Xem mẫu

  1. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG MÔ HÌNH DẠY HỌC KẾT HỢP (BLENDED LEARNING) TRONG DẠY HỌC ĐẠI HỌC DƯƠNG TIẾN SỸ 1,*, HÀ THỊ HƯƠNG 2 1 Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội * Email: tiensyduong@gmail.com 2 Trường Đại học Hồng Đức Tóm tắt: Dạy học với mô hình Blended-learning đang rất được quan tâm ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới. Bài báo này sẽ đề cập đến một số vấn đề lý luận liên quan đến mô hình dạy học kết hợp như khái niệm và các nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp trong dạy học. Chúng tôi đề xuất bảy nguyên tắc cần thiết khi xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp. Các nguyên tắc này có quan hệ chặt chẽ với nhau và nó sẽ chỉ đạo quá trình xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp có hiệu quả. Từ khóa: dạy học kết hợp, mô hình dạy học kết hợp, nguyên tắc xây dựng và sử dụng. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT & TT) đã tác động trực tiếp tới giáo dục. Nó không đơn giản chỉ là phương tiện truyền tải nội dung học tập mà còn góp phần cải tiến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học (HTTCDH). Trong đó, e-learning là mức độ cao nhất của việc ứng dụng CNTT & TT trong dạy - học. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, e-learning vẫn không thể thay thế vai trò chủ đạo của các hình thức DH trên lớp, máy tính vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn được phấn trắng, bảng đen cũng như hoạt động nhóm, ảnh hưởng nhóm ở trên lớp. Vì vậy, giải pháp tối ưu nhất là sử dụng mô hình dạy học kết hợp trong dạy học nói chung và đặc biệt trong giảng dạy đại học nói riêng. Bởi lẽ, ở các trường đại học trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đã chuyển từ phương thức đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ nên thời lượng học tập trên lớp so với trước đây giảm đi nhiều. Mô hình này là giải pháp hữu hiệu, phổ biến đối với hệ thống giáo dục của các nước trên thế giới; tuy nhiên, ở nước ta việc vận dụng mô hình dạy học kết hợp một cách có hiệu quả vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Phạm vi bài viết này tập trung phân tích một số khái niệm về mô hình dạy học kết hợp, từ đó đề xuất các nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp để vận dụng trong dạy học đại học có hiệu quả. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Mô hình dạy học kết hợp, nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp trong dạy học đại học. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết để thu thập thông tin và nghiên cứu phân tích, so sánh một số khái niệm về dạy học kết hợp nhằm phát hiện ra những nét độc đáo riêng và những quan niệm chung về mô hình dạy học kết hợp. Từ đó, khái quát hóa dấu hiệu chung về mô hình dạy học kết hợp làm cơ sở đề xuất các nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp để vận dụng vào quá trình dạy học ở các trường đại học có hiệu quả. 267
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ - Quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết để sắp xếp các tài liệu thu được trong quá trình phân tích thành hệ thống lôgic chặt chẽ, theo từng nội dung khoa học, từng dấu hiệu bản chất để dễ nhận biết, dễ lựa chọn và sử dụng trong việc đề xuất các nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp. Kết quả nghiên cứu lý thuyết quyết định chất lượng của bài báo, cần cho sự phân tích, lý giải các kết quả nghiên cứu, khái quát hóa và hệ thống hóa thành một hệ thống các nguyên tắc có kết cấu chặt chẽ (theo quan điểm hệ thống). Do vậy, phương pháp nghiên cứu lý thuyết được duy trì trong suốt quá trình nghiên cứu. