Xem mẫu
- DI SẢN VĂN HÓA
NHẬN DIỆN LÀNG NGHỀ, PHỐ NGHỀ
THĂNG LONG - HÀ NỘI
ĐINH CÔNG TUẤN
Tóm tắt
Thăng Long - Hà Nội có vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên đặc biệt, có nền văn hóa lâu đời, nhiều
làng nghề sản xuất thủ công truyền thống. Ngược dòng thời gian, dưới thời Lý - Trần, Thăng Long là
nơi hội tụ các làng nghề từ khắp mọi miền đất nước đổ về với 13 trại, 61 phường; bước sang thời Lê -
Nguyễn, Thăng Long có 36 phố phường. Những người thợ tài hoa đã mang theo cả gia đình, bạn bè họ
hàng làng xóm lên hành nghề, xây dựng nhà rồi lập phố. Ngày nay, làng nghề/phố nghề Thăng Long
- Hà Nội vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của người dân Hà Nội.
Từ khóa: Làng nghề, phố nghề, Thăng Long - Hà Nội
Abstract
Thang Long - Hanoi has a special geographical location and natural conditions, with a long-
standing culture, many traditional craft villages. Back to ancient time, under Ly and Tran dynasties,
Thang Long is the convergence of craft villages from all over the country, with 13 camps and 61 wards;
to the Le and Nguyen dynasties, Thang Long had 36 streets. The talented craftsmen brought their
families, neighbors and relatives there to work, built houses and made streets. Today, the handicraft
villages / streets of Thang Long - Hanoi still plays an important role in the life of Hanoi people.
Keywords: Craft villages, craft streets, Thang Long – Hanoi
1. Sự hình thành làng nghề/phố nghề Thăng làm công việc sản xuất đó. 2/ Sản phẩm của họ
Long - Hà Nội qua khảo cứu tư liệu lịch sử và chủ yếu để bán ra thị trường (không phải làm
những nghiên cứu đương đại để dùng cho bản thân hay cho gia đình, cũng
L
àng nghề như một gương mặt khác không phải để làm giúp cho người khác trong
của làng xã nông nghiệp, nó là một bộ xóm làng trực tiếp tiêu dùng) và đó là nguồn
phận không thể tách rời và phát triển sống chính của họ” (1, tr.24-25).
song hành cùng với làng xã của người Việt. Sự Về khái niệm nghề thủ công, Phan Gia Bền
ra đời của làng nghề xuất phát từ sự ra đời và cho rằng: Nghề thủ công gắn liền với nông
phát triển của các nghề thủ công cùng với tầng nghiệp. Nghề thủ công ở Việt Nam phần lớn
lớp thợ thủ công. là nghề phụ của nông dân, được làm vào thời
Trong cuốn Sơ khảo lịch sử phát triển thủ gian rảnh rỗi, hay nói cách khác, nghề thủ công
công nghiệp Việt Nam xuất bản năm 1957, tác tại các làng nghề không tách khỏi nông nghiệp,
giả Phan Gia Bền đã đưa ra khái niệm về thợ chưa trở thành nghề độc lập (1, tr.20, 38-40).
thủ công (thủ công nghiệp cá thể) “là những Tác giả Nguyễn Huy Phúc viết về thủ công
người có tiêu chuẩn căn bản sau đây: 1/ Lao nghiệp Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945 đã đưa ra
động của họ là chính, có thể có những người khái niệm tiểu thủ công nghiệp thời cận đại: “...
vừa sản xuất hàng hoá để bán, vừa bán sức bao gồm toàn bộ nền sản xuất các mặt hàng
lao động đi làm thuê cho người khác; có thể tiêu dùng phi nông nghiệp truyền thống hoặc
dùng công nhân trong gia đình để cùng sản mới du nhập do người Việt Nam tiến hành ở
xuất; có thể mướn thêm công nhân (thợ bạn nông thôn, ở các làng chuyên nghề và các đô
hoặc thợ học nghề) nhưng chỉ để giúp họ sản thị, thị trấn, không loại trừ một bộ phận sản xuất
xuất, đại bộ phận thì giờ của thợ thủ công là để của tư sản công nghiệp nhỏ dân tộc” (3, tr.25).
