cảm xúc ấy không chỉ thuần túy Với vai trò như trên, công chúng được coi mang tính tinh thần mà còn chứa đựng cả nỗi là khách hàng của thị trường nghệ thuật. Điều lo cơm áo gạo tiền thường nhật. Đó chính là này được thấy rõ trong nền kinh tế thị trường, cảm xúc của người cung cấp sản phẩm khi chờ bởi lẽ quan hệ tác giả - công chúng lúc này đợi người tiêu thụ sản phẩm của mình. Người không còn thuần túy là quan hệ giữa nghệ sĩ tiêu thụ sản phẩm càng hiếm, sự phụ thuộc và khán giả nữa, mà còn là mối quan hệ giữa của người cung cấp sản phẩm đối với họ càng người cung cấp sản phẩm và người tiêu thụ cao, họ càng được chăm sóc, chiều chuộng. sản phẩm. Trong sự đa dạng hóa ngày càng tăng của Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng là các sản phẩm nghệ thuật, nhất là các sản phẩm thượng đế, vì thị trường ngày nay thiếu người ngoại nhập; với sự cạnh tranh ngày càng khốc 60 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  4. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT liệt của các phương tiện và hình thức giải trí không có khả năng cảm thụ các giá trị nghệ hiện đại, thị trường nghệ thuật Việt Nam, nhất thuật, thì sẽ chỉ thuần túy là khách hàng mà là các bộ môn nghệ thuật truyền thống, có xu không thể là người thưởng thức, không thể là hướng bị thu hẹp thị phần, giảm sức thu hút công chúng đúng nghĩa. đối với công chúng. Trong nỗ lực tìm đến công Nghĩa là, công chúng chỉ là khách hàng ở chúng, nhiều tác giả và công ty biểu diễn nghệ khía cạnh tiêu dùng vật chất (là người chi tiền thuật xác định công chúng là khách hàng và mua tác phẩm nghệ thuật), còn ở khía cạnh hướng tới họ bằng cách cung cấp những sản tinh thần, công chúng cần phải có một năng phẩm mà họ ưa thích, chờ đợi. lực thẩm mỹ nhất định để thưởng thức tác Thậm chí, đã xuất hiện xu hướng đề cao phẩm, và cũng cần có những xúc cảm thẩm công chúng không chỉ ở khía cạnh là khách mỹ để hiểu được những điều tác giả muốn gửi hàng tiêu thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn gắm trong tác phẩm. Nói khác đi, muốn trở coi họ như là tiêu chí đánh giá chất lượng thành công chúng đúng nghĩa, thì cần phải nghệ thuật của tác phẩm. Những tác phẩm học cách cảm thụ nghệ thuật. Vậy nên, coi có lực lượng công chúng đông đảo thì được công chúng là khách hàng của thị trường nghệ xem là tác phẩm có chất lượng. Nổi lên những thuật là một cách so sánh phiến diện, thiên về hiện tượng “phim ăn khách”, “sách bán chạy” khía cạnh tiêu dùng vật chất đối với tác phẩm. tốn không ít giấy mực của giới truyền thông. Nếu muốn coi công chúng là khách hàng của Thậm chí, xuất hiện cả những cuộc thi, mà nghệ thuật thì đó phải là những khách hàng trong hệ thống giải có những giải do khán giả đặc biệt - tương xứng với loại hàng hóa đặc bình chọn. Công chúng được nâng tầm từ vị biệt mà họ thưởng thức, nâng họ lên thành trí người thưởng thức nghệ thuật lên thành người thẩm định giá trị nghệ thuật của tác người thẩm định nghệ thuật. phẩm thì lại càng sai lầm. Tuy nhiên, tác phẩm nghệ thuật là hàng 4. Nhận diện công chúng nghệ thuật Việt hóa đặc biệt, vì bên cạnh giá