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Một số khái niệm về dạy học kết hợp Các thuật ngữ “pha trộn học tập”, “học tập lai”, “hướng dẫn công nghệ trung gian”, “hướng dẫn web nâng cao” và “hướng dẫn chế độ hỗn hợp” thường được sử dụng thay thế cho nhau trong văn học nghiên cứu [16]. Mặc dù các khái niệm học tập tổng hợp đầu tiên được phát triển vào những năm 1960, các thuật ngữ chính thức để mô tả xuất hiện cuối những năm 1990. Một trong những ứng dụng sớm nhất của từ này xuất hiện trong một thông cáo báo chí năm 1999, trong đó Trung tâm học tập tương tác, một doanh nghiệp giáo dục tại Atlanta, thông báo rằng “Công ty hiện đang hoạt động 220 các khóa học trực tuyến, nhưng sẽ bắt đầu cung cấp chương trình học Internet của nó bằng phương pháp Blended Learning của công ty” [15]. Thuật ngữ “học tập tổng hợp” bước đầu mơ hồ, bao gồm một loạt các công nghệ và phương pháp sư phạm trong các kết hợp khác nhau (một số việc không sử dụng công nghệ nào). Năm 2006, thuật ngữ này đã trở thành cụ thể hơn với việc xuất bản Cuốn Sổ tay về Blended Learning của Bonk và Graham. Trong một báo cáo có tựa đề “Định nghĩa Blended Learning” nhà nghiên cứu Norm Friesen cho rằng, trong hình thức hiện tại của nó, học tập kết hợp “biểu thị tình trạng kết hợp internet và phương tiện truyền thông kỹ thuật số với các hình thức lớp học có yêu cầu về đồng có mặt của giáo viên và học sinh” [14, 20]. Có nhiều định nghĩa khác nhau về dạy học kết hợp, tuy nhiên, có ba cách định nghĩa được sử dụng rộng rãi [11]. (1) BL = Kết hợp các phương thức giảng dạy (hoặc cung cấp các phương tiện truyền thông) (Bersin & Associates, 2003; Orey, 2002a, 2002b; Singh và Reed, 2001; Thomson, 2002). (2) BL = Kết hợp các phương pháp giảng dạy (Driscoll, 2002; House, 2002; Rossett, 2002). (3) BL = Kết hợp hướng dẫn trực tuyến và sự hướng dẫn đối mặt (Reay, 2001; Rooney, 2003; Sands, 2002; Ward và LaBranche, 2003; Young, 2002). Trong ba định nghĩa trên, việc hiểu BL theo hai định nghĩa trước không làm rõ được bản chất đặc thù của nó, vì vậy định nghĩa thứ ba cho ta cái nhìn chính xác hơn về lịch sử xuất hiện, đó là cơ sở nền tảng cho BL, là sự kết hợp giữa môi trường học tập truyền thống và môi trường học tập trực tuyến đang ngày càng bùng nổ với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin và truyền thông đang ngày càng phát triển. Như vậy, BL là hệ thống kết hợp việc hướng dẫn mặt đối mặt với sự hướng dẫn thông qua máy tính. Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về DH kết hợp: Sloan Consotiom định nghĩa các khóa học kết hợp là những khóa học trong đó 30% đến 79% nội dung được cung cấp trực tuyến, và phần còn lại là hướng dẫn trực tiếp hoặc các phương thức không sử dụng web như sách giáo khoa [8]. Theo Barbour M. và CS, học tập kết hợp là bất cứ lúc nào một HS học ít nhất một phần tại trường và một phần thông qua học trực 268
