Xem mẫu

  1. Nguyễn Thị Quốc Minh Nguyễn Công Trứ trong Chương trình Ngữ văn phổ thông Nguyễn Thị Quốc Minh Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TÓM TẮT: Nguyễn Công Trứ có một vai trò và vị trí quan trọng trong văn chương Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đầu Triều Nguyễn nên hầu hết các bộ văn học sử Việt Nam đều có chương viết Số 10 -12 Đinh Tiên Hoàng, phường Đa Kao, quận 1, riêng về thơ văn của ông. Tác gia Nguyễn Công Trứ được đưa vào giảng dạy Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Email: ntquocminh1212@gmail.com trong chương trình từ Trung học cơ sở đến Trung học phổ thông, rồi đến khoa Ngữ văn bậc Đại học. Riêng ở chương trình phổ thông, Nguyễn Công Trứ được học như một trong những tác gia tiêu biểu nhất của văn học trung đại. Hiện nay, chương trình phổ thông đang dạy bài Bài ca ngất ngưởng, trong sách Ngữ văn 11 tập một, ở cả hai bộ sách cơ bản và nâng cao. Sách biên soạn đã lâu nhưng văn bản, chú giải, soạn giảng cho Bài ca ngất ngưỡng vẫn còn có một số vấn đề sai sót cần phải bổ sung, làm rõ. Bài viết trình bày về các vấn đề đó và đề xuất một số ý kiến với mong muốn biên soạn về thơ văn Nguyễn Công Trứ tốt hơn trong chương trình Ngữ văn sắp tới. TỪ KHÓA: Nguyễn Công Trứ; Bài ca ngất ngưởng; chương trình Ngữ văn; tác phẩm văn học. Nhận bài 19/11/2018 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 12/12/2018 Duyệt đăng 25/01/2019. 1. Đặt vấn đề đề cần phải giải quyết. Cho đến nay, văn bản này có bốn dị Nguyễn Công Trứ là một tác gia lớn trong lịch sử văn học bản chính, gồm: Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX. Ông vừa là một nhà nho hành Bản Nôm trong Gia phả tập biên, kí hiệu VHc 02867 động, đồng thời là tác gia tiêu biểu cho loại hình nhà nho tài (Thư viện Hán Nôm) Đoàn Lê Giang đã giới thiệu trong bài tử thời trung đại. Với Ca trù - Hát nói, ông là người đầu tiên Vấn đề văn bản “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công đưa một thể loại thuộc nghệ thuật diễn xướng nơi ca lâu tửu Trứ (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2 năm 2006), gọi tắt là quán vào văn học thành văn rồi nâng lên thành thể thơ riêng bản Gia phả tập biên; của Việt Nam mà các nước trong khu vực văn hóa chữ Hán Bản Lê Thước công bố trong Sự nghiệp văn thi văn của không có. Hát nói của Nguyễn Công Trứ không chỉ nói đến Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ. Lê Văn Tân, xuất cái tình tài tử giai nhân, mà còn đề cập đến những vấn đề bản năm 1928, gọi tắt là bản Lê Thước; trang nghiêm hơn như chí làm trai, chí anh hùng, nợ công Bản của Thái Kim Đỉnh trong  Năm thế kỉ văn Nôm người danh... đã trở thành khuôn mẫu, thành phương châm để con Nghệ,  Nhà Xuất bản Nghệ An, Vinh, năm 1994, gọi tắt là người sống và hành động. bản Thái Kim Đỉnh; Nguyễn Công Trứ có một vai trò và vị trí quan trọng trong Bản Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề công bố trong Việt văn chương đầu triều Nguyễn như thế nên hầu hết các bộ Nam ca trù biên khảo xuất bản ở Sài Gòn năm 1962 (NXB. văn học sử Việt Nam đều có chương viết riêng về thơ văn TP.Hồ Chí Minh tái bản năm 1994), gọi tắt là bản Đỗ Bằng của ông. Tác gia Nguyễn Công Trứ được đưa vào giảng dạy Đoàn. trong chương trình từ Trung học cơ sở đến Trung học phổ Văn bản Bài ca ngất ngưởng trong SGK Ngữ văn hiện thông và khoa Ngữ văn bậc Đại học. Ở chương trình phổ hành (Ngữ văn 11, tập 1, cơ bản và nâng cao) sử dụng bản thông, Nguyễn Công Trứ được