trị được đo bằng Nam hiện nay sức lao động của người sản xuất (tác giả) giống Ở phần này, công chúng được hiểu theo như mọi hàng hóa vật chất khác, thì loại hàng nghĩa hẹp, là những người có chi tiền để thưởng hóa tinh thần này còn chứa đựng những giá thức nghệ thuật. Họ bỏ tiền mua vé đi xem phim trị nghệ thuật được chắt chiu từ tâm hồn của ở rạp, xem ca nhạc/vở diễn ở nhà hát; hoặc bỏ tác giả, được thăng hoa từ cảm xúc của tác tiền mua truyện về đọc, mua đĩa về xem… giả, được phát tiết từ đam mê của tác giả, Theo nghĩa đó, công chúng Việt Nam hiện được tạo hình hài từ tài năng của tác giả. Cái nay phần đông là giới trẻ, với độ tuổi từ 30 trở cốt lõi, cái hồn cốt, điều kiện sống còn của xuống. Cuộc khảo sát về công chúng nghệ tác phẩm được tạo nên chính từ những giá trị thuật của chúng tôi tiến hành năm 2016 với 3 nghệ thuật ấy, chứ không phải từ cái khoảng nhóm khách thể là khán giả điện ảnh, khán giả thời gian lao động 1 ngày hay 2 ngày. Thế nên, sân khấu và độc giả xuất bản phẩm, cho kết quả nếu như với hàng hóa vật chất thông thường, như sau: Trong tổng số 1.639 người trả lời phiếu chỉ cần người mua có tiền và muốn sở hữu, hỏi, với khán giả điện ảnh: độ tuổi từ 30 tuổi là họ có thể trở thành khách hàng, thì với tác trở xuống chiếm 73,8% (trong số 593 người trả phẩm nghệ thuật, người thưởng thức cần có lời); với khán giả sân khấu: số này chiếm 57,7% một trình độ thẩm mỹ nhất định mới có thể (trong số 490 người trả lời; với độc giả xuất bản cảm thụ được. Người tiêu dùng tác phẩm mà phẩm: 66,1% (trong số 556 người trả lời). Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 61
  5. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Tương tự, một công bố của trang mạng học, là công chức nhà nước hoặc chưa đi làm, Q&Me, một trang chuyên về nghiên cứu thị và có mức sống trung bình. trường, cho biết “Nhóm những người từ 20 - Như đã phân tích ở trên, bộ phận công 29 tuổi thường xem phim tại rạp nhiều nhất chúng nào chi tiền để thưởng thức nghệ thuật trong các nhóm tuổi” [11]. Trong lĩnh vực ca thì sẽ có tác động định hướng phát triển nghệ nhạc, nhà tổ chức biểu diễn (bầu show) Hoàng thuật. Ở Việt Nam hiện nay, bộ phận công Tiến cũng xác nhận khán giả trẻ là lực lượng chúng có khả năng chi phối sự phát triển của chính mua vé xem ca nhạc hiện nay [8]. Nghĩa nghệ thuật là nhóm những người trẻ, có trình là, bộ phận công chúng có chi tiền để thưởng độ học vấn THPT hoặc đại học, là công chức thức các tác phẩm nghệ thuật ở Việt Nam hiện nhà nước hoặc chưa đi làm, và có mức sống nay đa phần là giới trẻ. trung bình. Để phân biệt với tổng thể công Về học vấn, kết quả khảo sát của chúng chúng nói chung, chúng tôi gọi họ là “nhóm tôi cho thấy: Trong tổng số 1.639 người trả công chúng chi phối”. Đây là nhóm công lời phiếu hỏi, với khán giả điện ảnh, trình độ chúng quan trọng, đóng vai trò quyết định sự học vấn THPT và đại học chiếm tỷ lệ lần lượt phát triển, thậm chí cả sự tồn vong của nền là 33,5% và 34,3%; với khán giả sân khấu, con nghệ thuật nước nhà. Họ chi phối nghệ thuật số tương ứng là 23,4% và 35,3%; còn với độc bằng tình