  3. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 tuyến mà HS có thể tự chủ động về thời gian, địa điểm, cách thức, hoặc tốc độ học tập [10]. Hai khái niệm này nhấn mạnh sự kết hợp nội dung học tập, trong đó mỗi hình thức DH đảm nhiệm một phần nội dung học tập. Năm 2003, Cơ quan Đào tạo Quốc gia Australia (Australian National Authority ANTA) đã mô tả học tập kết hợp tại Australia là “sự kết hợp theo kiểu tích hợp của học tập truyền thống với các phương pháp tiếp cận trực tuyến dựa trên web” [9]. Như vậy, học tập kết hợp về bản chất vẫn là cách học theo truyền thống trong lớp học nhưng được bổ sung bằng các hoạt động và các nguồn lực trực tuyến (Downes, 2008) [12] và kết hợp công nghệ với giảng dạy trực diện theo truyền thống (Stacey và Mackey, 2009) [17]. Margareth Driscoll đưa ra bốn cách định nghĩa khác nhau, trong đó đáng chú ý nhất là cách định nghĩa: DH kết hợp là kết hợp hình thức DH dựa trên công nghệ nào đó (e.g., videotape, CD-ROM, Web-based training, film) với hình thức đào tạo truyền thống [13]. Theo Alvarez (2005), học kết hợp là “Sự kết hợp của các phương tiện truyền thông trong đào tạo như công nghệ, các hoạt động, và các loại sự kiện nhằm tạo ra một chương trình đào tạo tối ưu cho một đối tượng cụ thể”. Tác giả Victoria L. Tinio cho rằng “Học kết hợp (Blended Learning) để chỉ các mô hình học kết hợp giữa hình thức lớp học truyền thống và các giải pháp E - learning” [18]. Các khái niệm được dưa ra chủ yếu dựa trên sự kết hợp về hình thức tổ chức, nội dung và phương pháp dạy học. Mô hình dạy học kết hợp có thể được mô tả theo hình 1. Hình 1. Mô hình học kết hợp [19] Theo hình 1, người học tham gia vào quá trình học tập bằng hình thức học giáp mặt trên lớp (nhóm, cá nhân, hội nghị, hội thảo); hình thức học hợp tác qua mạng máy tính (chat, blog, online, forum) và tự học (trực tuyến – ngoại tuyến, độc lập về không gian). Với mỗi nội dung, người học được học bằng phương pháp tốt nhất, hình thức phù hợp nhất và khả năng đạt hiệu quả cao nhất. Bonk, C. J. và Graham đưa ra cách hiểu của mình về DH kết hợp và được miêu tả một cách cụ thể, hình tượng trong hình 2. “Mô hình trên cho thấy rõ quy luật, xu thế vận động và phát triển của HTTCDH trong tương lai. Với sự phát triển của CNTT, HTTCDH trực tuyến ngày càng phát triển thì nó càng kết hợp sâu sắc với HTTCDH truyền thống. Tuy nhiên, nó cũng không thể thay thế hoàn toàn lên HTTCDH truyền thống” [1]. 269
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Hiền có đưa ra một khái niệm là “Học tập hỗn hợp” để chỉ hình thức kết hợp giữa cách học truyền thống với học tập có sự hỗ trợ của công nghệ, học tập qua mạng [2]. Tác giả Nguyễn Danh Nam cũng đưa ra nhận định: Sự kết hợp giữa e-learning với lớp học truyền thống trở thành một giải pháp tốt, nó tạo thành một mô hình đào tạo gọi là “Blended Learning” [4]. Hình 2. Mô hình phát triển của các HTTCDH [11] Ta nhận thấy các cách định nghĩa khái niệm trên, các tác giả mới chỉ nói đến sự kết hợp chung chung, thậm chí mới chỉ dừng lại mức độ kết hợp bề ngoài giữa hai HTTCDH truyền thống và HTTCDH trực tuyến hoặc nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau: Kết hợp về nội dung, kết hợp về phương pháp hoặc kết hợp về HTTCDH. Hình 3. Mô hình dạy học kết hợp [3] Tóm lại, có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm DH kết hợp. Nhưng cho dù là khái niệm nào thì cũng phải nhấn mạnh bản chất QTDH bao hàm mối quan hệ có tính quy luật giữa các yếu tố cấu trúc của QTDH. Ta có thể định nghĩa khái niệm DH kết hợp như sau: “DH kết hợp là mô hình DH có sự kết hợp giữa hình thức DH truyền thống và thức dạy học e-learning, trong 270