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
31
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Tác giả Dương Bá Vượng đưa ra định nghĩa buôn bán. Nhưng trước đó, vào năm 1230, nhà
về làng nghề như sau: “Làng nghề là một thiết Trần đã hoạch định lại, chia Thăng Long thành
chế gồm hai bộ phận cấu thành là “làng” và 61 phường (8, tr.63).
“nghề”... là làng ở nông thôn có một (hoặc một Theo Đại Nam nhất thống chí, “Hà Nội là
số) nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi kinh đô xưa, nguyên trước có 36 phố phường,
nông nghiệp và kinh doanh độc lập...”. Tác giả nay ở quanh phía Đông Nam tỉnh thành có
này dựa vào tính chất và số lượng nghề để phân 21 phố, nhà ngói như bát úp, tụ họp các mặt
loại làng nghề: Làng một nghề, làng nhiều hàng, nhân vật cũng phồn thịnh” (2, tr.189).
nghề, làng nghề truyền thống, làng nghề mới: Trong cuốn Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam (1858
“làng nghề truyền thống là những làng nghề - 1945), tác giả Vũ Huy Thúc đã trích dẫn một
xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại học giả người Pháp viết về sự buôn bán hàng
cho đến ngày nay, là những làng nghề đã tồn tiểu thủ công ở Hà Nội như sau: “Cứ 6 ngày có
tại hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm” một phiên chợ tại Hà Nội, người buôn bán và
(6, tr.10-15). thợ thủ công ở thôn quê kéo về, người bán tơ
Về khái niệm làng nghề, GS. Trần Quốc lụa thì vào phố Hàng Đào, thợ đan kéo vào phố
Vượng, trong cuốn Văn hóa Việt Nam tìm tòi và Hàng Đồng, thợ làm nón vào phố Hàng Nón...”
suy ngẫm, đã đưa ra định nghĩa khá đầy đủ như (3). Trong cuốn Làng nghề, phố nghề Thăng
sau: Theo chúng tôi hiểu gọi là một làng nghề Long - Hà Nội của GS. Trần Quốc Vượng và PGS.
(như làng gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, TS. Đỗ Thị Hảo đã ghi rằng: “Người dân buôn
Hương Canh,... làng đồng (Bưởi, Vó, Hè Nôm, bán ở khu vực 36 phố phường xưa khi lên kinh
Thiệu Lý, Phước Kiều...), làng giấy vùng Bưởi, đô lập nghiệp đã rước Thành hoàng làng nơi
Dương Ổ,... làng rèn sắt Canh Diễn, Phù Dực, Đa quê gốc lên kinh đô, lập ra hệ thống đình - đền
Hội v.v.) là làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối - chùa ở các phường phố” (8, tr.79).
tiểu nông và chăn nuôi nhỏ (lợn, gà,...), cũng có Với vị trí địa lý giao thương thuận lợi, hay
một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm nhu cầu của thị trường trong hoàn cảnh lịch sử
đậu phụ,...) song đã nổi trội một nghề cổ truyền, nhất định, nghề phụ trong nông nghiệp đã trở
tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên thành nguồn thu nhập chủ yếu của người dân,
nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ một số làng đã trở thành làng nghề mang tính
cấu tổ chức), có ông trùm, có phó cả,... cùng chuyên biệt và khi hội tụ ở kinh đô Thăng Long,
một số thợ và phó nhỏ, đã làm chuyên tâm có các làng nghề đã tạo lập những phố nghề.