học như một trong những Lê Thước, như sau: tác gia tiêu biểu nhất của văn học trung đại. Tác phẩm của Vũ trụ nội mạc phi phận sự ông trước kia có 2 bài được đưa vào sách Ngữ văn lớp 9 Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng và lớp 11 là Chí khí anh hùng và Bài ca ngất ngưởng. Sau Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông khi “giảm tải”, hiện nay chỉ còn Bài ca ngất ngưởng, trong Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng sách Ngữ văn 11 tập một, ở cả hai bộ sách cơ bản và nâng Lúc bình Tây, cờ đại tướng, cao. Sách biên soạn đã lâu nhưng văn bản, chú giải, soạn Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. giảng cho Bài ca ngất ngưỡng vẫn còn có một số vấn đề cần Đô môn giải tổ chi niên, phải bổ sung, làm rõ. Bài viết này trình bày về các vấn đề Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. đó và đề xuất một số ý kiến với mong muốn biên soạn về Kìa núi nọ phau phau mây trắng, thơ văn Nguyễn Công Trứ tốt hơn trong chương trình Ngữ Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. văn sắp tới. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. 2. Nội dung nghiên cứu Được mất dương dương người thái thượng, 2.1. Về văn bản Bài ca ngất ngưởng Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Văn bản Bài ca ngất ngưởng khá phức tạp, có nhiều vấn Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Số 13 tháng 01/2019 71
  2. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN Không Phật, không Tiên, không vướng tục. bạn bè tặng ông khi ông về hưu: “Đó là bài thơ của Ngô Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú Bỉnh Đức, Án sát sứ Hải Dương. Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Bài thơ nói rõ việc Nguyễn Công Trứ cưỡi bò ra khỏi Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Kinh đô là chuyện có thật và sự kiện đó đã gây một cú “sốc” đối với dân Kinh kì: họ đổ xô ra xem quan Phủ doãn cưỡi 2.2. Về phần giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ trong sách bò về quê” [3]. Thứ hai, việc cưỡi bò cũng diễn ra ngay tại giáo khoa kinh đô Huế trong ngày ông treo ấn từ quan, ông cưỡi bò để Trong sách giáo khoa (SGK) giới thiệu Nguyễn Công Trứ đi về quê chứ không phải khi về quê rồi mới cưỡi bò. còn khá sơ lược, chưa khái quát hết những nét tiêu biểu về Nguyễn Thanh Tùng cũng đồng quan điểm trên “Việc này sự nghiệp và tính cách, tư tưởng của ông như: coi trọng cũng diễn ra ngay tại kinh đô Huế trong ngày ông treo ấn từ công danh (công danh ở đây là công trạng và danh tiếng, quan, theo lệ trí sĩ để về quê. Hai dòng: “Đô môn giải tổ chi danh dự, chứ không phải danh lợi). Những mâu thuẫn trong niên/ Đạc ngựa, bò vàng đeo ngất ngưởng” chính là để diễn tính cách, suy nghĩ do điều kiện xã hội chi phối: ông rất tả ý đó. Dòng trên chính là trạng ngữ chỉ thời gian cho dòng coi trọng việc “lập thân dương danh” nhưng có lúc ông lại dưới với tư cách là nòng cốt” [2]. đề cao sự hưởng nhàn, hưởng lạc; ông thiết tha yêu nước, Trong bài Bài ca ngất ngưỡng - Lời thơ tuyên ngôn tác giả thương dân, ông đề xuất nhiều chính sách vì lợi ích của dân Trần Thị Băng Thanh có viết “Ngày 03 tháng 8 năm Thiệu nhưng chính ông cũng là người cầm quân đi dẹp “loạn” Trị thứ 7 (1847), khi xin về hưu ông đã làm đơn nộp trả lại nông dân... Theo chúng tôi, SGK nên có đôi dòng giới thiệu hết các bằng sắc cho triều đình và ngày “đô môn giải tổ” chỉ thêm như vậy để người học bước đầu hình dung ra con còn đọng lại duy nhất trong