  5. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 đó hình thức dạy học là mặt bên ngoài phản ánh mối quan hệ có tính quy luật giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương pháp dạy học” [3] (Hình 3). 3.2. Nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình dạy học kết hợp 3.2.1. Nguyên tắc bám sát mục tiêu dạy học Nguyên tắc đầu tiên khi xây dựng mô hình dạy học kết hợp là bám sát mục tiêu dạy học. Xác định mục tiêu DH có ý nghĩa to lớn đối với công tác dạy học. Việc xác định này nhằm hai chức năng gồm: Chức năng định hướng và chức năng đánh giá kết quả DH. Mục tiêu DH là mục tiêu đặt ra cho SV thực hiện, nó phải được diễn đạt ngắn gọn, cụ thể bằng những động từ dễ dàng cho phép đo được kết quả của các hành động học tập của SV. Dựa vào mục tiêu mà GV thiết kế các hoạt động học tập cho HS, định hướng cách suy nghĩ tìm tòi nội dung học tập đáp ứng yêu cầu của mục tiêu nhằm giúp SV tự lực phát hiện tri thức mới, phát triển tư duy và giáo dục nhân cách cho SV. Để quán triệt nguyên tắc này, cần tuân thủ những quy tắc viết mục tiêu bài học sau đây: - Mục tiêu phải định rõ mức độ hoàn thành công việc của HS; nghĩa là cần chỉ rõ học xong bài này SV phải đạt được cái gì, chứ không phải là trong bài này GV phải làm gì. - Mục tiêu phải nói rõ “đầu ra” của bài học chứ không phải chỉ nêu lên tiến trình bài học hay tóm tắt nội dung bài học. - Mục tiêu không đơn thuần là chủ đề bài học mà là cái đích bài học phải đạt tới. - Mỗi mục tiêu chỉ nên phản ánh một “đầu ra” để thuận tiện cho việc đánh giá kết quả bài học. Nếu bài học có nhiều mục tiêu thì nên trình bày riêng từng mục tiêu, với mức độ phải đạt về mỗi mục tiêu đó. Mỗi “đầu ra” trong mục tiêu nên được diễn đạt bằng một động từ được lựa chọn để xác định rõ mức độ SV phải đạt bằng hành động. Những động từ như “nắm được”, “hiểu được” thường thích hợp cho những mục tiêu chung. QTDH cần hình thành ở SV 3 loại mục tiêu dựa vào chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ. Để diễn đạt mục tiêu cụ thể cần chọn những động từ như gợi ý dưới đây: a. Về kiến thức - Mức biết: Nêu lên được, trình bày được, phát biểu được, kể lại được, mô tả được, chỉ ra được... - Mức hiểu: Xác định được, so sánh được, phân biệt được, phát hiện được, tóm tắt được… - Mức vận dụng: Giải thích được, chứng minh được, liên hệ được, vận dụng được… - Mức phân tích: Phân biệt được, đối chiếu, so sánh, phân tích... b. Về kỹ năng Cần chú trọng phát triển các kỹ năng tư duy; kỹ năng thực hành; kỹ năng học tập, đặc biệt tự học như: - So sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa... - Lập được, viết được, tính được, vẽ được, đo được, thực hiện được, biết cách, tổ chức được, thu thập được, phân loại được, biết làm thí nghiệm... 271
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ c. Về thái độ: Chú trọng định hướng giáo dục thái độ hành vi bằng việc xác định các hành động như: tiếp nhận, chấp nhận, tán thành, hưởng ứng, tham gia, bảo vệ, phản đối, tranh luận… Từ đó giáo dục được ở SV thế giới quan duy vật biện chứng, tình cảm, đạo đức, tác phong; giá trị và cảm xúc [7]. 3.2.2. Nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, cơ bản, khoa học của nội dung kiến thức Nội dung DH quyết định PPDH. Khi thiết kế một bài giảng, cần phải đảm bảo tính khoa học, chính xác, cơ bản của kiến thức. Căn cứ vào nội dung kiến thức đó để thiết kế các dạng câu hỏi, sơ đồ, đồ thị, bảng biểu, các hình ảnh tĩnh hoặc động, các chương trình mô phỏng,... nghĩa là phải diễn đạt nội dung kiến thức bằng các dạng ngôn ngữ khác nhau một cách chính xác để sinh viên lĩnh hội. Tính chính xác của nội dung còn thể hiện ở logic cấu trúc nội dung kiến thức. Nội dung kiến thức môn Sinh lý học Người và Động vật được thiết kế theo một trật tự logic có tính hệ thống được thể hiện rất rõ qua từng