quy trình công nghệ nhất định, “sinh ư nghệ, tử 2. Một số làng nghề/phố nghề tiêu biểu ở
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống Thăng Long - Hà Nội
chủ yếu được bằng nghề và sản xuất ra các mặt * Phố Hàng Bạc và nghề kim hoàn: Hàng Bạc
hàng thủ công; những mặt hàng này có tính là một con phố nằm ở quận Hoàn Kiếm, thuộc
mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa có không gian của khu phố cổ Hà Nội. Trước năm
quan hệ tiếp thị (marketing) với một thị trường 1945, phố Hàng Bạc có ba nghề khác nhau đó
là vùng rộng xung quanh và với cả thị trường là nghề đúc bạc nén, nghề kim hoàn và nghề
đô thị, thủ đô (Kẻ Chợ, Huế, Sài Gòn,...) và tiến đổi tiền. Có thể coi Hàng Bạc là nơi tập trung
tới mở rộng ra cả nước rồi xuất khẩu ra nước những người thợ tinh xảo về kỹ thuật chế tác
ngoài (7, tr.372). đồ vàng bạc của đất kinh kỳ. Trong truyền
Tên gọi Hà Nội được xác lập vào năm Minh thống, thợ thủ công đều xuất thân từ ba làng
Mạng thứ 11, nhưng vùng đất này đã được hình nghề vàng bạc nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam,
thành từ rất lâu đời, dựa trên cơ sở tự nhiên của đó là Định Công (Hà Nội), Đồng Xâm (Thái Bình)
vùng đất ngã ba sông Hồng, là trung tâm của và đến cuối thế kỷ XV một số người làng Châu
vùng châu thổ sông Hồng. Thế kỷ XV, những Khê (Hải Dương) cũng kéo nhau ra mở xưởng
người làm chung một nghề ở các làng quê đã đúc tiền, làm cho phường vàng bạc càng trở
di cư đến khu vực này và tập trung lại, lập ra các nên nhộn nhịp.
phường riêng - 36 phường, phía trong phường Ở kinh đô Thăng Long trước đây, làng Định
là nơi sản xuất còn mặt phố là nơi kinh doanh Công Thượng là cơ sở phục vụ vàng bạc sớm
32 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- DI SẢN VĂN HÓA
nhất cho kinh thành Thăng Long. Dân gian kể mặt trăng) cùng với các mẫu trang trí khác như:
lại rằng, vào cuối thế kỷ VI, ở làng Định Công bát vật (tám con vật), bát bảo (tám vật quý), bát
có ba anh em họ Trần là Trần Hòa, Trần Điện và quả (tám loại trái cây),… cũng được chạm khắc
Trần Điền, do nghèo khổ dưới ách thống trị của tinh xảo trên đĩa, mâm bằng vàng, bạc. Trên các
nhà Đường, anh em họ Trần phải tha phương đồ vàng, bạc, có thể thấy người thợ kim hoàn
cầu thực tới một nước láng giềng, rồi từ đó chạm trổ hình ảnh con người, hoặc các loại cây,
họ học được nghề kim hoàn. Khi trở về quê hoa mà theo quan niệm phương Đông thì đó là
hương, họ truyền nghề cho dân làng. Sau này, tượng trưng cho những phẩm chất cao quý của
làng Định Công có nghề truyền thống vàng người quân tử: tùng, trúc, cúc, mai,…
bạc phục vụ thị trường ở Thăng Long. Từ thế kỷ Ngày nay, có thể thấy nghề buôn bán trao
XVIII, XIX, khi nền kinh tế Thăng Long - Hà Nội đổi vàng bạc không chỉ còn tập trung ở phố
ngày một phát triển cao, những nghệ nhân này Hàng Bạc mà trên nhiều phố khác, cũng rải rác
mới chuyển dần lên Thăng Long hành nghề ở có các cửa hiệu buôn bán vàng, nhưng Hàng
khu phố Hàng Bạc ngày nay. Bạc vẫn là nơi tập trung những người thợ kim
Từ thế kỷ XV, khi ngành luyện kim ở nước hoàn tinh xảo với truyền thống chế tác đồ
ta tiến bộ, nghề đúc bạc nén bước vào giai vàng, bạc.
