Xem mẫu

  1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI QUAN HỆ PHỔ BIẾN 1. Khái niệm về mối liên hệ: - Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những quan điểm đối lập nhau về mối liên hệ như là sự đối lập giữa quan điểm siêu hình và biện chứng, giữa quan điểm duy tâm tâm và duy vật. Quan điểm siêu hình coi thế giới là một tập hợp tình cờ của những sự vật riêng rẽ, biệt lập và tách rời. Do đó quan điểm này hoặc là không thừa nhận sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau hoặc là có thừa nhận sự liên hệ, nhưng lại xem xét chúng một cách giản đơn, hời hợt bề ngoài, cho nên không thấy được sự chuyển hóa bên trong giữa các sự vật hiện tượng với nhau. - Quan điểm biện chứng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, trong đó mọi sự vật hiện tượng đều có sự liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau. Do đó theo quan điểm này thì không có một sự vật hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, tách rời mà mọi sự vật hiện tượng đều có sự liên hệ với nhau. Quan điểm này được đánh giá là sâu sắc, toàn diện khi giải giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự liên hệ thì có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và và duy tâm. Các nhà biện chứng duy tâm coi nguồn gốc của các mlh là ý niệm, ý niệm tuyệt đối hay là cảm giác chủ quan của con người Ngược lại các nhà biện chứng duy vật (Chủ nghĩa Mác) chỉ ra rằng nguồn gốc của các mlh trong hiện thực là do tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó thì mọi sự vật hiện tượng đều kà những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, có tính vật chất hay có nguồn gốc vật chất.Vì vậy chúng đều phải chịu sự chi phối bởi các quy luật phổ biến của vật chất. Tóm lại theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm về mlh được dùng để chỉ sự tương tác qua lại, tính quy định ràng buộc lẫn nhau và sự
  2. chuyển hoá vào nhau giữa những mặt trong cùng một hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau. 2. Các tính chất của mlh Theo quan điểm biện chứng duy vật thì các mối liên hệ trong hiện thực có 3 tính chất cơ bản: Một là: Tính khách quan: Điều này nói lên rằng các mối liên hệ của hiện thực có nguồn gốc kq từ vật chất, chúng tồn tại một cách khách quan ở bên ngoài đầu óc con người và không phụ thuộc vào ý thức con người. Hai là: Tính phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng đều có mlh của mình chứ ko có 1 sự vật hiện tượng nào lại hoàn toàn cô lập, những mlh này có mặt cả trong tự nhiên. Ba là: Tính đa dạng nhiều vẻ: Điều đó nói lên rằng có vô số các kiểu loại liên hệ khác nhau đang tồn tại trong hiện thực và mỗi sự vật đều phải đồng thời tham gia và vô số các mlh ấy. Có liên hệ bên trong, có liên hệ bên ngoài trong đó những mối liên hệ bên trong đóng vai trò quyết định. Có liên hệ trực tiếp, có liên hệ gián tiếp, và chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau, có lien hệ riêng, có liên hệ chung. Trong đó những mối liên hệ chung nhất có tác động đồng thời lên mọi sự vật hiện tượng cả trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy thì được gọi là mlh phổ biến. Những mlh riêng và liên hệ đặc thù là đối tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể, còn các mlh phổ biến là đối tượng nghiên cứu của triết học. Phép biện chứng duy vật chỉ nghiên cứu về các mlh chúng bao gồm 6 mlh, còn được gọi là 6 cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật 3. Ý nghĩa pp luận - Phải quán triệt nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Trong nhận thức phải quán triệt nguyên tắc xem xét toàn diện, tức là khi xem xét 1 sự vật anò đó thì chúng ta cấn phải xem xét tất cả các mặt,
  3. các mlh khác nhau của nó, ko được bỏ sót mặt nào dù nó là ngẫu nhiên nhất. Theo Lênin chúng ta sẽ ko thể làm việc đó 1 cách hoàn toàn đầy đủ nhưng quán triệt nguyên tắc này sẽ tránh cho chúng ta khỏi sai lầm là sự cứng nhắc. Trong thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải đưa ra được những giải pháp đồng bộ để tác động làm thay đổi sự vật. - Phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và trong thực tiễn. Trongn nhận thức phải xem xét một cách lịch sử cụ thể đối với sự vật, tức là phải đặt sự vật trong những điều kiện, những hoàn cảnh cụ thể của nó để xem xét nó một cách đúng đắn tránh thái độ trừu tượng, chung chung. Trong thực tiễn quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải luôn luôn tính đến những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, từng lúc mà đưa ra những giải pháp phù hợp. 4. Nguyên lý về sự phát triển: 4.1. Khái niệm về sự phát triển: Trong lịch sử triết học trước Mác tồn tại những quan điểm đối lập nhau về sự phát triển, như là sự đối lập giữa qđ biện chứng và siêu hình, sự đối lập giữ qđ duy vật và duy tâm. - Quan điểm siêu hình về sự pt: Q điểm này hoịăc là ko thừa nhận sự vận động và phát triển vì nó coi thế giới là cái cho sẵn, cố định, bất biến. Hoặc là có thừa nhấnmự vận động phát triển nhưng lại xem xét chúng một cách giản đơn, hời hợt, bề ngoài, coi phát triển chỉ là sự tăng hay giảm thuần tuý về lượng mà ko thấy sự biến đổi về chất. Lê nin đánh giá q điểm này là phiến diện 1 chiều cứng nhắc. - Quan điểm biện chứng: Q điểm này coi phát triển là sự thống nhất giữa các mặt đối lập như là thống nhất giữa lượng và chất, thống nhất giữa liên tục và gián đoạn. Thống nhất giữa dần dần và nhảy vọt. Q điểm này đã thể hiện được tính toàn diện, tính sâu sắc. Khi giải quyết vấn đề nguồn gốc của sự phát triển thì có sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Các nhà duy tâm và tôn giáo thường lý giải nguồn gốc phát triển từ các lực lượng siêu nhiên (chúa, thượng đế...), hay từ các lực lượng tinh thần (như ý niệm, ý niệm tuyệt đối). Ngược lại các nhà biện
  4. chứng duy vật côi nguồn gốc phát triển là nguồn gốc bên trong, nguồn gốc đó chính là mâu thuẫn. * Tóm lại: Theo quan điểm biện chứng duy vật thì khái niệm phát triển thường dùng để chỉ khuynh hướng đi lên của sự vận đọng, làm cho các sự vật hiện tượng biến đổi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. 4.2. Các tính chất của sự phát triển: Theo quan điểm biện chứng duy vật sự phát triển gồm 2 tính chất cơ bản sau: Một là: tính khách quan: điều này nói lên rằng sự phát triển không phải do con người gán ghép cho sự vật, hay được áp đặt từ bên ngoài vào sự vật, mà nó có nguồn gốc khách quan từ các mâu thuẫn bên trong. Nên sự phát triển diễn ra một cách khách quan ở bên ngoài đầu óc của con người, không phụ thuộc ý thức của con người và đó l à một hiện tượng tự thân (bản thân từ sự vật hiện tượng).
nguon tai.lieu . vn