phần, từng bài, từng chương của giáo trình. Điều này không có nghĩa rằng, cấu trúc bài giảng phải giống hệt cấu trúc bài học trong bất cứ một giáo trình nào, mà chúng ta có thể sắp xếp lại logic cấu trúc sao cho phù hợp với sự phát triển của nội dung và trình độ nhận thức của SV mà vẫn đảm bảo nội dung chương trình. Do đó cần căn cứ vào đề cương chi tiết môn học và giáo trình, nghiên cứu kỹ bài học để đưa ra cấu trúc nội dung phù hợp, cơ bản. 3.2.3. Nguyên tắc đảm bảo kết hợp hướng dẫn qua internet và phương tiện truyền thông kỹ thuật số (hoặc website dạy học) với hình thức hướng dẫn học giáp mặt Mô hình dạy học kết hợp là mô hình DH có sự kết hợp giữa hình thức dạy học truyền thống và hình thức dạy học e-learning, do đó nguyên tắc đảm bảo kết hợp hướng dẫn qua internet và phương tiện truyền thông kỹ thuật số (hoặc website tự học) với hình thức hướng dẫn học giáp mặt là một nguyên tắc quan trọng, đặc trưng không thể thiếu của mô hình dạy học kết hợp. Người GV thông qua internet và phương tiện truyền thông kỹ thuật số (hoặc website dạy học) hướng dẫn cho SV cách tự học bài mới, cách sử dụng các nguồn tài nguyên… để tự lĩnh hội tri thức một cách tốt nhất. Sau quá trình học bằng website, SV sẽ được thảo luận, giải đáp các câu hỏi thắc mắc về nội dung bài học mới với sự hướng dẫn và chỉ đạo của người GV ở trên lớp học giáp mặt. Do đó, dạy học kết hợp không phải là phép cộng đơn thuần giữa dạy học e-learning và dạy học truyền thống, mà nó là mô hình hỗn hợp giữa hai HTTCDH trên, nó vừa giúp nâng cao chất lượng kiến thức vừa phát triển kỹ năng tự học của SV. 3.2.4. Nguyên tắc đảm bảo tính dễ truy cập, linh hoạt, tiện ích, tính mở của website dạy học Hệ thống bài giảng trực tuyến phải dễ đăng nhập và truy cập. Quá trình học của SV có thể diễn ra ở bất cứ thời gian nào và địa điểm nào, có thể truy cập từ nhiều thiết bị khác nhau như máy tính, điệm thoại thông minh… sử dụng các hệ điều hành và trình duyệt khác nhau và các đường truyền với băng thông khác nhau. Học liệu E – learning cần phải dễ dàng cập nhật, thuận lợi trong việc thay đổi, bổ sung, thêm bớt các dữ kiện một cách dễ dàng, có khả năng liên kết với các nguồn học liệu sẵn có trên internet một cách dễ dàng. Để đảm bảo nguyên tắc này, cần phải lựa chọn PM có nhiều ưu điểm, đặc biệt là ưu điểm về tính năng tương tác, đáp ứng được ý đồ sư phạm để thiết kế Bài giảng trực tuyến 272
  7. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 hướng dẫn học kết hợp. Nó phải cho phép thiết lập giao diện cấu trúc bài giảng hợp lý, đẹp và thân thiện, chèn các tranh ảnh tĩnh và động, các video và phim DH để qua đó truyền tải thông tin, nội dung bài học... 3.2.5. Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan, tính sư phạm và tính tương tác cao của website dạy học * Tính trực quan thể hiện ở chỗ nguồn tư liệu kỹ thuật số đảm bảo tính trực quan trong dạy - học là điều kiện quan trọng hỗ trợ cho quá trình quan sát tìm tòi phát hiện tri thức mới của SV. Nó là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức – học tập của học sinh, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn. Sinh học là một bộ môn khoa học thực nghiệm với nhiều kiến thức về cấu trục, hiện tượng, cơ chế, quá trình,... khó hoặc không thể quan sát hay thực hiện trực tiếp. Sức mạnh của CNTT cho phép thực hiện các chương trình mô phỏng nhằm rút ngắn thời gian, không gian của các đối tượng nghiên cứu, giúp SV tương tác tối đa với các chương trình mô phỏng nhằm phát huy tính tích cực tìm tòi tự