Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
NHẠI (PARODY) TRONG VĂN XUÔI SINH THÁI
VIẾT VỀ NÔNG THÔN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Parody in ecological prose about contemporary rural Vietnam
TS. Trần Thị Ánh Nguyệt
Trường Đại học Duy Tân
TÓM TẮT
Văn học Việt Nam sau Đổi mới 1986 xuất hiện một khuynh hướng viết mang đến một cái nhìn khác về
nông thôn: phản lãng mạn. Một trong những hướng nghiên cứu của phê bình sinh thái là chất vấn những
diễn ngôn viết về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên như văn học điền viên, mục đồng, thôn dã,
lãng mạn.v.v. Chúng tôi nhận thấy giọng giễu nhại trở thành chủ đạo với những hợp âm của hoài nghi,
cật vấn, trào lộng, mỉa mai. Trong văn xuôi sinh thái, nhại còn như một thể loại được các nhà văn sinh
thái thể hiện để đưa ra những phản tư, để phản tỉnh con người trước các vấn đề môi sinh. Thông qua
nhại văn chương mục đồng, lối viết lãng mạn… chứng tỏ rằng văn học sinh thái Việt Nam vẫn bắt nhịp
với những xu hướng toàn cầu bằng những hình thức mới mẻ, cách tân, hiện đại.
Từ khóa: nhại, phê bình sinh thái, phản lãng mạn, văn học sinh thái Việt Nam
ABSTRACT
In Vietnamese literature after Innovation 1986, there is a trend of writing which offers a different look
at the rural region: anti-romanticism. One of the research directions of ecological criticism is to question
the discourses on the relationship between man and nature such as peasant literature, shepherds,
countryside, romance.v.v. The parody voice becomes dominant with the chords of skepticism,
questions, splendor, and sarcasm. In ecological prose, parody is used as a genre by ecological writers to
provide people with reflections on environmental issues. Through parody of shepherds, romantic
writing, it is proved that Vietnamese ecological literature still catches up with global trends in new,
innovative and modern forms.
Keywords: parody, ecocriticism, anti-romanticism, Vietnamese ecoliterature
1. Dẫn nhập nghiên cứu ngữ văn của thế kỉ XX bằng
Nhại (Parody) là một hình thức xuất hiện những tư tưởng phong phú và độc đáo. Trong
từ cổ đại tới nay (từ parodia trong tiếng Hi đó, có những nghiên cứu chuyên sâu về nhại.
Lạp cổ đại) và nhận được nhiều sự quan tâm Cốt lõi trong hệ thống tư tưởng của M.
của các nhà nghiên cứu. Nhại được hiểu là sự Bakhtin là nguyên lí đối thoại (dialogizm).
cố ý bắt chước phong cách với mục đích gây Đối thoại tạo nên giá trị của văn chương
cười. Nhại biểu hiện đa dạng cả trong âm mà biểu hiện rõ rệt nhất ở tiểu thuyết.
nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh.v.v. M. Trong tiểu thuyết, bản chất độc thoại của
Bakhtin (1895 – 1975) là người thay đổi các thể loại khác dần bị lật đổ thông qua
Email: trananhnguyet5@yahoo.com
15
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
thủ pháp đa dạng và nhại là một biện pháp (Nguyễn Thị Bình, 2012) cho rằng nhại là
có nhiều ý nghĩa để thể hiện tính đa giọng thủ pháp, giọng điệu chính của văn xuôi
đó. Theo Bakhtin, nhại là một kiểu đương đại. La Khắc Hòa khám phá những
carnaval hóa. Trong Sáng tác của Francois ý nghĩa của nhại làm nên nét riêng của
Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài trong
ông cho rằng có sự thâm nhập của văn hóa bài viết Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu
dân gian vào quyền uy “bên cạnh lễ bái hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng
trang nghiêm là (về mặt tổ chức và điệu tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị
thức) còn có các nghi lễ trào tếu, báng bổ Hoài (Lã Nguyên, 2011). Lê Huy Bắc nhận
và thóa mạ thần linh, bên cạnh những ra thủ pháp nhại đặc sắc “Bậc hiền triết –
huyền thoại trang nghiêm còn có những con chó xồm” hay “nhại” (parody) của
huyền thoại trào tếu và chửi rủa, bên cạnh Nguyễn Huy Thiệp (Lê Huy Bắc, 2012).
những anh hùng còn có những hình tượng Luận án tiến sĩ Parody/ Nhại trong tiểu
song trùng giễu nhại lại chúng” (M. thuyết Việt Nam đương đại của Phạm Thị
Bakhtin, 2003, tr.165), điều này khiến nhại Thu (Phạm Thị Thu, 2016) đã giúp người
có tính lưỡng trị, vừa phủ định vừa tái sinh. đọc có một cái nhìn bao quát về nhại trên
Trong Những vấn đề thi pháp của phương diện lí thuyết và phân tích những
Dostoyevsky, ông cho rằng nhại là nhân tố hiệu quả của nhại trong văn chương và
không thể thiếu trong mọi loại hình canaval khẳng định nhại xuất hiện phổ biến trong
hóa “phỏng nhại gắn chặt với sự thụ cảm văn học Việt Nam sau năm 1986. Bài viết
canaval về thế giới. Phỏng nhại hóa là tạo này của chúng tôi tìm hiểu nhại trên
ra sự đồng dạng bị hạ bệ, đó cũng là “thế phương diện hình thức giễu nhại gắn với
giới lộn ngược”. Vì vậy, phỏng nhại mang tiếng cười châm biếm và tinh thần hoài
tính lưỡng tính” (M. Bakhtin, 1998, nghi, đồng thời xem nhại như là một thể
tr.139). Ông phân tích lịch sử của phỏng loại mà nghệ thuật sinh thái thể nghiệm về
nhại và cho rằng cuốn tiểu thuyết vĩ đại ý thức phản tư trong thời đại khủng hoảng
nhất thế giới Donquixote của Xervantex môi trường.
“mang nhiều tính canaval nhất của văn học 2. Giọng giễu nhại với những hợp
thế giới” (M. Bakhtin, 1998, tr.140). âm của mỉa mai, hoài nghi
Khơi nguồn từ lí thuyết của M. Nhại trước hết được xem là sự cố ý bắt
Bakhtin, Nguyễn Thị Tịnh Thy cũng nhận chước một cách hài hước để châm biếm.
thấy tính chất giải cấu trúc của phê bình Nguyễn Huy Thiệp được coi là tác giả tiêu
sinh thái (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2013, biểu cho giọng điệu giễu nhại hoài nghi.