yêu của mình, sự ủng hộ, sự cuồng giả xuất bản phẩm là 19,3% và 42,4%. Nghĩa là, nhiệt với những tác phẩm và xu hướng mà họ hầu hết công chúng chi tiền để thưởng thức yêu thích. Họ cũng chi phối bằng sự thờ ơ, bỏ nghệ thuật là những người có trình độ hết qua, hoặc chê bai, chỉ trích những tác phẩm và THPT hoặc hết đại học. xu hướng nghệ thuật mà họ không ưa. Mà sự Về nghề nghiệp, cũng cuộc nghiên cứu yêu thích hay thờ ơ của họ đối với nghệ thuật trên cho thấy, phần lớn công chúng là viên được quyết định bởi năng lực cảm thụ nghệ chức nhà nước và học sinh sinh viên chưa đi thuật của họ. làm. Cụ thể, trong số những người chi tiền đi 5. Năng lực cảm thụ nghệ thuật của nhóm xem phim, có 22,7% là viên chức nhà nước và công chúng chi phối tại Việt Nam hiện nay 35,9% chưa đi làm; khán giả sân khấu có tương Một hiện tượng quen thuộc trong đời sống ứng là 29,6% và 25,9%; còn các độc giả có tỷ lệ nghệ thuật những năm gần đây: Có những tương ứng là 28,1% và 24,9%. bộ phim/vở diễn ra rạp cháy vé, người người Về mức sống, cuộc nghiên cứu trên của đổ xô đi xem, xuất hiện những bài bình luận, chúng tôi cũng cho kết quả: Hầu hết công tán dương, xếp hạng… Trong khi đó, các nhà chúng tự đánh giá hoàn cảnh kinh tế của mình chuyên môn thì buồn bã. Chẳng hạn, nghệ sĩ ở mức trung bình. Cụ thể, có tới 72,8% công Lê Bình, tác giả của nhiều kịch bản, tiểu phẩm chúng điện ảnh, 64,3% công chúng sân khấu kịch nói, cho biết: “Khoảng 2 năm gần đây tôi và 71,8 độc giả trả lời rằng họ có mức sống không đưa được tác phẩm cho sân khấu nào. trung bình. Điều này cũng có thể lý giải được, Các nơi cứ bảo tôi: “Anh viết đi, viết vui, nhí nhố bởi lẽ họ đều còn trẻ, nhiều người làm việc lên cho em!”. Thiệt, tôi không thể nào làm được. ở các cơ quan nhà nước với mức lương thấp, Tiền thì ai cũng cần nhưng bảo viết thế tôi không nhiều người khác còn chưa đi làm. viết được. Bây giờ muốn viết, tôi cứ viết những Như vậy, công chúng Việt Nam có chi tiền cái mà tôi quan tâm, trăn trở rồi... để đó. Hy vọng, để thưởng thức nghệ thuật hiện nay đa phần một ngày sẽ có những sân khấu chấp nhận làm là giới trẻ, trình độ học vấn hết THPT hoặc đại tác phẩm của mình một cách đàng hoàng” [12]. 62 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
  6. VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT Tương tự, ông Trần Trọng Dần, Giám đốc Một câu hỏi đặt ra: Công chúng chi phối Hãng phim CoCo Paris cho rằng, phần đông nghệ thuật ở Việt Nam đều là những người khán giả đi xem phim là những người trẻ, họ có trình độ học vấn tốt (hết THPT hoặc hết không có nhu cầu tiếp nhận bài học gì sâu xa. đại học), mà trong chương trình giáo dục phổ Diễn viên - nhà sản xuất Mai Thu Huyền (Công thông có dạy các môn nghệ thuật. Vậy tại sao ty Tincom Media) cũng đồng tình: “Đa số khán năng lực thẩm mỹ của họ lại thấp như vậy? giả vào rạp không cần những phim có tính giáo Vấn đề là ở chỗ các môn nghệ thuật được dục nặng nề, bài học sâu sắc mà chủ yếu muốn giảng dạy ở phổ thông không những chưa đạt xem phim giải trí nhẹ nhàng, hài hước. Họ xem yêu cầu mà còn lệch hướng. Chưa đạt yêu cầu