đoạn mới, thoát thai từ làng Châu Khê (xã Thúc * Làng đúc đồng Ngũ Xã: Từ xưa, người dân
Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Thăng Long đã biết đến câu: “Lĩnh hoa Yên Thái,
Dân gian kể lại rằng, dưới thời Lê Thánh Tông đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng
(1460-1497), trong làng này có ông Lưu Xuân Ngũ Xã”. Ngũ Xã vốn là một làng nằm bên bờ
Tín được vua cho phép lập nên một tràng đúc hồ Trúc Bạch, phía tây của Thăng Long - Hà Nội.
bạc và tiền ở Thăng Long, sau đó làm tới chức Sử sách ghi lại rằng, vào khoảng thời Lê (1428
Thượng thư Bộ Lại, rồi được tôn làm thủy tổ của - 1527), dân 5 làng Đông Mai, Châu Mỹ, Long
nghề đúc bạc. Về sau, người làng ông ra Thăng Thượng, Điện Tiền và Đào Viên (mà tên Nôm là
Long hành nghề ngày càng đông. Phố Hàng các làng Hè, Rồng, Dí Thượng, Dí Hạ,…) thuộc
Bạc được thành lập từ đó. Họ đã xây dựng nên huyện Văn Lâm (Hưng Yên) và Thuận Thành
các tràng đúc bạc (nay là 58 phố Hàng Bạc) làm (Bắc Ninh), vốn có nghề đúc đồng đã về kinh
nơi sản xuất. Hai ngôi đình: Thượng Đình (số thành để lập trường đúc tiền và đồ thờ. Tại đây,
50 Hàng Bạc) và Kim Ngân Đình (số 42 Hàng họ đã sinh cơ lập nghiệp và tạo dựng làng mới
Bạc) là nơi giao nộp thành phẩm cho nhà nước trên đất Thăng Long nên mới lấy tên Ngũ Xã để
đương thời. ghi nhớ 5 làng quê gốc của mình. Về sau, những
Theo thời gian, phố Hàng Bạc còn có thêm người thợ thủ công ở Ngũ Xã tổ chức thành
một số nghệ nhân người làng Đồng Xâm (xã phường nghề riêng, gọi là phường đúc đồng
Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) Ngũ Xã, nay là phố Ngũ Xã nằm ở phía đông hồ
đến đây làm ăn sinh sống, với sở trường chạm Trúc Bạch, thuộc quận Ba Đình. Trước đây, nghề
trổ những đồ vật lớn bằng bạc như hộp trầu, đúc đồng Ngũ Xã đã được coi là một trong bốn
chén bát đĩa, đỉnh, lư đèn,… nghề tinh hoa bậc cao của Thăng Long. Hiện
Ngày nay, với đồ nghề thủ công, người thợ nay, làng nghề vẫn còn tồn tại và là nơi sản
kim hoàn ở phố Hàng Bạc đã làm ra nhiều sản sinh ra nhiều sản phẩm đẹp thể hiện tài hoa
phẩm vàng bạc tinh xảo, nhất là đồ trang sức. của người thợ nghề vùng đất kinh kỳ. Ngoài sự
Người thợ kim hoàn ở Hàng Bạc thường chạm thông minh sáng tạo, cái nhìn chuẩn xác, bàn
khắc trên đồ vàng bạc theo các mẫu trang tay khéo léo, người thợ thủ công Ngũ Xã còn
trí nhất định, trong đó, “tứ linh” (long, ly, quy, có bí quyết nghề nghiệp và kinh nghiệm lâu
phượng) là mẫu phổ biến nhất. Riêng hình đời. Sản phẩm đồ đồng Ngũ Xã nổi tiếng khắp
tượng long (rồng) đã được bàn tay khéo léo nơi, trong đó nổi bật là pho tượng Phật Di Đà
của nghệ nhân thể hiện với nhiều chủ đề khác ở chùa Thần Quang tại làng Ngũ Xã ngày nay.
nhau: long hàm thọ (long ngậm chữ thọ), lưỡng Đây là một tác phẩm nghệ thuật bằng chất liệu
long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc), đồng rất độc đáo và tinh tế. Bên cạnh đó, thợ
lưỡng long chầu nguyệt (hai con rồng chầu đúc đồng Ngũ Xã còn tạo ra nhiều tác phẩm
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
33
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
khác rất nổi tiếng như: Pho tượng đồng Trấn đã bị mai một và hiện không còn gia đình nào
Vũ hay còn gọi là tượng Huyền Thiên Trấn Vũ làm nghề này.