tr.25). Phê bình sinh thái truy tìm căn nguyên Ông hoài nghi giáo dục, phỉ báng văn minh
lí do khiến cho trái đất lâm vào tình trạng suy “Dạy cho trẻ con toàn thứ láo khoét” (lời
thoái hiện nay. Các nhà phê bình sinh thái cho ông giáo Hội, Chăn trâu cắt cỏ), “học vấn
rằng chính tư tưởng “duy nhân” thống trị là có điều nguy hiểm là khiến người ta có ảo
căn nguyên của mọi thảm họa môi trường. tưởng thay đổi bản thân và hoàn cảnh là
Phê phán mặt trái của tư tưởng “nhân loại là điều vốn dĩ không bao giờ làm được” (lời
trung tâm” là đặc điểm trọng tâm của khuynh thầy giáo Doanh, Những người muôn năm
hướng văn học này. Nguyễn Thị Bình trong cũ)… vì đó là những điều khiến cho con
chuyên luận Văn xuôi Việt Nam sau 1975 người trở nên hám lợi, nguồn gốc của tham
16
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
vọng, quyền lực, dối trá, hư hỏng. Như vậy, kẹo cũng đố thổi được sáo. Đòi khê với chả
điều đó cũng khiến cho con người rời xa cháy cơ!”. Những sự thật trần trụi của xóm
bản tính tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng Chùa được Đoàn Lê viết bằng một giọng
quê, Chăn trâu cắt cỏ, Sống dễ lắm, Những mỉa mai, giễu cợt và chua chát A tourisme
người muôn năm cũ… của Nguyễn Huy xóm Chùa, Thành Hoàng làng xổ số, Nghĩa
Thiệp đi ra ngoài diễn ngôn lãng mạn, từ bỏ địa xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, Người
cách nhìn thẩm mĩ hóa thôn dã. Nông thôn khách đêm giao thừa, Sex, Đất xóm Chùa,
đã vĩnh viễn mất đi bình an, nhân vật chia Xóm Chùa thời ung thư… đã nhận chân xã
tay cái thanh thản của những ảo tưởng hội Việt Nam đương đại bằng niềm âu lo
truyền thống, đối diện với đói nghèo, vất vả, khắc khoải khi đối diện với đô thị hóa.
bất an, buồn chán.v.v. Thiềm, một giáo viên Người nông dân li hương ngay chính trên
tự nguyện lên miền núi dạy học nhìn cảnh mảnh đất của mình. Đất đai sản xuất trở
vật đúng như trong văn chương điền viên thành các khu công nghiệp. Mất đất sản
mô tả “Khi chiều về, tiếng mõ trâu lốc cốc xuất, người nông dân trở nên bơ vơ, trở
khua vang ở dưới chân núi xa xôi, lẫn lộn thành tha nhân trên mảnh ruộng quê
với khói lam chiều” nhưng trước khung hương. Nhiều căn bệnh ung thư phát sinh vì
cảnh ấy, anh chỉ cảm thấy “cuộc sống ở khu công nghiệp xây dựng trong khu vực dân
xóm núi trôi đi đơn điệu, buồn tẻ” (Những cư. Chưa kể, khi giải tỏa, đất như một tài sản
người muôn năm cũ); Ông Trụ, một cán bộ có giá trị kinh tế dẫn tới cha con, vợ chồng,
giữ trạm thủy văn nhìn sương phủ trên sông anh em tranh giành, đối xử tàn nhẫn, đâm
Đà bằng cách giễu về những hình ảnh đã chém lẫn nhau, không nhìn mặt nhau. Làn
thành cổ điển của thơ sơn thủy: “Làn sương sóng “mưa Âu gió Mĩ” làm đổi thay xã hội
khói lảng vảng lướt trên mặt sông chờn vờn nông nghiệp cổ truyền ngày xưa từng được
như ma quỷ nhập làm hoa cả mắt. Đây là Vũ Trọng Phụng viết thành một chuỗi cười
thứ sương khói mà trong thơ Đường Bạch dài trong cuốn tiểu thuyết xuất sắc Số Đỏ
Cư Dị gọi là “yên ba sầu sát nhân” (Như thì nay trong các tác phẩm của mình, Đoàn
sương như khói bay). Ngay cả cách đặt tên Lê đã phản ánh thực tế làn sóng lấy chồng
truyện: “giả sơn thủy” (Như sương như khói ngoại quốc biến đổi các cô thôn nữ trở
bay), “giả mục đồng” (Chăn trâu cắt cỏ), thành những Tú Bà thời hiện đại. Trong
“nhại lãng mạn” (Những người muôn năm Trinh tiết xóm Chùa, bà cho thấy hậu quả
cũ), Nguyễn Huy Thiệp phản biện lại thói của đường dây mại dâm quốc tế dưới vỏ bọc
quen về một không gian thôn dã mĩ lệ, lấy chồng ngoại quốc, du lịch sinh thái là khi
thanh thản để nhận thức về một thực tại tẻ thanh niên xóm Chùa “khám nghĩa vụ quân
nhạt, nỗi cô độc không nơi nương náu của sự mới phát hiện có đến phân nửa thanh niên
tâm thức hiện đại. dương tính với HIV”. Sau 1986, xã hội đi
Tiếp nối cách giễu nhại của Nguyễn vào quỹ đạo phát triển kinh tế, bắt đầu tăng
Huy Thiệp, có thể kể đến Đoàn Lê. Chốn tốc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó
sơn khê đâu còn là nơi ở ẩn, chỗ lánh đời kéo theo sự đổi thay của nhịp điệu cuộc
“dùng bếp dầu, bếp than tổ ong để cướp thời sống, phong tục, xã hội. Trước những biến
gian, hỏi bói đâu ra làn khói thơ mộng bảng đổi ấy, nghệ sĩ ưu tư phản kháng trước tình
lảng vương vít trên mái rạ? Và lũ trẻ trâu trạng thương mại hóa ngày càng cao, phản
chọi ở đây nghịch hơn lũ giặc… dẫu cho ăn ứng lại với những ô hợp đô thị, rất nhiều tác
17
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
giả đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa con diện, phồn tạp. Đoàn Lê đã chạm đến
người và tự nhiên trong thời đại kinh tế thị những vấn đề thời sự đương đại của nền
trường phát triển mạnh. Tinh thần ấy được kinh tế thị trường bằng một phong cách
thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ thị dân hiện đại với giọng giễu nhại, lạnh lùng,
nhiều kiểu loại như ở hội hè carnaval. chua chát, sắc cạnh có phần đanh đá, chao
Nhiều tổ hợp từ suồng sã của đời sống hiện chát. Giễu nhại do đó là tiếng cười đầy xót
đại, tiếng lóng văng tục vỉa hè “Thế nhưng xa để chia tay những ảo tưởng về đời sống
con Khờ dám đung đưa háng với bộ váy xẻ của tác phẩm viết về thôn dã.