thấy đã mắt, nghe đã tai và cười đã miệng là là bởi các môn này đều được coi là các môn đủ rồi!” [7]. Đạo diễn Charlie Nguyễn nhiều phụ, không được chú trọng đầu tư đúng mức lần than rằng, ở Việt Nam, cứ làm phim theo cả về nội dung lẫn giáo viên. Theo thống kê dòng hài hước, lãng mạn, ngôn tình thanh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ở bậc tiểu học, số xuân là có doanh thu. Giới trẻ là đối tượng lượng giáo viên âm nhạc, mỹ thuật rất thiếu. chính của rạp phim và họ chỉ cần những bộ Trong tổng số 15.538 trường tiểu học trên phim đơn giản, hài hước để giải trí, thế là đủ. toàn quốc, chỉ có 13.339 giáo viên âm nhạc, Rất nhiều bộ phim giàu tính nghệ thuật lại thiếu 2.199 người. Tương tự, số giáo viên mỹ bị chê bai vì khán giả không hiểu ngôn ngữ thuật chỉ có 13.445, thiếu 2.093 người. Số giáo nghệ thuật, ý đồ, thông điệp của đạo diễn. Bà viên nghệ thuật, các trường THCS cơ bản là Ngô Ngọc Ngũ Long, Phó Chủ tịch Hội Điện đủ, trong tổng số 10.939 trường THCS trên cả ảnh Tp. HCM, thì nhận xét thẳng thắn hơn: nước có 11.424 giáo viên âm nhạc và 11.178 “Sở thích của khán giả hiện nay nghiêng hẳn giáo viên mỹ thuật. Riêng đối với bậc THPT, về phim hài, càng nhảm họ càng thích. Họ đến theo lộ trình của chương trình giáo dục phổ rạp theo các nhóm bạn bè, ảnh hưởng nhiều thông mới, khi môn nghệ thuật triển khai tại bởi yếu tố truyền miệng và sự nổi tiếng của diễn các trường, số giáo viên âm nhạc, mỹ thuật sẽ viên”, và “Đến chuyện tế nhị như hôi nách mà thiếu 100% [1]. cũng mang lên chọc cười thì không còn gì để Mỗi trường chỉ có một 1 - 2 giáo viên dạy nói. Chọc cười thô thiển như vậy mà khán giả nghệ thuật, nên thường phải dạy nhiều lớp với vẫn cười rần rần mới sợ chứ!”. Hoặc, theo nhận nhiều giáo án một lúc, khó có điều kiện đầu tư định của báo Văn học Sài Gòn online: “Ai cũng cho bài giảng. Việc giảng dạy và kiểm tra giáo có thể ngắm một bức tranh, nghe một ca khúc, viên “tự biên tự diễn”, không được Ban Giám xem một bộ phim… và bảo rằng mình thích hiệu theo dõi, chỉ đạo. Chưa kể giáo viên dạy hay không thích. Nhưng để giải thích một cách nghệ thuật còn phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm thuyết phục tác phẩm đó hay - dở chỗ nào, ý đồ vụ khác. Và khi không có giáo viên nghệ thuật nghệ thuật là gì, vì sao nó là kiệt tác… thì hơn thì các môn này được “giao khoán” cho giáo 90% công chúng Việt hoặc sẽ lúng túng, hoặc viên chủ nhiệm, dù không có chuyên môn [2]. nhận xét cảm tính, hoặc lặp lại y chang những Không những thế, về chương trình và mục gì các nhà phê bình định hướng, mà không có tiêu dạy nghệ thuật trong trường phổ thông, nhận định riêng” [4]. họa sĩ Nguyễn Trung Tín đã từng “báo động” Như vậy, có thể thấy rằng, công chúng chi rằng, trong khi các quốc gia phát triển coi việc phối nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay chưa đủ dạy cảm thụ nghệ thuật quan trọng hơn thực năng lực để cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật. hành nghệ thuật, thì ngành giáo dục Việt Nam Số 32 (Tháng 6 - 2020) VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 63