ở đền Quán Thánh, chuông chùa Một Cột (Hà * Tranh Hàng Trống: Tranh Hàng Trống là
Nội). Ngoài ra, những đồ thờ bằng đồng như một trong những dòng tranh dân gian Việt
lư hương, chân đèn, hạc, vạc,… được nhiều nơi Nam được làm chủ yếu tại phố Hàng Nón,
trong cả nước đánh giá cao. Trải qua thời gian Hàng Trống của Thăng Long xưa. Tranh Hàng
lịch sử, đến nay, làng đúc đồng Ngũ Xã có các Trống có hai dòng chính là tranh thờ và tranh
gia đình làm nghề đúc đồng với những mặt Tết, nhưng chủ yếu vẫn là tranh thờ dùng trong
hàng thủ công mỹ nghệ như: Lư đồng, mâm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo bản địa tại các
đồng, chuông đồng,… với kích thước nhỏ, đền, phủ của Đạo giáo như: tranh thờ của Đạo
trong đó một phần phục vụ nhu cầu mua hàng Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy, Nam Định),
lưu niệm của du khách nước ngoài khi đến với tranh Tứ Phủ công đồng, bà Chúa Thượng Ngàn,
Thủ đô Hà Nội. Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ông Hoàng cưỡi cá, cưỡi
* Làng giấy Yên (An) Thái: Nằm ở phía tây ngựa, cưỡi rắn, ông Hoàng Mười, bà Chúa Ba,
Hà Nội, làng này còn có tên là làng Bưởi. Theo Đức Thánh Trần,… Tranh Tết gồm tranh chúc
các tài liệu còn lưu lại đến ngày nay, nghề làm phúc, tứ quý,… Các nhà nghiên cứu văn hóa
giấy đã có ở nước ta từ lâu đời. Năm 284, một và nghệ thuật học đều cho rằng, dòng tranh
thương nhân La Mã đã mua của Giao Chỉ hàng Hàng Trống xuất hiện từ khoảng 400 năm trước
vạn tờ giấy Mật Hương, một loại giấy thơm, để đây và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư
dâng lên vua Tấn Võ Đế. Một học giả người Hoa tưởng, văn hoá, tôn giáo của các vùng miền, cư
là Kê Hàm cũng đã xác nhận giấy Mật Hương dân, là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa
của Giao Chỉ làm bằng gỗ trầm thơm, màu Phật giáo, Nho giáo, giữa loại hình tượng thờ,
trắng, có vân vảy cá, thả vào nước không nát. điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong
Cho đến khi nhà nước Đại Việt ra đời và định sinh hoạt văn hoá dân gian. Hiện nay, tại Hà Nội
đô ở Thăng Long thì nghề này ở làng Yên Thái còn duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên và
đã phát triển mạnh. Giấy dó Yên Thái đã từng là con trai của ông (hiện đang sinh sống số nhà
mặt hàng triều cống cho triều đình nhà Tống 22A phố Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm) còn làm
dưới đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Trong
nghề tranh truyền thống. Ông Lê Đình Nghiên
sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết năm 1435
thuộc thế hệ thứ ba của một gia đình vốn có
đã nói đến nghề làm giấy của làng này. Ngay
truyền thống làm nghề tranh ở làng Bình Vọng,
từ thời đó, người thợ thủ công ở đây đã làm ra
Thường Tín (Hà Tây cũ) nhưng đã lên lập nghiệp
những loại giấy đặc biệt cho triều đình phong
ở phố Hàng Trống (Hà Nội). Cụ Lê Xuân Quế,
kiến như giấy thị (để viết chỉ thị), giấy lệnh
ông nội nghệ nhân Lê Đình Nghiên, khi xưa đã
(để ghi mệnh lệnh), giấy sắc (để ban sắc chỉ).
làm nghề tranh, cha của nghệ nhân Nghiên là
Những sản phẩm chủ yếu của Yên Thái là giấy
cụ Lê Đình Liệu tiếp nối, đến ông Nghiên, cả
bản để in sách hoặc để viết chữ Nho (bằng bút
nhà có 7 anh chị em nhưng chỉ có một mình
lông, mực tầu) và giấy dó (để in tranh dân gian).
ông theo được nghề tranh gia truyền.