chiếm lĩnh tri thức, SV dễ dàng lĩnh hội tri thức của nhân loại, đồng thời giúp GV thuận lợi phát triển các PPDH tích cực. Vì vậy, khi gia công kỹ thuật và gia công sư phạm các tư liệu kỹ thuật số cần phải đạt được các yêu cầu sau: - Hình ảnh về các đối tượng đủ lớn để SV có thể quan sát được dễ dàng. - Cụ thể hóa những kiến thức lý thuyết cơ bản, đơn giản hóa các kiến thức phức tạp để SV tiếp thu một cách đầy đủ và sâu sắc. - Gây sự chú ý, hứng thú, kích thích được sự tìm tòi, sáng tạo, phát hiện những tri thức mới. - Phát huy được tính tích cực của HS, làm nảy sinh nhu cầu nhận thức, phát triển năng lực tư duy và năng lực hành động. - Giáo dục và làm tăng lòng ham mê nghiên cứu môn học, hình thành thói quen liên hệ giữa lý thuyết và thực tế. * Tính sư phạm thể hiện ở chỗ nội dung DH phải được bố cục rõ ràng, cấu trúc hợp lý, đầy đủ phù hợp với nội dung trong giáo trình, dung lượng kiến thức phù hợp với sự phân bố thời gian, phù hợp với trình độ nhận thức của SV và thuận lợi cho GV trong quá trình tổ chức các hoạt động trên lớp, câu hỏi phù hợp không quá khó, hoặc quá dễ đối với SV. * Tính tương tác cao của website tự học thể hiện: Thứ nhất, phải đảm bảo sự tương tác tối đa giữa người học và máy. Thế mạnh đặc trưng của ứng dụng CNTT&TT vào DH là tiềm năng sư phạm và mặt kỹ thuật của công nghệ. Về tiềm năng sư phạm thì CNTT có khả năng kích thích hứng thú học tập thông qua tiếp cận ứng dụng giao tiếp. Tiếp cận này có ưu điểm nhất, vì nó có tính tương tác cao giữa người và máy trong quá trình HS tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Về mặt kỹ thuật thì CNTT là PTDH hiệu quả, vì nó có khả năng tích hợp truyền thông đa phương tiện [6]. Tích hợp truyền thông đa phương tiện: Chỉ mối quan hệ hữu cơ giữa các phương tiện (kênh) truyền tải thông tin khác nhau. DH theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện được hiểu là QTDH có sự kết hợp nhiều phương tiện truyền tải cùng một nội dung đến cho người học, và người học tiếp nhận nội dung đó cùng một lúc bằng nhiều kênh thông tin khác nhau (kênh chữ, kênh hình, kênh tiếng…) tác động đồng thời lên các giác quan của người học. Nếu QTDH chỉ có ngôn ngữ và chữ viết thì SV sẽ thấy nội dung bài học khô khan, buồn tẻ và nhàm chán dẫn đến hiệu quả dạy và học không cao [5]. 273
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ Theo nguyên tắc này, để hoàn thành nhiệm vụ học tập, SV vừa nghe, nhìn, vừa phải tư duy tìm tòi, vừa phải thao tác bằng tay với các đối tượng học tập để tự chiếm lĩnh tri thức mới. Trong quá trình thiết kế bài giảng, để đảm bảo tính tương tác cần lưu ý: - Nguồn tư liệu kỹ thuật số (ví dụ như các hình ảnh, các đoạn phim) phải phong phú, được thiết kế đẹp, rõ nét, dễ quan sát. - Cụ thể hóa được những kiến thức lý thuyết cơ bản, đơn giản hóa các kiến thức phức tạp để HS có thể tiếp thu một cách đầy đủ và sâu sắc. - Bố trí nội dung hợp lý từ đó gây được sự chú ý, kích thích được sự tìm tòi, sáng tạo, từ đó giúp HS khám phá, phát hiện và lĩnh hội những tri thức mới. - Các hoạt động tương tác được thiết kế ở mức độ tư duy phù hợp với trình độ của HS và quá trình tự học để lĩnh hội các kiến thức cơ bản, không quá khó cũng không quá, tránh gây ra tâm lý nản chí hay nhàm chán ở HS. - Về mặt kỹ thuật: cách thực hiện các hoạt động tương tác phải dễ hiểu, dễ thực hiện. Thứ hai, phải đảm bảo tính tương tác tối đa giữa SV với GV và SV với SV. Mô hình học tập b-learning hướng đến học tập cá thể đồng thời cũng nhấn mạnh ưu điểm tăng khả năng