ngược xẻ xuôi, để lộ đến tận khúc đùi nõn Đi qua đồng chiều (Sương Nguyệt
nà, đập cửa sổ ô tô đánh sầm, rồi điềm Minh) giễu nhại lại hành trình trở về nông
nhiên lắc mông đi vào làng (…) Cha con thôn trong văn học truyền thống. Thăng là
đĩ, thôn triều phục nó coi chẳng khác gì một chàng thanh niên Việt Kiều từ Úc về
cửa hàng Karaôkê nhà nó à!”, “tiên nhân quê thăm người bác họ. Nhưng không như
nó! Nó cho mỗi người một tờ tiền âm phủ kì vọng của bố, về quê để nhận ra gốc gác,
đây này”, “nhát tao cho “năm hìu” đánh để học những bài học thôn quê, hành trình
con đề số không bảy” (Trinh tiết xóm của Thăng không hề làm nhân vật chính
Chùa), Dự án “ngon” thế, không “ăn” được thay đổi mà chỉ làm sâu sắc hơn chênh lệch
thì chết cho xong… (Đất xóm Chùa); chêm giữa nông thôn và thành thị. Câu nói cửa
xen từ nước ngoài “Mặt trận cấm chỉ việc miệng của Thăng “Người nhà quê hay
để những tệ nạn xã hội bồng bế nhau về đất nhỉ?” trước cảnh vật, sinh hoạt nơi thôn dã
xóm Chùa “ăn theo” cái tua-rít-sì-mờ” (A là cái nhìn của kẻ khác, đứng từ vị thế của
tourisme xóm Chùa), “và để giúp thánh người bên ngoài. Vẻ đẹp thôn dã của cô gái
thần của mẹ, con xin cung cấp mọi thông nông thôn được miêu tả cũng tước khỏi cái
tin về chất beta endorphin ma túy nội sinh nhìn lãng mạn, chỉ còn là một sự mỉa mai:
lẫn ma túy ngoại sinh, điểm cảm thụ tập “Bạn chị xinh nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con
trung MUY trong tế bào thần kinh, vân vân gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi
và vân vân” (Mẹ, con và thánh thần); thậm dọc dừa. Mắt như mắt nai. Xinh lắm!
chí cách đặt tên nhân vật cũng đầy hàm ý Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu
mai mỉa “Nay Khờ lấy tên họ Tàu, gọi là một sự tù đọng”. Cái Hương hỏi: “Thăng
cô Lầy Lầy, chả biết lầy lội đẹp hơn khờ nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng
khạo chỗ nào”, Sĩ Thái sư, Lão Tí Nghệch à?” “Không. Em thấy ở trong vườn bách
(Trinh tiết xóm Chùa).v.v. Tính carnaval thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con
hóa qua ngôn ngữ chợ búa, hổ lốn, suồng nai đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?”.
sã lột tả sống động tính đa tạp của không Thậm chí, mái tóc gội đầu thơm hương
gian nông thôn hiện tại đã tiêu tán theo cơn bưởi được ca ngợi trong văn thơ lãng mạn
gió đô thị hóa và ảnh hưởng của áp lực cũng chỉ được cảm nhận bằng một thái độ
kinh tế thị trường. Tính chất lưỡng trị vừa thờ ơ, hiếu kì. Vậy nên, hành trình của
trang nghiêm vừa cười cợt, vừa nghiêm túc Thăng không phải là một hành trình lí
vừa buồn cười của hình thức canaval đã hạ tưởng trở về thôn dã để trưởng thành mà
bệ những gì tưởng như trang nghiêm, mực hành trình của một kẻ thành phố kênh kiệu,
thước thành ra phóng túng, đôi khi thô tục hời hợt về nông thôn với những định kiến
để phản ánh cuộc sống ngổn ngang, đa về một vùng nông thôn dã man, tăm tối và
18
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
thất học mông muội lạc hậu cần khai hóa. hóm hỉnh, pha chút giễu cợt cũng thể hiện
Giọng điệu giễu nhại với đặc trưng âu lo về sự xâm lấn của các sản phẩm văn
hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự hóa đô thị với nông thôn (Lambada quê
phản tỉnh và liên văn bản trở thành đặc ta). Một loạt tranh biếm họa trên báo Tuổi
trưng nổi bật của văn xuôi sinh thái sau trẻ cười về hiện tượng cá chết trên biển
năm 1975. Giễu nhại là cách để gây ra hiệu miền Trung, hay cách chế giễu việc phá
ứng ngược. Nó mang hai nghĩa. Hai nghĩa rừng phòng hộ để xây dựng sân gofl phục
đó đối chọi nhau, tranh cãi nhau. Điều đó, vụ cho cuộc thi hoa hậu Trái đất… đã tấn
giúp thoát khỏi tính độc thoại của sử thi, công một cách trực diện vào sự bất hợp lí
đạt đến tính đối thoại đầy tinh thần hiện trong cách đối xử với môi trường. Jeff
đại. Vậy, việc sử dụng hình thức nhại Hong mượn hai nhân vật hoạt hình nổi
khiến đối thoại trở nên mạnh mẽ, giọng tiếng của Disney (Hoa Mộc Lan bịt khẩu
điệu, do vậy trở nên đa âm, đa thanh. Giễu trang đi dạo giữa đường phố đầy bụi, Nàng
nhại khiến người đọc nhận ra cái “bất ổn” tiên cá nổi lên giữa vùng biển đầy vết dầu
ở đáy sâu của hiện thực đời sống. Thực loang) để đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ
chất, giễu nhại thể hiện một thái độ hoài về thảm họa sinh thái (Theo Đậu Dung,
nghi sâu sắc. Tác giả nhận ra cần phải kiến 2019). Những họa phẩm đầy chất nghịch dị
lập một điều gì khác với cái đổ vỡ của mối của họa sĩ Lê Minh Phong (Hóc, Tiếng hót
quan hệ trong hiện tại nhưng có lẽ chưa cuối cùng, Sông này không phải là sông,
thấy nên tấn công vào cái tồn tại hiện hữu Cha tôi, Ăn một tiếng hót…) là những ám
bằng thái độ phỏng nhại, mỉa mai những gợi sâu xa cho những ý niệm về môi
giá trị cũ. Niềm khắc khoải của Nguyễn trường mà hội họa, một loại hình nghệ
Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Đoàn thuật vừa mang tính trực giác vừa giàu ý vị
Lê... là cách phản ứng lại với thực tại cay triết lí với những liên tưởng triết học mang
đắng, u ám, cuộc sống kĩ trị đang xâm đến cho độc giả. Nếu như tính trực giác của
chiếm và ngự trị. Chính áp lực của xã hội nghệ thuật sinh thái mang đến những thông
thị trường, cộng hưởng với dư âm chiến điệp mạnh mẽ, trực diện thì nhại trong văn
tranh đã khiến con người đang cảm thấy học đưa đến những liên tưởng, tưởng tượng
bất an, mất mát và hoài nghi. đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ.
3. Phản lãng mạn - Nhại như một thể Nhại khiến văn học có khả năng du
loại nhập vào nó nhiều hình thức ngôn ngữ.