Giấy dó Yên Thái có đặc tính xốp nhẹ, bền dai,
không nhòe khi viết, vẽ. Nó ít bị mối mọt hoặc * Làng gốm Bát Tràng: Bát Tràng là một làng
giòn, gẫy, ẩm, nát. Giấy dó Yên Thái có giai đoạn nghề nổi tiếng có lịch sử làm nghề gốm hơn
đã được xuất khẩu sang nhiều nước. Thời Pháp 500 năm. Ngôi làng nằm bên tả ngạn sông
thuộc, các họa sĩ Pháp đã sử dụng giấy dó khổ Hồng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km,
lớn để vẽ tranh bằng mực Tàu theo phương trước đây thuộc tỉnh Bắc Ninh nay thuộc huyện
pháp tranh cổ điển phương Đông. Bên cạnh Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Làng gốm Bát
đó, một vài bảo tàng châu Âu cũng đã dùng Tràng từ lâu đã nổi tiếng với sản phẩm gốm
giấy dó để lót bồi phía sau tranh vẽ. Với đặc tính mang tên chính ngôi làng này. Sản phẩm của
chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho tác phẩm làng gốm Bát Tràng, từ khi ra đời, đã được các
nghệ thuật không bị ẩm mốc. Tuy nhiên, trong bậc vương giả quyền quý ở kinh thành Thăng
thời gian gần đây, trước sự lấn át mạnh mẽ của Long cho đến nông phu chân lấm tay bùn ở
công nghệ làm giấy, nghề làm giấy ở Yên Thái thôn quê đều ưa chuộng. Không những thế,
34 Số 26 - Tháng 12 - 2018
- DI SẢN VĂN HÓA
nhiều đồ gia dụng thường ngày ở Bát Tràng kinh đô, đặc biệt là kinh tế, nhờ có các phố
còn vượt qua biên giới đất Việt. Từ thế kỷ XV, đồ nghề vừa sản xuất vừa buôn bán đã thúc đẩy
gốm Bát Tràng có mặt trong lễ vật triều cống nền kinh tế Thăng Long, từ chỗ phát triển tự
cho các hoàng đế Trung Hoa - nơi có truyền phát đến phát triển tự giác, có kế hoạch. Phố
thống làm gốm sứ từ hàng ngàn năm trước và nghề Thăng Long - Hà Nội không chỉ góp phần
nổi tiếng khắp thế giới. Từ đó về sau, thời đại quan trọng trong sự phát triển kinh tế mà còn
nào, dù suy hay thịnh, thì làng gốm Bát Tràng để lại những di sản văn hóa có giá trị, tiêu biểu
vẫn khẳng định giá trị hàng hoá của mình, là các công trình kiến trúc nhà ở dân dụng, đền
nghề gốm vẫn trụ vững và vượt qua mọi thử chùa, đình miếu... Kiểu kiến trúc phổ biến ở
thách. Sản phẩm gốm sứ Bát Tràng được xuất các phố nghề là những dãy nhà xây theo kiểu
khẩu sang nhiều nước trên thế giới như Nhật chồng diêm san sát nhau, vừa là nhà ở, lại vừa là
Bản, Hàn Quốc, Mỹ và các nước trong khối EU. cửa hiệu bán hàng, lòng hẹp và sâu vào trong,
Nhiều sản phẩm gốm cổ Bát Tràng đang được chia làm nhiều phòng rộng, mỗi phòng được
lưu trữ tại một số viện bảo tàng lớn trên thế ngăn cách với nhau bởi một khoảng sân. Đây
giới. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng là kiểu kiến trúc nhà ở đặc trưng của phố nghề
nghề sản xuất thuần tuý, với nhiều công trình Thăng Long vẫn còn lưu giữ lại cho đến ngày
tín ngưỡng, văn hoá cùng sản phẩm gốm nổi nay. Bên cạnh đó, phố nghề Thăng Long còn
tiếng, ngôi làng còn trở thành một điểm đến để lại cho thế hệ sau rất nhiều đình, đền thờ tổ
du lịch hấp dẫn của Thành phố Hà Nội. nghề. Các đình này do dân ngoại tỉnh ra kinh
thành hành nghề, tự nguyện đóng góp xây
3. Sự dịch chuyển không gian làng nghề/
dựng để thờ cúng tổ nghề. Việc các phường
phố nghề Thăng Long - Hà Nội
thợ lập đình thờ tổ nghề là biểu hiện của ý thức
Các phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội hình uống nước nhớ nguồn, biết ơn người xưa đã có
thành do cư dân của một số làng ở các vùng lân công khai sáng hay cải tiến nghề nghiệp cho
cận, những người thợ thủ công tài hoa mang con cháu nhờ đó mà sinh sống.