  7. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU đang làm ngược lại. “Thử giở lại chương trình lao động online, https://nld.com.vn/van-hoa-van- đào tạo mỹ thuật phổ thông sẽ thấy, chúng ta nghe/cong-chung-nghe-thuat-o-dau-thi-hieu- dạy các em cắt chữ, vẽ trang trí, kẻ dán, nặn theo phim-ngay-cang-te-20150114213915482.htm mẫu,… nhưng chúng ta lại ít dạy về thẩm mỹ 8. Quỳnh Nguyễn (2019), “Sân khấu ca nhạc hồi sinh với nhiều live show cháy vé”, Báo Tuổi mỹ thuật, chúng ta không dạy chúng biết cách trẻ online, https://tuoitre.vn/2019-san-khau- thưởng thức mỹ thuật” [4]. ca-nhac-hoi-sinh-voi-nhieu-live-show-chay- Tất cả những điều trên giải thích cho sự ve-20191218230005884.htm yếu kém về năng lực cảm thụ nghệ thuật của 9. Nguyễn Thị Anh Quyên (2019), “Đề xuất nhóm công chúng chi phối hiện nay. một số giải pháp phát triển khán giả cho các Với một năng lực cảm thụ nghệ thuật như đơn vị văn hoá nghệ thuật”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 423, tr. 78-80. vậy, nếu công chúng Việt Nam được coi là 10. Nguyễn Thị Lan Thanh (2016), “Hoạt động khách hàng, là thượng đế, và các nghệ sĩ chiều phát triển khán giả đối với nghệ thuật xiếc”, Tạp theo thị thiếu của họ, chịu sự chi phối của họ, chí Văn hóa Nghệ thuật, số 389, tr. 64-66. không giữ bản lĩnh nghệ thuật của mình, thì 11. Thói quen đi xem phim của người Việt”, thật là nguy hại, không chỉ đối với nghệ thuật Chuyên trang Nghiên cứu thị trường Q&Me, nước nhà, mà cả đối với bản thân họ. https://qandme.net/vi/baibaocao/Thoi-quen- xem-phim-cua-nguoi-Viet.html Đ.T.V.C 12. Trí Trọng (2016), “Đáp ứng thị hiếu khán giả như thế nào?”, Báo Đồng Nai online, http:// www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201605/dap- Tài liệu tham khảo ung-thi-hieu-khan-gia-nhu-the-nao-2694337/ 1. Yến Anh (2019), “Thiếu trầm trọng giáo viên 13. Phạm Việt (2008), “Sân khấu, tìm đâu khán nghệ thuật”, Báo Người lao động online, https:// giả”, Tạp chí Toàn cảnh Sự kiện - Dư luận, số 211, zingnews.vn/thieu-tram-trong-giao-vien-nghe- tr. 44-45. thuat-post1007007.html 2. Nguyễn Cao (2019), “Vì đâu nên nỗi các Ngày nhận bài: 01 - 6 - 2020 môn giáo dục nghệ thuật được xem là... môn phụ?”, Báo Giáo dục Việt Nam online, https:// Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 6 - 2020 giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/vi-dau-nen-noi- Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020 cac-mon-giao-duc-nghe-thuat-duoc-xem-la- mon-phu-post201728.gd 3. Hoàng Trần Doãn (2006), “Sự thay đổi của khán giả điện ảnh hôm nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 9, tr. 46-49. 4. Mai Quỳnh Nga (2020), “Học làm… khán giả nghệ thuật”, Báo Văn học Sài Gòn online, https://vanhocsaigon.com/hoc-lam-khan-gia- nghe-thuat/ 5. Quỳnh Nga (2014), “Sân khấu với khán giả hai miền”, Tạp chí Sân khấu, số tháng 9, tr. 32-33. 6. Người đọc và công chúng nghệ thuật đương đại (2011), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Hạ Nguyên (2015), “Công chúng nghệ thuật ở đâu?: Thị hiếu phim ngày càng tệ”, Báo Người 64 Số 32 (Tháng 6 - 2020)
nguon tai.lieu . vn