Ở một cấp độ khác, như quan điểm của Nhại không chỉ dừng lại ở nhái phong cách
Hutcheon “Nhại có thể là một thể loại hơn của một tác giả, sử dụng giọng châm biếm,
là một kĩ thuật” (Dẫn theo Phạm Thị Thu, hoài nghi mà còn nhại thể loại “Thể loại là
2016, tr 16). Hình thức này có thể thấy rõ ở một nguyên tắc giao tiếp giữa tác giả và
nghệ thuật sinh thái (eco-art) với những tác người đọc, khi làm chiến lược này biến
phẩm tác động mạnh mẽ vào giác quan để dạng sẽ tạo ra nhại thể loại” (Phạm Thị
tỉnh thức về những tác động của con người Thu, 2016, tr 104). Ví dụ Don Quijote của
lên môi sinh. Nhiều nghệ sĩ sinh thái đã nói Cervantes là một tác phẩm nhại thể loại
lên niềm ưu tư với khủng hoảng sinh thái tiểu thuyết hiệp sĩ xuất sắc được ưa chuộng
thời hiện đại bằng lối thể hiện “nhại” lại của Tây Âu thời trung đại, chế giễu những
các mô thức truyền thống. Trần Tiến dù tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu đã trở
19
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
nên lỗi thời, cứng nhắc và tầm thường. Văn Giễu nhại văn chương mục đồng là sự
học Việt Nam sau đổi mới đã chứng kiến chất vấn về cách nhìn có phần lí tưởng hóa
nhiều tác phẩm nhại của Phạm Thị Hoài, về không gian thôn quê đẹp đẽ, nhàn tản,
Hồ Anh Thái, Thuận, Tạ Duy Anh, yên bình. Trong Chăn trâu cắt cỏ (Nguyễn
Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp, Huy Thiệp), trước hết, tên truyện dễ khiến
Đoàn Lê… khiến cho nhại trở thành một người đọc liên tưởng đến hình tượng đẹp
phương thức rộng rãi. Tuy nhiên, viết về đẽ về thôn dã thanh bình: Mục đồng thổi
nông thôn, văn xuôi sinh thái Việt Nam sáo trâu về hết/ Cò trắng từng đôi lượn
đương đại xuất hiện những hình thức nhại xuống đồng (Thiên Trường vãn vọng, Trần
làm biến dạng những thể loại mục đồng, Nhân Tông), kì thực, Nguyễn Huy Thiệp
điền viên hay lãng mạn với ý hướng phản đang giễu lại nó. Thứ hai là “phản lãng
mục đồng, giải huyền thoại, phản lãng mạn” qua việc tránh miêu tả cảm xúc:
mạn.v.v. “Năng không nghĩ ngợi, không xét đoán”,
Viết về nông thôn, văn học truyền “Năng thấy lòng mình trống rỗng”. Thứ ba
thống thường nghiêng về lí tưởng hóa, là “chống mĩ hóa”: đối diện với cảnh vật
thẩm mĩ hóa là nơi yên bình để lánh trú hay “Năng không biết ở đây cảnh đẹp hay
chốn chân quê hiền hòa mà khi thất vọng không đẹp”. Không cảm xúc như là một
về thế sự (trong thơ điền viên) hay mệt mỏi phản ứng với truyền thống văn chương
chốn phồn hoa (trong văn học lãng mạn) thôn dã để bước vào địa hạt gồ ghề của đời
khiến con người muốn trở về. Nhưng đã có sống với hiện thực trần trụi như dòng đời
những cách viết xuất hiện sự hoài nghi diễn thản nhiên vốn vậy “Tiền điện tháng này
ngôn lãng mạn về nông thôn. Phản đề về của nhà hết 28 ngàn đồng. Tiền lễ Thánh
khuynh hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa mỗi nhà 5 ngàn đồng. Tiền tiêm chó 3 ngàn
nông thôn, vùng hẻo lánh, Henry David đồng. Cả thảy 36 ngàn đồng”. Không đủ
Thoreau cho rằng “văn học đồng quê thực tiền để đóng các loại phí, người mẹ phải
chất chỉ là sự khắc họa về thôn quê của bán con gà ri để trả. Nông thôn do vậy hiện
những người ngồi trong cánh cửa sổ phòng lên với những nhọc nhằn lo toan. Nhiều tác
khách để nhìn ra” (H. D. Thoreau, 2016, phẩm sau năm 1986 phá bỏ những diễn
tr 15). Terry Gifford dựa vào mô hình 3 lớp ngôn về ý niệm miền thôn dã ấy, đưa người
của kịch đồng quê: đồng quê (pastoral), đọc đối mặt với làng quê nhọc nhằn, gánh
phản đồng quê (anti-pastoral) và hậu đồng lên đó tất cả những cay cực của nghèo khó.
quê (post-pastoral) để nhìn lại về văn học Heo may gió lộng của Ma Văn Kháng cũng
đồng quê. Ông cho rằng thực chất của cái hé lộ cho người đọc về một nông thôn đói
nhìn về nông thôn trong văn học thôn dã nghèo, thất học, tăm tối qua hình ảnh người
truyền thống chủ yếu là đã lí tưởng hóa, chị gái của Đoan. Cứ mỗi năm, khi heo
che đậy đời sống khó khăn vất vả. Gifford may gió lộng là lúc nông nhàn, bác Thảo,
cho rằng truyền thống văn học đồng quê chị gái Đoan lại thường lên thành phố chơi
chỉ là “những kiến tạo lí tưởng hóa, làm sai với gia đình em trai. Những món quà quê
lệch đời sống nông thôn thông qua việc che như cân nếp, đậu xanh, bánh đa thái, bột
đậy cuộc sống lao động thực tế và đời sống sắn dây… khiến người thành phố ảo tưởng
khó khăn vất vả chốn thôn quê” (Terry về một gia đình sung túc “tao cho về quê
Gifford, 1999, tr 84-85). bác ấy hẳn một tháng mà chơi. Mà ăn bánh
20
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
đa thái mỏng với gạo mới cho nó sướng. học về bị ô tô cán chết. Ô tô - sản phẩm của
Về đúng vụ gặt mà xem. Trong nhà, ngoài văn minh công nghiệp như là một biểu tượng
sân, trên trời dưới đất, đâu cũng thóc. Cơ của đô thị giết chết những giá trị của thôn
man là thóc. Ngao ngán là thóc. Ngồi trên quê. Đô thị hóa làm thay đổi nông thôn,
thóc, ngủ trên tiền. Thật là vô sự, vô sách nhưng sự nhộn nhạo đô thành cũng khiến
mà vô lo vô lự, sướng cả đời Bác mày giàu, cho cái bình lặng ngàn đời bị phá vỡ. Cơn
giàu lắm”. Tất cả những cảm giác ấy che gió đô thị hóa lướt qua vùng miền núi trong
đậy một cuộc sống đầy vất vả của nông tiểu thuyết Bóng của cây sồi (Đỗ Bích Thúy)
thôn qua giấc mơ đứt nối của người bác. khiến người đọc không khỏi âu lo cho tình
Cuộc sống nặng nề ấy đã biến cô gái thành trạng người nông dân rời bỏ đất đai, rời bỏ
phố xinh đẹp thành một bà lão “Sau hai mối gắn kết với những giá trị của nông thôn
năm không gặp lại, giờ đây, ngồi đối diện để chạy theo những ảo vọng đô thành phù
với Đoan không còn là người chị gái tươi phiếm. Tiểu thuyết viết về một dự án sẽ được
đẹp, óng ả năm xưa. Trước mặt Đoan là xây dựng ở một vùng cao. Dự án ấy làm đổi
một hình hài khác, một kiếp phận khác, thay nhiều phong tục miền núi đẹp đẽ.