nghề đặc sắc từ quê hương lên kinh thành làm
Hiện nay, làng nghề là công xưởng sản xuất,
ăn, sinh sống. Việc hình thành và phát triển các
phố nghề/khu phố cổ lại chính là nơi trưng bày,
phố nghề ở Thăng Long - Hà Nội đã tạo sự biến
giới thiệu và bán sản phẩm. Phố nghề hiện nay
đổi văn hóa từ làng nghề sang phố nghề một
là nơi đem lại thu nhập sau khi bán hàng để tái
cách mạnh mẽ. Đó là sự biến đổi quan niệm về
đầu tư về làng nghề trên nhiều phương diện
nghề nghiệp, do việc mở cửa hàng ở các phố
khác nhau như nâng cao đời sống vật chất và
nghề ngày càng nhiều, sản phẩm bán được
tinh thần, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao
nhiều, thúc đẩy sự phát triển của nghề ở các chất lượng sản phẩm, đặc biệt là chữ tín trong
làng nghề nên người làm nghề đã tập trung làm nghề của người thợ thủ công được đặt lên
vào sản xuất sản phẩm mang tính chuyên môn hàng đầu, góp phần quảng bá hình ảnh của làng
hóa cao. Sau khi lên phố bán hàng, người thợ nghề thông qua sản phẩm. Ngược lại, làng nghề
thủ công đã tạo lập ra các phường, hội liên kết lại cung ứng cho phố nghề những sản phẩm
với nhau và hình thành ra các mối quan hệ xã có chất lượng cao, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, đáp
hội đan xen: chủ và khách, chủ và thợ, chủ và ứng được thị hiếu của khách hàng. Do vậy, làng
chủ... Mặt khác do cuộc sống tất bật, hối hả nghề và phố nghề có mối liên hệ qua lại với nhau
của phố nghề nên quan hệ truyền thống như: thông qua các phương diện khác nhau từ kinh
Láng giềng, huyết thống dòng họ, gia đình tế đến văn hóa, xã hội. Ngày nay, các phố nghề
cũng có sự thay đổi nhất định... Văn hóa ứng xử Hà Nội đã tìm được hướng đi của mình. Hơn bao
của người thợ từ làng ra phố đã thay đổi theo giờ hết, các phố nghề Hà Nội đang mau chóng
chiều hướng mở, vừa mang tính truyền thống vượt ra ngoài địa giới cũ trước kia, mở rộng ra cả
của làng quê, vừa mang tính hiện đại của phố phía ngoại thành cấu thành một tổng thể. Đây
phường. là một trong những chuyển đổi mang tính quy
Có thể nhận thấy, trong lịch sử phát triển, luật khách quan khi nhu cầu về quỹ đất, nhà ở và
làng nghề/phố nghề Thăng Long - Hà Nội đã mặt hàng thủ công truyền thống thay đổi: làng
có đóng góp to lớn vào sự phát triển toàn diện nghề - phố nghề - làng nghề.