ông một sự kiện ngất ngưởng: người, sự nghiệp, tính cách, tư tưởng của Nguyễn Công Trứ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng...” [2]. Về cơ bản, ba được rõ ràng hơn, giúp người học dễ dàng hiểu đúng, hiểu tác giả đều thống nhất với nhau ở điểm này. Vậy nên chăng rõ tác phẩm hơn. tác giả SGK cần có sự chú thích lại cho rõ ràng và chính xác hơn, tránh gây hiểu lầm cho người học, người đọc. 2.3. Về phần chú thích và dịch nghĩa - Câu “Được mất dương dương người thái thượng” SGK - Câu “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông”, chú thích: “Người thái thượng: ý nói những người thời SGK chú thích từ “Tổng đốc Đông” như sau: “Năm 1835, thượng cổ, không quan tâm chuyện được mất” [1]. Về vấn ông giữ chức Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên). đề này, Đoàn Lê Giang có ý kiến “Chúng tôi cho rằng người Đây là hai tỉnh phía đông Hà Nội” [1]. Chú thích cho cụm tái thượng - người trên ải, lấy từ tích Tái ông thất mã phù từ này, chúng tôi thấy Nguyễn Thanh Tùng viết rõ ràng hơn. Nguyễn Thanh Tùng cũng có đề xuất: “Ở đây cần chú thích hợp hơn là thái thượng...” [3]. Nguyễn Thanh Tùng cũng thêm về Tổng đốc Đông: chỉ việc Nguyễn Công Trứ giữ có ý kiến tương tự và tác giả giải thích cụm từ “người tái chức Tổng đốc Hải Yên: Tổng đốc kiêm coi hai tỉnh Hải thượng” là dịch từ cụm “tái thượng chi nhân” trong sách Dương và Quảng Yên (tức Quảng Ninh ngày nay). Chế độ Hoài Nam Tử. coi kiêm này khá thịnh hành thời Nguyễn, chẳng hạn như: - Bản trong SGK viết: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, Tổng đốc Hà - Ninh - Thái... phường Hàn, Phú”. Câu này trong Gia phả tập biên và Đông chính là chỉ Hải Dương, vì tên thường gọi của tỉnh bản của Đỗ Bằng Đoàn viết: “Chẳng Hàn, Nhạc cũng vào Hải Dương thời Nguyễn là tỉnh Đông. Hơn nữa, trước đó, phường Mai Phúc”. Theo Đoàn Lê Giang thì văn bản Gia trấn Hải Dương còn bao gồm cả Hải Dương, Hải Phòng và phả tập biên và Đỗ Bằng Đoàn hợp lí hơn vì “ý của nó là: Quảng Ninh ngày nay. Chẳng làm được danh thần, danh tướng như Hàn Kì, Nhạc Từ thời Trần, lộ Hải Dương còn gọi là lộ Hải Đông, tên Phi thì cũng làm được danh nho và ẩn sĩ như Mai Phúc, như này vẫn thường được dùng sau đó... Như vậy, Tổng đốc vậy khá thông suốt” [3]. Đông là một chức vụ khá quan trọng, quản lĩnh một vùng Nguyễn Thanh Tùng thì phân tích “Mai Phúc đúng hơn rộng lớn, trọng yếu của đất nước” [2] vì thế mới hiệp vần tục/phúc... Hơn nữa, ở đây ông muốn - Câu “Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa bò vàng đeo nói là không phải bậc danh thần nhập thế (Hàn, Nhạc) thì ngất ngưởng”, SGK ghi “Giải tổ: cởi dây đeo ấn. Nghĩa cả cũng là danh nho xuất thế (Mai Phúc), như thế mới có ý câu: năm ở kinh đô cởi trả ấn (của quan lại) để về hưu” [1]. nhấn mạnh, tăng tiến, và cũng hợp với hoàn cảnh về trí sĩ Ở đây, theo chúng tôi, tác giả SGK nên giải thích thêm cho lúc bấy giờ của Nguyễn Công Trứ” [2]. Tuy nhiên, về mặt học sinh rõ: “Giải tổ là một thành ngữ, chỉ người bỏ quan hình thức thì câu “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Mai về nghỉ. Vi Ứng Vật có câu thơ: Giải tổ ngạo lâm viên (Bỏ Phúc” không cân đối bằng câu “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào quan về sống ngạo ở chốn vườn, rừng)”. phường Hàn, Phú” bởi Trái, Nhạc là hai người, Hàn, Phú Chú thích cho câu “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” cũng hai người, nhưng Mai Phúc thì chỉ có một. SGK viết như sau: “Tương truyền ông