một tâm trạng khác. Trước mắt Đoan là Những người nông dân gắn với đất trở nên
một bà lão nhà quê còm cõi, mệt mỏi và biếng nhác, không chịu làm lụng, chỉ chăm
bất an. Trước mắt Đoan là thân xác và tinh chăm bán đất để tiêu pha, quanh quẩn ở quán
thần của một đời sống lao lực, quá sức và rượu thịt chó. Đồng tiền cũng khiến những
triền miên trong dày vò, cắn rứt, tuy cố cô sơn nữ biếng lười không vào rừng để
nhẫn nhịn mà vẫn tiết ra xung quanh một kiếm lá dong gói bánh, những phong tục
nỗi buồn hiu hắt”. miền núi dần mai một. Thậm chí, có nhân vật
Xu hướng giải huyền thoại về nông còn quật mồ mả ông bà lên để bán đất. Tiểu
thôn trong văn xuôi đương đại biểu hiện thuyết đặt ra vấn đề nhức buốt của việc con
qua cốt truyện trở về. Nguyện (Thung Lam, người trở nên mất gốc rễ như thế nào trước
Hồ Thị Ngọc Hoài) trở về, nằm cảm nghe cái sự xâm thực của thị thành. Trong cốt truyện
không gian xưa cũ của gia đình trong căn trở về thôn quê đương đại, các nhân vật nhận
nhà xưa để thức nhận rằng mỗi lần đi xa trở ra cái vĩnh viễn mất đi của nông thôn.
về quê lại mất đi một thứ: mất cha, mất mẹ, Đoàn Lê đã bóc trần cái yên bình giả tạo của
mất nhà và mất gốc. Cô đã mất dần từng thứ làng quê, lôi ra ánh sáng ảo tưởng về một
một cho đến hết. Những tác phẩm ấy là làng quê thanh bình nhàn tản: chẳng thể nào
những trang viết “giải huyền thoại” về nông còn chốn ẩn dật mà chỉ là nơi ô hợp, lọc lừa,
thôn, đầy day dứt về những vẻ đẹp đã tiêu đầy bạo lực (Chốn sơn khê), xóm Chùa đã bị
vong, chỉ còn nằm trong miền kí ức, và đối khuấy đảo bởi sức nặng của đồng tiền (A
mặt với một nông thôn cơ cực, đói nghèo, tourism xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa...).
thất học, bất an, bị xâm lấn bởi những sản Đối với Quyên (Thương nhớ đồng quê,
phẩm ô hợp của đô thị. Thầy giáo Triệu Nguyễn Huy Thiệp), đối với Tuấn (Trở về,
(Thương nhớ đồng quê, Nguyễn Huy Thiệp) Đặng Nhật Minh) như là cuộc chia tay buồn
ngậm ngùi “Người thành phố đầu độc nông bã vô tận với giấc mơ đã mất, nông thôn
thôn bằng những lạc thú vật chất”. Làng quê không còn trong trẻo như trong kí ức.
không còn là nơi yên bình nữa khi những cô Văn xuôi sau năm 1975 thể hiện một
thôn nữ (hai cô bé dễ thương Minh và Mỵ) đi phương thức “phản lãng mạn” về cuộc
21
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
sống thôn quê. Nhiều tác phẩm đã đưa đến khèn sáo réo rắt nổi lên, rượu vít cong cần,
một thái độ chất vấn lại những ý niệm về trai gái nắm tay nhau ù xoẹ lên cả lũ. Cô
thôn dã, miền núi, là phản đề về khuynh gái nào cũng trắng nõn trắng hồng. Cả đời
hướng lí tưởng hóa, lãng mạn hóa vùng làm bục mặt, lấy đâu mà trắng mà thơm.
nông thôn, vùng hẻo lánh. Nó đòi hỏi Tao ở vùng cao nhiều năm, chả thấy gì, chỉ
chúng ta phải có một cái nhìn thấu suốt ngửi thấy mùi cứt ngựa”. Ngoài chủ đề cơ
hơn về đời sống lao động, người nông dân bản về việc ca ngợi tình yêu đẹp thuần
và sự bóc lột của thành thị với nông thôn. khiết, sáng trong thì Phạm Duy Nghĩa đã
Đi qua đồng chiều của Sương Nguyệt khước từ cái nhìn đầy tính du lịch về miền
Minh chỉ ra nông thôn không phải là nơi lí núi, không hề lãng mạn, vui vẻ với tiếng
tưởng mà là nơi để thành thị bóc lột “Cái khèn sáo tưng bừng như người ta vẫn hình
bọn thành phố như nó chỉ muốn đè nén, áp dung về Tây Bắc mà đầy khó khăn với
bức nông thôn mình… nông thôn chỉ là bãi những điều kiện sống khắc nghiệt và nỗi
rác thải, là nơi dừng chân của người thành buồn triền miên. Điều này, trước đó, cũng
phố. Người nhà quê chỉ dùng lại đồ cũ, đồ được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện thấm thía
hạng ba: Xe máy cũ, quần áo cũ, hàng hoá qua hình tượng những người giáo viên lên
chất lượng thấp đều do người thành phố dạy học ở vùng cao (Sống dễ lắm, Những
tuồn về. Họ bắt nạt sự ngu dốt của thôn người muôn năm cũ... ). Đọc các tác phẩm
quê”. Phá bỏ những ý niệm về thôn dã, về viết về miền núi của Đỗ Bích Thúy (Bóng
miền núi thanh sạch, an lành, Cơn mưa hoa của cây sồi, Ngải đắng ở trên núi, Sau
mận trắng (Phạm Duy Nghĩa) cho thấy ý những mùa trăng…), người đọc cũng nhận
niệm “miền núi cái gì cũng sạch” là sai thấy những nhọc nhằn của người lao động
lầm. Trong bữa tiệc đãi các giáo sinh hết trong sự túng quẫn của đói ăn và các điều
thời hạn dạy lớp xoá mù chữ ở Kin Chu kiện sinh thái khắc nghiệt.