Số 26 - Tháng 12 - 2018 VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
35
- VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU
Cùng với sự chuyển dịch về mặt không tạo của những người thợ làng nghề không
gian, sản phẩm của các làng nghề và phố buôn chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội
bán ở Hà Nội cũng thay đổi. Sự xuất hiện của mà còn góp phần quan trọng tạo nên tính đa
các sản phẩm thủ công truyền thống mang dạng và đặc sắc của văn hóa Thăng Long - Hà
tính chất sản phẩm du lịch trên các tuyến Nội. Những năm gần đây, các làng nghề và phố
phố cổ là một trong những nhu cầu tất yếu nghề ở Hà Nội ngày càng hấp dẫn du khách
của thị trường. Đây cũng chính hướng đi mới trong và ngoài nước thông qua sản phẩm, kỹ
cho các làng nghề ở xung quanh Hà Nội. Tuy thuật làm nghề cũng như không gian sinh tồn
nhiên, làng nghề/phố nghề ở khu vực nội đặc thù. Sự phát triển du lịch làng nghề không
đô đã không còn, hay nói cách khác, về thực chỉ thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch Thủ
chất, phường/hội thủ công tại khu vực 36 phố đô mà còn góp phần bảo tồn, phát huy những
phường cũ của Hà Nội đã tan rã, thay vào đó là giá trị văn hoá độc đáo của các làng nghề, phố
sự bắt đầu hình thành nên một trung tâm buôn nghề ở vùng đất Thủ đô nghìn năm văn hiến.
bán các mặt hàng của nghề thủ công truyền
Đ.C.T
thống. Họ buôn bán với 2 hình thức, đó là:
+ Chủ cửa hàng về làng nghề đặt mẫu sản (TS., Phó Hiệu trưởng, Trường ĐHVH HN)
phẩm theo nhu cầu của khách; + Người thợ thủ
công tự mang hàng của mình giới thiệu và đặt Tài liệu tham khảo
mối với các cửa hàng tại Hà Nội. 1. Phan Gia Bền (1957), Sơ khảo lịch sử phát
Đối với người dân sinh sống ở các làng triển thủ công nghiệp Việt Nam, Nxb. Văn Sử Địa,
nghề/phố nghề trước đây, họ vẫn thờ phụng Hà Nội.
tổ nghề tại các phường hội nhưng với một 2. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam
tâm thức khác. Đó là: + Thị dân (phường/hội nhất thống chí, tập III, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
thủ công trước đây) đã chuyển đổi hẳn về tín Nội.
ngưỡng từ thờ thành hoàng làng/tổ nghề sang
3. Vũ Huy Thúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp
tín ngưỡng thờ thần tài; + Những người dân
Việt Nam (1858 - 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
làng nghề mới lập nghiệp tại Hà Nội, vẫn có
Nội.
mối liên hệ về mặt kinh tế - nghề nghiệp với
quê cũ nên các tập tục liên quan đến dòng 4. Nguyễn Trãi (1960), Ức Trai di tập Dư địa chí,
họ, liên quan đến nghề nghiệp vẫn còn bảo Phan Huy Tiếp dịch, Nxb. Văn Sử học, Hà Nội.
lưu, nhưng hoà nhập vào đó là tín ngưỡng của 5. Dương Bá Vương (2001), Bảo tồn và phát
người đi buôn - tín ngưỡng thờ thần tài. triển các làng nghề trong quá trình công nghiệp
Như vậy, làng nghề/phố nghề Thăng Long hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Hà Nội, trải thời gian, đã có rất nhiều biến đổi 6. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam
từ không gian, nghề nghiệp, sản phẩm và tín tìm tòi suy ngẫm, Nxb. Văn hóa dân tộc và Tạp chí
ngưỡng. Vì vậy, cần phải có những nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội
sâu hơn để tìm ra những giải pháp phát triển
7. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng
văn hóa trong sự biến đổi không ngừng của
nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội, Trung tâm
Thăng Long - Hà Nội.
Triển lãm Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
Thay lời kết
Ngày nay, ta vẫn xem “36 phố phường” của Ngày nhận bài: 20 - 10 - 2018
Hà Nội là khu phố cổ. Trải qua bao biến thiên
Ngày phản biện, đánh giá: 21 - 11 - 2018
của lịch sử, dẫu tên phố thay đổi ít nhiều, dẫu
nghề nghiệp ở đó có còn hay mất, nhưng Ngày chấp nhận đăng: 25 - 12 - 2018
những nghề thủ công và các sản phẩm mà
người thợ Thăng Long làm ra sẽ mãi in đậm, ăn
sâu trong ký ức của người Hà Nội cũng như lịch
sử Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, văn hóa, những
giá trị tiêu biểu có lịch sử lâu đời và sự sáng
36 Số 26 - Tháng 12 - 2018
nguon tai.lieu . vn