được hỗ trợ của HS từ GV và SV khác. Do vậy trong tổ chức học tập theo mô hình học tập b-learning phải đảm bảo tính tương tác tối đa giữa GV với SV và SV với SV. Trong quá trình thiết kế bài giảng, để đảm bảo tính tương tác giữa GV với SV và SV với SV cần lưu ý: - Nội dung học liệu e-learning được xây dựng phải giúp SV dễ dàng sử dụng trong quá trình học, thể hiện được mối tương tác giữa GV với SV và giữa SV với SV. - Thiết lập được phòng chat, diễn đàn. SV có thể trao đổi, nhận được sự hướng dẫn từ GV và các SV khác về các nội dung, các khó khăn trong quá trình tham gia lớp học đệm hoặc tạo các chủ đề học tập để trao đổi, thảo luận trên diễn đàn. - Trong các hoạt động của giờ học trên lớp cũng phải đảm bảo nguyên tắc này; thể hiện ở việc tăng cường hoạt động trao đổi, thảo luận để chính xác hóa kiến thức, khái quát hóa kiến thức, vận dụng kiến thức, tìm hiểu các chuyên đề giữa GV với các đối tượng SV, và giữa SV với SV. 3.2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển năng lực tự học của sinh viên Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học nói chung, là một mục tiêu quan trọng của QTDH đại học nói riêng. Bởi QTDH đại học ở nước ta hiện nay đang theo hệ thống tín chỉ, do đó số giờ tự học của SV ngoài giờ lên lớp chiếm thời lượng khá cao. Bồi dưỡng năng lực tự học là cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập. Mô hình dạy học b-learning bồi dưỡng năng lực tự học của SV thông qua hai hình thức là bồi dưỡng năng lực tự học có hướng dẫn từ xa qua giai đoạn học trực tuyến – lớp học đệm và tự học có hướng dẫn trực tiếp trong giai đoạn lên lớp (face to face). Để bồi dưỡng được năng lực tự học có hướng dẫn từ xa qua giai đoạn học trực tuyến – lớp học đệm thì nội dung học liệu và tài nguyên học tập phải được thiết kế, xây dựng và tổ chức dựa trên nền tảng hoạt động tự học. Cách thức tổ chức nội dung phù hợp với đặc điểm học tập của sinh viên. Vận dụng các mô hình hướng dẫn học để thiết kế, xây dựng hỗ trợ sinh viên tự học để nâng cao hiệu quả DH. 274
  9. BÁO CÁO KHOA HỌC HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 1 Trong giai đoạn học trên lớp, để bồi dưỡng năng lực tự học cho SV, GV phải có những hướng dẫn phù hợp, phải tổ chức các hoạt động học tập tạo hứng thú học tập, đồng thời yêu cầu SV phải biết vận dụng các kiến thức đã học, các kỹ năng tư duy để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Tất cả các nguyên tắc nêu trên là một tổ hợp các nguyên tắc có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó có các nguyên tắc chung của QTDH và các nguyên tắc đặc trưng của mô hình học tập kết hợp. 4. KẾT LUẬN Trên cơ sở phân tích một số khái niệm về mô hình dạy học kết hợp, từ đó đề ra các nguyên tắc xây dựng và sử dụng mô hình DH kết hợp, đó chính là cơ sở quan trọng, có ý nghĩa lý luận DH giúp chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và sử dụng mô hình DH kết hợp có hiệu quả. Trong bối cảnh điều kiện cơ sở vật chất tại các trường đại học ở Việt Nam ngày càng tốt hơn và yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ thì việc ứng dụng mô hình này là hoàn toàn thuận lợi. Mặc dù, đây chỉ là một trong nhiều các mô hình thiết kế dạy học, nhưng lựa chọn ứng dụng thiết kế này sẽ giúp cho hoạt động dạy học trở nên đa dạng và thú vị hơn đối với cả người dạy và người học. Đặc biệt nó sẽ giúp nâng cao ý thức, thái độ và trách nhiệm học tập ở người học, từ đó phát triển năng lực tự học cho sinh viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Tô