về hưu, thường cưỡi Đến câu kết bài: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” bò vàng có đeo nhạc ngựa; lại treo cái mo cau ở phần trên thì Lê Thước đã dùng bản thừa một chữ so với số chữ quy đuôi bò, nói là để che miệng thế gian”. Đoàn Lê Giang phân định ở câu kết. Hát nói vốn là bài hát phổ theo nhịp phách tích: thứ nhất đây là việc có thực chứ không phải chỉ là cho các cô đầu hát, là một thể thơ tương đối tự do nên số tương truyền, điều này được thể hiện rõ trong mấy bài thơ chữ trong câu không bị quy định gò bó. Tuy nhiên, câu cuối 72 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  3. Nguyễn Thị Quốc Minh thì luôn luôn phải là lục ngôn: “Thông thường, một câu có sống của giới trẻ hiện nay. bảy, tám chữ, có trường hợp một câu chỉ có ba, bốn chữ, Hay: Nếu “ngất ngưởng” là một phong cách sống thì đó có trường hợp một câu kéo dài đến mười ba mười bốn chữ. có phải là cách sống lập dị, thích thể hiện bản thân hoặc Riêng câu cuối thì bao giờ cũng phải sáu chữ cho hợp với bất chấp như một số bạn trẻ hiện nay không? nhịp phách” [3]. Đoàn Lê Giang và Nguyễn Thanh Tùng Với câu hỏi sẵn có trong SGK kết hợp với những câu hỏi đều có chung quan điểm, cả hai nhà nghiên cứu đều cho chúng tôi đề xuất hi vọng sẽ tạo ra một hệ thống câu hỏi hợp rằng câu trong bản của Đỗ Bằng Đoàn “Đời ai ngất ngưởng lí, tìm hiểu văn bản được toàn diện, đầy đủ hơn. Và quan như ông” là đúng hơn và hay hơn. Nguyễn Thanh Tùng trọng nhất là hệ thống câu hỏi đã hướng đến việc phát triển nhận xét “Một là, đáp ứng đúng cấu trúc thường thấy của năng lực, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, bài hát nói: câu cuối cùng (tức câu keo) bắt buộc đúng 6 phù hợp với tinh thần đổi mới giáo dục hiện nay. chữ. Hai là, “đời ai” rộng hơn “trong triều”. Hơn nữa, lúc này Nguyễn Công Trứ đã “giải tổ”, cưỡi bò vàng mà về quê 2.5. Cần đưa thêm tác phẩm Nguyễn Công Trứ vào chương hương, nơi “phau phau mây trắng” ông còn lưu luyến gì trình mới triều đình mà còn phải nói “trong triều”. Trong chương trình Quốc văn ở Trung học phổ thông từ Câu cuối: “Đời ai...” mới ứng hợp với câu đầu tiên “Vũ trước 1975, tác phẩm của Nguyễn Công Trứ được tuyển rất trụ nội mạc phi phận sự”. Nguyễn Công Trứ nói đến cả cuộc nhiều. Cụ thể, theo thống kê của Nguyễn Công Lý [4], SGK đời ngất ngưởng của ông chứ đâu chỉ nói chuyện “trong Giảng văn lớp 9 có 28 bài (vừa giảng bình vừa đọc thêm): triều” và ở đây, ông đâu chỉ ngông, chỉ ngạo với “trong Đi thi tự vịnh, Vịnh cảnh nghèo, Quân tử cố cùng, Hội gió triều” mà rộng hơn là với đời. Đó mới là bản lĩnh Nguyễn mây, Thú điền viên, Thú ẩn dật, Tự thuật, Vịnh cây cau, Công Trứ...” [2]. Vịnh cây thông, Vịnh cây vông, Vịnh trống đại cổ, Luận kẻ sĩ, Chí nam nhi, Nợ tang bồng, Nợ công danh, Thế tình đen 2.4. Về câu hỏi hướng dẫn học bài bạc, Khuyên người đời, Trò chơi, Vinh nhục, Cảm tưởng Câu hỏi hướng dẫn học bài cho văn bản Bài ca ngất ngày tháng thanh nhàn,Thoát vòng danh lợi, Hành tàng, ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong SGK hiện hành có bốn Thú thanh nhàn, Vịnh cảnh già, Vô cầu, Vịnh mùa đông, câu, cụ thể như sau: Chí làm trai, Cầm kì thi tửu (khảo sát bộ sách của Thẩm Câu 1: Trong Bài ca ngất ngưởng, từ “ngất ngưởng” Thệ Hà, Xuân Tước, Bằng Giang. Sống Mới xuất bản, Sài được sử dụng mấy lần? Anh (chị) hãy xác định nghĩa của từ Gòn, 1974). “ngất ngưởng” qua các văn cảnh sử dụng đó. Trong SGK Giảng văn lớp 11 có 30 bài: Thế tình đối với Câu 2: Dựa vào văn bản