Phìn, hiệu trưởng Tiến khích lệ Kiên: “Ra Trên thế giới, tiểu thuyết phiêu lưu là
trường xin lên đây mà dạy, Kiên ạ (…) Lên thể loại được yêu thích. Nhiều tác phẩm
vùng cao được thở khí sạch, ăn rau sạch, phiêu lưu như Trên sa mạc và trong rừng
ngủ gái sạch. Rượu uống mềm môi, nhai thẳm, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới,
thịt rừng mỏi răng, thỉnh thoảng được xem Người tình… được độc giả đón nhận nồng
gái Mèo, gái Mán tắm truồng, đếch cần nhiệt. Văn học Việt Nam, đề tài phiêu lưu
biết gì đến công nghệ thông tin hay chiến cũng được nhiều nhà văn theo đuổi. Ví dụ
tranh vùng Vịnh. Hề hề!”. Nhưng Thanh, Nguyễn Tuân với “chủ nghĩa xê dịch”, đi
một giáo viên sống ở vùng cao nhiều năm để trốn cái bức bối của xã hội thị dân, của
đã bóc trần những diễn ngôn mị dân về môi trường công chức tù hãm, nhạt nhẽo,
vùng cao đó của hiệu trưởng: “Kiên nó ở ganh ghét, cảm giác bức bối không thoát ra
Kin Chu Phìn nửa năm rồi, lừa nó thế nào được, phải đi để vượt thoát là tâm trạng của
được. Thịt sạch ở tít núi Rú, còn dăm mống Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt
khỉ còm đấy, ai bắn được mà ăn. Gái sạch cua.v.v. Văn học phiêu lưu gắn với phong
mà sẵn thì tao với mày đã không ế vợ”; trào phát kiến địa lí, khám phá những điều
“Camêra chõ vào chỗ nào thì chỗ ấy toàn mới lạ ở những vùng đất mới. Thế nhưng,
hoa ban trắng ngần, hoa đào đỏ thắm. Thế trong thời đại khủng hoảng môi trường, khi
rồi bất ngờ pặp pặp pừ pừ, tí tú tủ, tí tí tủ… những vẻ đẹp tự nhiên bị tàn phá nghiêm
22
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
trọng, văn học phiêu lưu đưa đến một cái trong tâm trí của bà già “nửa đêm có vạt
nhìn “phản lãng mạn” về một thực thể rừng rùng rùng trôi ra biển, trên đó có khi
thiên nhiên cỗi cằn, tàn rã và đang có nguy cả một cái xóm, người ta và chó gà”. Thực
cơ biến mất. Tiểu thuyết Sông (Nguyễn hiện dự án về kí sự sông Di Ân coi đó là
Ngọc Tư) lại là hành trình nhại tiểu thuyết cuộc ra đi mãi mãi của mình như những
phiêu lưu. Nguyễn Ngọc Tư có vẻ cũng con sông lở - đất đai, địa danh, nhà cửa,
khởi đầu Sông bằng một chuyến đi. Cuốn con người… bị đứt rời, cắt khúc, mất tích
tiểu thuyết viết về hành trình du khảo trên vào khoảng không mênh mông của dòng
sông Di. Ân, một nhân vật đồng tính, thất nước "Dân Ngã Chín không lạ gì với việc
vọng với mối tình của mình khi Tú kết mất một ai đó, một căn phòng nào đó biến
hôn; đồng thời, chán nản với công việc mất. Họ quen với việc một người ngồi cạnh
nhàn nhạt của mình và thêm vào đó là cảm mình bỗng dưng lọt tõm vào một hố sâu
giác chán chường hoang hoải đã nhận lời nào. Mọi sự biến mất đã trở nên bình
thực hiện một dự án viết về kí sự sông Di. thường, họ thò đôi đũa ra để gắp thức ăn
Ân cùng với hai người bạn săn tìm vẻ đẹp thì không thấy mâm cơm đâu nữa, họ với
trên hành trình khám phá dọc sông. Nhưng tay lấy áo mặc sau khi tắm xong thì nó
hầu như, không một trang nào viết về sự không còn ở đó, họ đứng dậy rót rượu và
trù phú hai bên sông. Không một trang nào cái ghế vẫn còn ấm hơi người lẳng lặng rơi
viết về cảm hứng chinh phục tự nhiên. xuống sông và người kia thì ngồi phịch vào
Cũng không có vẻ đẹp tráng lệ, thơ mộng. khoảng không, cũng biến mất". Khắp các
Trải nghiệm của cuộc đi là trải nghiệm của trang viết là nỗi ai hoài trước vẻ đẹp tự
sự tàn rã, cỗi cằn. Hành trình du khảo trên nhiên ngày một nhạt phai, phập phồng một
sông Di là hành trình với những người bé nỗi âu lo về những hiểm họa thiên nhiên đe
mọn, đau khổ, vất vả mưu sinh trên những dọa cuộc sống của người dân cực Nam tổ
khúc đoạn sông Di “Báo chí đếm được có quốc “Mười bảy bài báo cậu đọc được trên
đến chục cái không ở những cái làng giăng mạng nói về sạt lở đất trên một trăm cây số
giăng gần bờ này. Không đất. Không tiền. vuông từ Yên Hoa đến dốc Sương Mù”.
Không chữ. Không biết đi về đâu. Không Cách viết này cũng thật khác các nhà văn
biết chôn ở đâu. Không thịt. Không luật Nam Bộ trước đó: Sơn Nam (tập Hương
pháp...”. Mỗi bước chân mà Ân đặt đến ở rừng Cà Mau) với cảm hứng về khát vọng
những nhánh của con sông Di là những chinh phục tự nhiên, sự kiêu hùng của con
phận người trên mỗi khúc của dòng sông người trước thiên nhiên; Đoàn Giỏi (Đất
ấy. Tình trạng biến đổi khí hậu giăng mắc rừng phương Nam) với một cậu bé thành
khắp nơi. Là chỗ hạ nguồn có cái tên lạ Mù phố khám phá vùng đất hoang sơ, mới lạ,
Sa, nơi người ta sẵn sàng cho những cuộc Nguyễn Ngọc Tư ngược lại đã đưa ra nhiều
đi, tất cả đều được bỏ trong các thùng mì cảnh báo về môi trường và ảnh hưởng của
tôm “Xóm cồn nhà nào cũng thấp, phần những biến đối khí hậu đến số phận của
lớn cất bằng vật liệu tạm bợ. Cả xóm như người dân lao động. Như vậy, Nguyễn
đang dợm bỏ đi. Đồ đạc gói gém trong mấy Ngọc Tư đã phá hủy cốt truyện phiêu lưu
cái thùng mì tôm, thùng bột ngọt”. Là một cổ điển.