Nguyên Cương (2012). Dạy học kết hợp - một hình thức tổ chức dạy học tất yếu của một nền giáo dục hiện đại, Tạp chí Giáo dục, Số 283 kỳ 1-4/2012, tr. 27,28,38. [2] Nguyễn Văn Hiền (2008). Tổ chức “Học tập hỗn hợp” biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng CNTT cho sinh viên trong dạy học sinh học, Tạp chí Giáo dục, số 192 năm 2008, trang 34; 43; 44. [3] Nguyễn Hồng Lĩnh (2012). Một cách hiểu về dạy học kết hợp, Tạp chí Giáo dục (284-2). [4] Nguyễn Danh Nam (2007). Các mức độ ứng dụng E - learning ở trường ĐHSP, Tạp chí Giáo dục, số 175, trang 41; 42; 43. [5] Dương Tiến Sỹ (2009). Một số vấn đề lý luận về tiếp cận DH theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện, Tạp chí Giáo dục (216), tr. 19, 52, 53. [6] Dương Tiến Sỹ (2010). Phương hướng nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT vào dạy học, Tạp chí Giáo dục, Số 235 kỳ 1-4/2010, tr. 27, 28. [7] Dương Tiến Sỹ (2012), Chương II, Bài giảng LL&PPDH Sinh học. [8] Allen E., Seaman J., & Garrett R. (2007), Blending In: The Extent and Promise of blended Education in the United States, United States. [9] Australian National Training Authority (2003), Blended Learning: learning new skills in blending. Sydney: Australian National Training Authority. [10] Barbour M., Brown R., Waters L. H., Hoey R., & Hunt J. L. (2011). Online and Blended Learning: A Survey of Policy and Practice of K-12 Schools Around the World, iNACOL [11] Bonk, C. J. & Graham, C. R. (Eds.). (in press). Handbook of blended learning: Global Perspectives, local designs, chapter 11. SanFrancisco, CA: Pfeiffer Publishing. [12] Downes, S. (2008), The Future of Online Learning: Ten Years On, In Downes, S., Half an Hour, Sunday, November 16, 2008. Moncton: Stephen Downes. [13] Driscoll M. (2002), Blended Learning: Let's Get Beyond the Hype, IBM Global Services. [14] Friesen, Norm (2012). "Report:Defining Blended Learning". https://en.wikipedia.org/wiki/Blended_learning. [15] "Interactive Learning Centers Announces Name Change to EPIC Learning". The Free Library. March 5, 1999. Retrieved October 18, 2013. Nguồn https://en.wikipedia.org/wiki/Blended_learning. 275
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ [16] Martyn, Margie (2003). "The hybrid online model: Good practice". Educause Quarterly: 18–23. Nguồn https://en.wikipedia.org/wiki/Blended_learning. [17] Stacey, E., Mackey, J. (2009), Researching blended learning practices for teachers' professional learning, Taipei, Taiwan: Quality Education Symposium 2009: Education and Research, 12-13 Jun 2009. [18] Tinio V. L (2003), ICT in Education, Nguồn Wikibooks: http://en.wikibooks.org/wiki/ICT_in_Education. [19] http://www.allconsulting.de/system/html/baf4e1a251844e221d829a1c05acd3c2 [20] https://en.wikipedia.org/wiki/Blended_learning. Title: PRINCIPLES OF CONSTRUCTING AND USING BLENDED LEARNING MODEL IN UNIVERSITY TEACHING Abstract: Teaching with Blended learning model is very interested in the USA and many other countries. This paper discusses some of the theoretical for Blended learning model as the concept and principles of building and using the Blended learning model in teaching. We suggest seven essential principles when developing and using Blended learning model. These principles are closely interrelated and will guide the process of building and using effective Blended learning models. Keywords: Blended learning, Blended learning model, Principles constructing and using. 276
nguon tai.lieu . vn