Bài ca ngất ngưởng, anh (chị) cảnh nghèo, Vịnh cảnh nghèo, Quân tử cố cùng, Hội gió hãy giải thích vì sao Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm mây, Thú điền viên, Thú ẩn dật, Muộn thành đạt, Hàn nho quan là gò bó, mất tự do (vào lồng) nhưng vẫn ra làm quan. phong vị thú, Chí làm trai, Nợ nam nhi, Luận kẻ sĩ, Nợ tang Câu 3: Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. bồng, Nợ công danh... Trong đó, có nhiều bài trùng nhau, Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất đã có trong chương trình lớp 9 rồi lại đưa vào chương trình ngưởng của mình như thế nào? 11 (khảo sát bộ sách của Thẩm Thệ Hà, Xuân Tước, Bằng Câu 4: Đọc diễn cảm bài hát nói này. Hãy chỉ ra những Giang. Sống Mới xuất bản, 1974). nét tự do của thể tài hát nói so với thơ Đường luật và cho Việc chương trình Quốc văn ở Miền Nam trước năm 1975 biết ý nghĩa của tính chất tự do đó. chọn nhiều bài của Nguyễn Công Trứ, để sau năm 1975 - Ở câu 1, theo chúng tôi, để tránh áp đặt, tác giả SGK đã từng có ý kiến rất thiếu khách quan như thế này: “Ở có thể nêu câu hỏi gợi mở định hướng cho việc phân tích, con người Nguyễn Công Trứ có nhiều yếu tố tiêu cực để chẳng hạn như: Theo anh (chị) từ “ngất ngưởng” diễn tả cho chủ nghĩa thực dân mới lợi dụng, khai thác triệt để”, một tư thế nào của con người? Trong Bài ca ngất ngưởng, chọn nhiều bài thơ của Nguyễn Công Trứ là “nhằm phục từ “ngất ngưởng” được sử dụng mấy lần? Mỗi từ “ngất vụ những ý đồ đen tối của văn hóa thực dân mới” (Nguyễn ngưởng” gắn với giai đoạn nào trong cuộc đời nhà thơ, thể Phan Quang, Nguyễn Danh Phiệt, Vài ý kiến về nhân vật hiện ở đoạn thơ nào trong bài? Nguyễn Công Trứ) [5]. - Trong các câu hỏi hướng dẫn học bài không có câu hỏi Trong Chương trình Ngữ văn hiện hành, trước kia ở hỏi về nghệ thuật của tác phẩm. Chúng tôi đề xuất thêm câu Trung học cơ sở có 1 bài của Nguyễn Công Trứ (Chí khí hỏi về nghệ thuật tác phẩm, chẳng hạn như: anh hùng), ở Trung học phổ thông có 1 bài (Bài ca ngất Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật ngôn từ và các thủ ngưởng), đến nay “giảm tải” đi chỉ còn có 1 bài ở lớp 11. pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ? Như vậy, là quá ít so với giá trị, vị trí của Nguyễn Công Trứ Hay: Theo anh (chị), giọng điệu của bài thơ có gì đặc trong lịch sử văn học? Chúng tôi đề xuất đưa 3 bài thơ và 1 sắc? Hãy cho biết cảm nhận của anh (chị) về giọng điệu bài phú vào phần đọc thêm của sách Ngữ văn: của bài thơ. - Đi thi tự vịnh - Về “cái tôi”, cái “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ, - Chí nam nhi chúng ta có thể có câu hỏi liên hệ thực tế như sau: - Chí khí anh hùng Anh (chị) hãy cho biết suy nghĩ của mình về triết lí sống, - Hàn nho phong vị phú phong cách sống của Nguyễn Công Trứ? Liên hệ quan niệm Đây là những tác phẩm từng được đưa vào nhiều tuyển Số 13 tháng 01/2019 73
  4. NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN tập, hợp tuyển, sách giáo khoa nhiều thời kì khác nhau. bôn xu quá, đến nỗi quên mất liêm sỉ, kẻ thời nhu nhược Những tác phẩm ấy cần đưa lại vào chương trình tới đây vì quá đến nỗi sinh ra chán đời, quốc dân ta nếu muốn chấn chính những giá trị, ý nghĩa đối với hiện tại, phù hợp với khởi cái tinh thần, bồi thực cái khí tiết, cho ngày một mạnh định hướng của bộ môn Ngữ văn. mẽ thêm lên, thời cái lối văn chương hùng tráng này há lại Bài Đi thi tự vịnh thể hiện quyết tâm, hăm hở phải học không nên sùng bái lắm ru” [5]. hành và thi đỗ, đem