địa danh bất kì cách Sài Gòn 448km, mà kí Hành trình cuối cùng ở Túi, Ân nhớ về
ức về cánh rừng trôi vẫn còn mồn một cuộc hội ngộ với sông Di lần đầu tiên là
23
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
một trận lũ “thực sự ở đây là cái biển rồi”: tiếng hát nữa nếu như cô không còn trinh
“Cậu gặp sông Di lần đầu. Hung hãn một trắng), phải chịu nỗi đau thể chất cho khả
cách ráo riết, cay nghiệt. Mặt sông là cái năng huyền bí nghe tiếng hát ốc Bụt dưới
xoáy nước đỏ ngầu cuộn xiết. Không có đáy sông “Tự dưng cô gái lặng ngắt sau
bờ. Hệ thống các con sông lớn ở miền Hạ một cái rùng mình. Cọng rau chay chết
chìm trong một trận lũ lụt được cho là lớn cứng trên tay trái… người nhũn ra, bợt bạt.
nhất trong một trăm năm trở lại. Ở mái nhà Kiệt sức, cô gái vẫn cố đưa còi lên miệng
sắp chìm lút, những cánh tay đen đúa thò thổi”. Ân xót xa cho cô gái mù. Sông với
khỏi mớ ngói vẫy vẫy. Trên cái đệm cao su những hoài nghi về du lịch sinh thái: Băng
rách rã trôi qua có một em bé chừng hai Khâu - vùng núi hoang dã bị nhà nghỉ, biển
tuổi nằm như ngủ, nước săm sắp đến vành báo biến thành thương tích; Hồ Thiêng trở
tai. Nửa dưới để truồng, da xanh ngắt. Cậu thành đống rác, chỗ chị Ánh rửa chân trên
không khóc được khi ôm xác em nhỏ trên bến Lở giờ chỉ còn lều phều những rác…
tay”. Mở đầu và kết thúc hành trình du Lệ Kiều - đẹp một cách phẳng phiu, che
khảo sông Di ở Túi bằng một “Đại hồng đậy đằng sau nó là số phận nhọc nhằn của
thủy” (Ngay cả tên địa danh là “Túi” hẳn người dân bản địa. Những địa danh đẹp đẽ
có một hàm nghĩa như là hình tượng trái được ghi lại trong sách vở khi Ân đến đều
bầu trong những cơn đại hồng thủy), tiểu đã trở nên tiêu tán theo những cách khác
thuyết của Nguyễn Ngọc Tư như là một nhau. Như vậy, Sông nhại lại các hình thức
cách nhại lại Kinh Thánh, nhại lại những mang màu sắc lãng mạn, nhại các huyền
biểu tượng “đại hồng thủy” để ẩn dụ về sức thoại trong sách kí sự, nhại các hình thức
mạnh của sinh mệnh tự nhiên. Hơn nữa, du lịch sinh thái mĩ miều.v.v. Grey Garrard
trong các truyền thuyết về đại hồng thủy, trong chuyên luận Phê bình sinh thái (thuật
sau cái chết sự sống sẽ hồi sinh còn trong ngữ phê bình mới) cho rằng “những cách
tiểu thuyết Sông người đọc hồ nghi không thức chuyển nghĩa đồng quê (pastoral) và
biết các nhân vật có vượt thoát nỗi cô độc, hoang dã (wilderness) ngụ ý là không gian
chán chường không nương náu của mình thẩm mĩ du lịch” (G. Grey, 2004, tr 108).
để bơi trở lại hay họ sẽ chìm vào hư không, Ông chỉ ra rằng, dưới cái nhìn của các nhà
vô tăm tích như chị Ánh, chị San.v.v. phê bình sinh thái, văn chương thôn dã
Lần theo những địa danh lịch sử được (pastoral) là “những mô tả cố tình lảng
ghi chép trong Di lưu kí, Ân đặt chân đến tránh hay đầy hư ngụy về đời sống nông
đâu thì những huyền thoại đều được “giải thôn” (G. Grey, 2004, tr 38). Những chất
thiêng”. Ân đến khúc sông ghi về đặc sản vấn ấy đã được Nguyễn Ngọc Tư khéo léo
ốc Bụt - một loài ốc rất quý ở Đồng Nàng, đưa người đọc qua những cạm bẫy của lí
thì Ân chua chát hơn vì khi có thể nghe thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính
được tiếng hát của con ốc đó, nó bị bắt đến của phê bình sinh thái hôm nay thông qua
cạn kiệt. Cô gái nghe tiếng hát của ốc Bụt nhại phiêu lưu của Sông.
phải trả một cái giá rất lớn về mặt thể xác. Lựa chọn nhân vật chính là một người
Cô phải đánh đổi đôi mắt (năm cô chín tuổi đồng tính (Ân) không phải là sự câu khách
mắt bị mù thì cô thăm được tiếng hát của về một chủ đề thời thượng, Nguyễn Ngọc
ốc Bụt bằng cây mần gai), hạnh phúc bình Tư không khai thác về những tranh cãi
thường (cô sẽ không bao giờ nghe thấy mang tính xã hội, mà nhà văn thể hiện một
24
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
hàm ý nghệ thuật về một thế giới phi trung các thân phận tự nhiên bên lề ấy có lẽ hàm
tâm. Người đồng tính tồn tại giữa cuộc ý về một triết lí sinh thái: trong tự nhiên
sống này cũng giống như cây độc, như sấm không có sự phân cách của đẹp – xấu, có
sét, như cỏ dại… mà Xu và Bối mê cuồng. ích – không có ích, cao – thấp… tự nhiên
Tôn trọng tất cả điều đó như tôn trọng sự tồn tại như sự đa dạng muôn màu của nó
khác biệt, đa dạng của toàn bộ hành tinh. ngoài tất cả định kiến của con người “Bức
Chúng ta bắt gặp triết lí sinh thái trong ảnh của Bối nổi tiếng vì tia sét lộng lẫy ấy
cách đề xuất. Không dành cho con người đã làm cháy trụi hai chị lao công đang lấy
thế ưu trội, nhà văn đã đưa ra một cái nhìn đồ phơi trên tầng thượng. Cậu xem ảnh,
bình đẳng với tự nhiên, chỉ ra cho chúng ta nghĩ mãi không hiểu tại sao hai mạng
thấy, rằng chúng ta không công bằng với người kia không làm tia sét xấu đi. Nó vẫn
tạo vật. Do đó, phản biện lại với nhiều lí lộng lẫy, ma mị. Mình không thể ghét nó,
thuyết mĩ học cho rằng vẻ đẹp của loài vật cậu nghĩ”. Quan tâm đến những vẻ đẹp của
(con công múa, chim hót gọi bạn tình, tình tự nhiên (bị con người) thù ghét, điều ấy
mẫu tử của loài vật…) là mang tính bản nhấn mạnh quan niệm của mĩ học sinh thái
năng nên thấp hơn cái đẹp có ý thức của (eco-aesthetic) cái đẹp của tự nhiên không
con người. Theo lí thuyết phê bình sinh phụ thuộc vào lợi ích, định kiến của con
thái, trong tự nhiên không có gì là xấu. Đẹp người. Con người phân chia ra tình cảm
xấu là do con người áp đặt. Các nhân vật cao thượng, thấp hèn. Con người đem lí trí
của tiểu thuyết Sông như Xu, Bối đều hiểu vào mọi loại tình cảm, đồng thời cũng đem
được giá trị của tự nhiên. Ân có một bộ sưu luôn cả thói ích kỉ, sự ngạo mạn, tính tàn
tập những cây cỏ độc. Xu tìm đến các vẻ nhẫn… để đối xử với nhau. Điểm nhìn của
đẹp bị bỏ rơi – mải mê chụp ảnh loài hoa phê bình sinh thái (ecocriticism) chuyển từ
dại với mong muốn “Tụi này có tham vọng “con người làm trung tâm” sang “trái đất là
làm sao đại gia phải treo tấm ảnh cỏ cứt trung tâm”. Tuy nhiên, đó không phải là
heo ở phòng khách", khi thực hiện đơn đặt thái độ hạ thấp con người mà đề xuất tư
hàng bộ lịch Hoa dại. Bối có một niềm tưởng con người hài hòa với tự nhiên. Phê
đam mê cuồng si với các bức ảnh giông tố bình sinh thái yêu cầu tôn trọng bất cứ sinh
“Mùa này lang thang sẽ săn được nhiều mệnh nào (từ con người đến động vật thực
giông gió… Bối sắm sửa mọi thứ để phục vật…), coi tất cả sinh vật đều có giá trị của
vụ cho mỗi việc bắt lấy khoảnh khắc một riêng mình. Các nhà phê bình sinh thái
tia sét lóe lên, một bầu trời đen tối đầy (ecocritic) đi tìm câu trả lời và giải pháp về
thịnh nộ, một cơn lốc xoáy… Ảnh nền máy mặt tư tưởng: văn hóa xã hội quyết định
tính là một cánh đồng nghẹt thở dưới một thái độ, hành vi của con người đối với tự
đụn mây đầy nộ khí, và hai cái cây cổ thụ nhiên, thay đổi cách nhìn về tự nhiên sẽ tạo
nằm ở góc ảnh trông như đang lẩy bẩy cơ sở cho sự thay đổi trong ứng xử với tự
run”. Thậm chí khoái cảm với sự vần vũ nhiên. Như vậy, trong truyện phiêu lưu,
của trời “- Tin tôi đi, không có đứa con gái điểm hấp dẫn là các nhân vật đưa người
nào mang đến cái lạc thú khi tôi chụp được đọc đi qua những miền đất mới lạ, kì vĩ…
ảnh tia sét như rễ cây khổng lồ phóng thì các nhân vật của Sông chỉ mê cuồng
xuống cao ốc Thiên Đường. Cúc cu tôi những sinh vật tự nhiên bên lề, nhỏ bé.