kiến thức học được mà làm những việc - Bài Hàn nho phong vị phú là bài phú Nôm tiêu biểu nhất có ý nghĩa giúp nước giúp dân, để lưu danh muôn đời. Đó của Nguyễn Công Trứ. Thể phú đã bắt đầu xuất hiện từ đầu là thái độ sống đúng đắn, tích cực, có hoài bão, có lí tưởng. đời Trần. Phú có hai lối chủ yếu. Ngày nay, đọc những câu thơ ấy của Nguyễn Công Trứ, Thứ nhất là lối nghiêm trang, lối này mang đậm tính giáo chúng ta vẫn cảm thấy như được truyền ngọn lửa nhiệt huấn, dùng nhiều chữ nghĩa trong sách thánh hiền để chỉ huyết, thấy phấn chấn trong lòng, cũng muốn noi gương dạy. ông mà học tập và cống hiến thật nhiều cho đất nước. Xứng Thứ hai là lối chơi, lối này có tính hài hước, trào phúng, đáng với sự mong đợi của thế hệ cha ông vào lớp con cháu dùng nhiều thành ngữ tục ngữ. sau này, xứng đáng với niềm tin, niềm hi vọng “tuổi trẻ là Bài Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ thuộc mùa xuân của xã hội”. lối thứ hai. Bài phú miêu tả cái nghèo, cái khổ bằng ngòi Ở bài Chí làm trai, Chí khí anh hùng cũng là sự thể hiện bút vừa hiện thực vừa trào lộng. Ông quá chán ghét cái quyết tâm lập công danh, đem tài trí giúp nước, giúp đời. nghèo, bởi muôn sự khổ không gì khổ bằng nghèo. Giọng Nguyễn Công Trứ nêu cao tư tưởng “trung hiếu”. điệu bài phú bi phẫn, chua xót lẫn hài hước. Đồng thời, ông Đối với ông, trung hiếu không chỉ là nghĩa vụ mà còn là còn tỏ rõ thái độ coi khinh, thậm chí thù địch với bọn hào triết lí sống. Đó là một quan niệm sống mãnh liệt, hăng say phú đương thời. Ở cuối bài phú, ông đã ngợi ca sự thành đến cuồng nhiệt. Cái chí ấy có cội rễ từ truyền thống hào đạt của Mãi Thần, Mông Chính và cười nhạo sự tiêu vong hùng của dân tộc, nó đã trở thành lí tưởng, là điều tâm niệm, của phú hào Thạch Sùng, Vương Khải. Chính thái độ này nó là động lực là mục đích sống của biết bao thế hệ. Quan đã góp phần đưa ông đến với quan niệm “hành lạc” và “tang niệm ấy, cái chí anh hùng ấy cũng phù hợp với quan niệm bồng hồ thỉ”. anh hùng của nhân dân lao động “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên”. Tóm lại, phú là thể loại khó đối với học sinh. Trong Ngày nay, do ảnh hưởng của kinh tế thị trường, tâm lí con chương trình Ngữ văn hiện hành có đưa một số bài phú người thích hưởng thụ cho bản thân hơn là cống hiến, nhiều (Bạch Đằng giang phú, Tịch cư ninh thể phú...), nếu so với người đã quên đi, đã đánh mất những tình cảm, những tư các bài phú ấy, thì Hàn Nho phong vị phú của Nguyễn Công tưởng tốt đẹp ấy. Văn học, nhất là văn học trong nhà trường Trứ thú vị hơn, tiêu biểu hơn cho phú Nôm. có trách nhiệm định hướng con người tìm lại những chân giá trị, những mĩ đức ấy. Tác phẩm của Nguyễn Công Trứ có 3. Kết luận tác dụng nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn người đọc, giúp chúng Nguyễn Công Trứ là một tác giả nổi bật trong văn học ta vượt qua được những toan tính vụn vặt, nhỏ nhặt, ích kỉ, trung đại. Càng trải qua thời gian, tác phẩm của ông càng tư lợi... giúp chúng ta biết hòa cái riêng vào cái chung, cá trở nên hấp dẫn với người đọc, đối với học sinh, sinh viên nhân vào tập thể, gắn mình với những trách nhiệm lớn lao hiện nay, thơ văn của ông có ý nghĩa giáo dục rất lớn. cao cả đối với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ là một con người khao khát cống hiến, Bài thơ còn có tác dụng giáo dục mạnh mẽ, nhắc nhở khao khát hoàn thiện tài năng và phẩm chất của mình, một chúng ta về bổn phận, về trách nhiệm với đất nước. Nói nhà thơ yêu tiếng Việt, rất tự tin khi chỉ sáng tác bằng tiếng như nhà nghiên cứu Lê Thước: “Ta đọc đến lời văn cụ, tự Việt, ông đã góp phần đưa tiếng Việt trở thành tiếng Việt nhiên lòng sinh hăng hái, muốn đi, muốn chạy, muốn đem văn học - một thứ ngôn ngữ tinh tế, phong phú, đa sắc. Một thân gánh vác việc đời, để giúp đời cho khỏi những nỗi bi tác giả như thế rất cần có vị trí xứng đáng hơn trong chương ai khốn khổ (...) đương cái thời đại cạnh tranh này, kẻ thời trình Ngữ văn hiện nay. 74 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  5. Nguyễn Thị Quốc Minh Tài liệu tham khảo [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2014), Ngữ văn 11 (tập 1), [5] Trần Nho Thìn (giới thiệu và tuyển chọn), (2003), Nguyễn NXB Giáo dục Việt Nam. Công Trứ về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. [2] Nguyễn Thanh Tùng, “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn [6] Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, (1994), Việt Nam ca trù Công Trứ: từ văn bản đến hướng tiếp cận, Văn hóa Nghệ biên khảo, NXB Thành phố Hồ Chí Minh tái bản. An (online), ngày 23 tháng 6 năm 2012. [7] Nguyễn Lộc, (2012), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ [3] Đoàn Lê Giang, Vấn đề văn bản “Bài ca ngất ngưởng” XVIII - đến hết thế kỉ XIX), NXB Giáo dục Việt Nam. của Nguyễn Công Trứ, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 02 [8] Lê Thước, (1928), Sự nghiệp văn thi văn của Uy Viễn năm 2006. tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Tân xuất bản. [4] Nguyễn Công Lý, (2013),“Chương trình và sách giáo khoa môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước 1975” in trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia “Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam”. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. NGUYEN CONG TRU IN THE VIETNAMESE LINGUISTICS AND LITERATURE PROGRAM AT GENERAL EDUCATION LEVEL Nguyen Thi Quoc Minh University of Social Sciences and Humanities ABSTRACT: Nguyen Cong Tru played an important position in literature of the Vietnam National University HoChiMinh City early Nguyen Dynasty period, therefore in most of the volumes of Vietnamese 10-12 Dinh Tien Hoang, Da Kao ward, District 1, Ho Chi Minh City, Vietnam historical iterary works, there is always a chapter on his poetry. Nguyen Cong Email: ntquocminh1212@gmail.com Tru’s literary works have been included in the teaching curricula for junior high schools, senior high schools, and then for universities’ faculties of Vietnamese linguistics and literature. In the high school curriuculum alone, Nguyen Cong Tru is introduced to students as one of the most typical writers of medieval period literature. Currently, “Bai ca ngat nguong”, a work by Nguyen Cong Tru is included in Grade 11 Literature textbooks, both in the basic and advanced volumes. These books have been edited and introduced to the teaching program for a long time, however there are still some limitations to be clarified and adapted in the texts, commentaries, and suggested lesson plans for this work. This article examines carefully these concerned issues, and proposes some suggestions with the desire that Nguyen Cong Tru’s poetry will be compiled better in the Vietnamese linguistics and literature program in the near future. KEYWORDS: Nguyen Cong Tru; Bai ca ngat nguong; Vietnamese linguistics and literature curriculum; literary works. Số 13 tháng 01/2019 75
nguon tai.lieu . vn