phun ra ướt luôn vạt áo”. Niềm say mê với Việc giải bỏ nhân vật phiêu lưu để đưa vào
25
- SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
đó cái nhìn từ bỏ thái độ độc tôn con người thoại… ẩn dấu những hư ngụy và ảo tưởng
là trung tâm để nhận ra tiếng nói của đại tự để thức nhận về một thực tại tàn rã, cỗi
nhiên “Nội hàm căn bản của phê bình sinh cằn, khắc khoải, bất an… khi tự nhiên dần
thái là tính giải cấu trúc mạnh mẽ của nó, biến mất.
biểu hiện ở các đặc điểm lệch tâm, tản Từ chối cái nhìn lí tưởng hóa về không
quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái gian thôn dã, nhại trong văn xuôi sau năm
thiết, tính đối thoại…” (Nguyễn Thị Tịnh 1986 đã xuất hiện một khuynh hướng
Thy, 2013, tr 25). “phản lãng mạn” về nông thôn. Có thể nói,
4. Kết luận một số tác phẩm đã đem lại một cái nhìn
Nhại không chỉ dừng lại là một thủ khác, đưa văn học trở về với những góc
pháp nghệ thuật mà như là một thể loại. Ở cạnh hiện thực xù xì của đời sống, về với
đó, nhại đã lật đổ những phong cách, mặt đất nhiều âu lo, nó còn phản ánh cảm
những mẫu hình thể loại mặc định, đông quan của thời đại. Thông qua việc phá vỡ
cứng để nhại lại nó, đưa ra một cái nhìn cái nhìn phiến diện, một chiều về đời sống
phản biện sắc sảo đa chiều khơi gợi suy nông thôn, giúp chúng ta nhận chân được
nghĩ và liên tưởng. Bản thân phê bình sinh gương mặt của xã hội Việt Nam đương đại.
thái là một sự lật đổ thuyết loài người là Tinh thần “giải huyền thoại”, “phản lãng
trung tâm (anthropocentrism). Soi chiếu tư mạn” của văn xuôi viết về nông thôn cho
tưởng ấy trong sáng tác của Nguyễn Huy thấy một cuộc chia tay buồn bã với những
Thiệp, Đoàn Lê, Nguyễn Ngọc Tư, Sương giá trị đã tiêu vong trong bối cảnh nền kinh
Nguyệt Minh… người đọc nhận thấy các tế thị trường, là cái nhìn đầy phê phán vừa
tác giả đã chất vấn lại những diễn ngôn lạnh lùng, âu lo vừa khắc khoải của những
truyền thống về bản thể tự nhiên, về nông tác giả gắn tình yêu sâu đậm vào tâm hồn
thôn, về du lịch sinh thái, về những huyền đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
M. Bakhtin. (2003). Francois Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian. Lí luận và thi pháp
tiểu thuyết. Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn và dịch. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
M. Bakhtin. (1998). Những vấn đề thi pháp của Dostoyevsky. Trần Đình Sử, Lại Nguyên
Ân, Vương Trí Nhàn dịch. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Lê Huy Bắc. (2012). “Bậc hiền triết – con chó xồm” hay “nhại” (parody) của Nguyễn Huy
Thiệp, Văn học hậu hiện đại lí thuyết và tiếp nhận. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn,
tr.203-211.
Nguyễn Thị Bình. (2012). Văn xuôi Việt Nam sau 1975. Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Đậu Dung. (2019). Nghệ thuật sinh thái: Mỹ cảm về một thế giới bên miệng vực.
https://www.phunuonline.com.vn/van-hoa-giai-tri/nghe-thuat-sinh-thai-my-cam-ve-mot-
the-gioi-ben-mieng-vuc-157451/
26
- TRẦN THỊ ÁNH NGUYỆT TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Garrard G. (2004). Ecocriticism (The New Critical Idiom). London and New York:
Routledge.
Gifford T. (1999). Pastoral, Routledge, the Critical Idiom series.
Lã Nguyên. (2011). Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam
qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài,
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-
van-hoa/nhung-dau-hieu-cua-chu-nghia-hau-hien-dai-trong-van-hoc-viet-nam-qua-
sang-tac-cua-nguyen-huy-thiep-va-pham-thi-hoai
Thoureau H.D. (2016). Walden - Một mình sống trong rừng. Hiếu Tân dịch. Hà Nội: NXB
Tri thức.
Phạm Thị Thu. (2016). Parody/Nhại trong tiểu thuyết Việt nam đương đại, Luận án tiến sĩ.
Hà Nội: Đại học Sư phạm.
Nguyễn Thị Tịnh Thy. (2013). Phê bình sinh thái – nhìn từ lí thuyết giải cấu trúc, Văn học
hậu hiện đại lí thuyết và thực tiễn. Hà Nội: NXB Đại học Sư Phạm, tr.25 – 30.
Ngày nhận bài: 25/12/2019 Biên tập xong: 15/3/2020 Duyệt đăng: 20/3/2020
27
nguon tai.lieu . vn