Xem mẫu
- VI. NGOẠI GIAO PHONG KIẾN BẤT LỰC
NGOẠI GIAO CÁCH MẠNG XUẤT HIỆN
Harmand với tư cách toàn quyền đại diện của Pháp
và Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp là chánh, phó
khâm sai của triều đình Huế đã cùng ký hoà ước Việt
- Pháp ngày 25 tháng 8 năm 1883 (âm lịch là 23
tháng bảy năm Quý Mùi).
Hoà ước gồm 27 điều. Điều quan trọng đầu tiên của
hoà ước là để cho Pháp nắm quyền ngoại giao của
Việt Nam; triều đình nhà Nguyễn không được tự ý
quan hệ với các nước ngoài. Với hoà ước này, Việt
Nam mất cả độc lập và quyền ngoại giao. Những điều
chủ yếu khác trong hoà ước có thể tóm tắt như sau:
- Tỉnh Bình Thuận sáp nhập vào Nam Kỳ để Pháp
trực tiếp cai trị.
- - Từ tỉnh Khánh Hòa, phía trên Bình Thuận ra tới
Đèo Ngang, do triều đình Huế cai trị. Nhưng Pháp
đóng quân tại Đèo Ngang và tại Thuận An, bên cạnh
triều đình Huế. Một cơ quan hành chính của Pháp đặt
tại Huế do một viên khâm sứ Pháp đứng đầu, nắm
quyền giám sát triều đình Huế và công việc hành
chính ở các tỉnh từ Khánh Hòa ra Đèo Ngang. Viên
khâm sứ Pháp được chỉ định sẵn là Champeaux có
mặt ngay lúc đó và cùng ký tên vào hoà ước.
- Từ Đèo Ngang ra Bắc, việc cai trị ở các tỉnh, phủ,
huyện, vẫn do các quan lại Việt Nam đảm nhiệm,
nhưng chỉ là chính quyền bù nhìn tay sai. Mỗi tỉnh có
một cơ quan của Pháp, gọi là tòa công sứ, do chánh,
phó công sứ Pháp cầm đầu, kiểm soát và điều hành
mọi công việc trong tỉnh.
Ký xong hoà ước, Harmand ra Bắc chỉ huy tiếp việc
- đánh chiếm miền Bắc. Triều đình Huế phải cho mấy
viên thượng thư, tham tri đi theo Harmand ra để hiểu
dụ nhân dân và lệnh cho quan quân nhà Nguyễn ở
miền Bắc rút cả về Huế.
Nhưng lệnh của triều đình Huế không đủ sức ngăn
chặn chiến tranh ở miền Bắc. Bấy giờ là giữa năm
1883, Hiệp Hòa lên ngôi vua, truyền dụ ra Bắc: "Lập
tức triệt binh dõng lui, để tỏ điều tin với Đại Pháp.
Còn toán quân Lưu Vĩnh Phúc và quân Tàu, không
phải quyền mình sai khiến được, nên đã giao ước để
mặc quân Đại Pháp làm sao thì làm, không còn thuộc
gì nước mình; nên đem thực tình việt thư cho quý
toàn quyền .rõ, như vậy mới hợp thời thế". Thời thế
đây là thời thế của kẻ hèn nhát, chịu dể mất nước.
Chỉ bốn tháng sau, Hiệp Hòa bị triều thần giết chết.
Triều đình đưa người con nuôi thứ ba của Tự Đức là
Kiến Phúc lên làm vua. Kiến Phúc mới 15 tuổi, lên
- ngôi được hơn sáu tháng thì chết do bệnh đậu mùa.
Sau Kiến Phúc là Hàm Nghi 13 tuổi lên thay. Công
việc triều đình đều trong tay hai đại thần Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết. Việc nước, việc dân, lúc
ấy rối ren nghiêm trọng. Ở ngoài Bắc, chiến tranh
tiếp diễn. Quân Trung Quốc của Lưu Vĩnh Phúc ở
miền tây bắc và quân chính quy của nhà Thanh ở
miền đông bắc nước ta vẫn giao chiến với quân Pháp.
Lệnh rút quân của triều đình Huế không có hiệu lực
gì với họ. Lưu Vĩnh Phúc đương có toàn quyền cai
quản miền Tây Bắc nước ta, không dễ gì lại bó thân
về với triều đình ở Huế. Quân chính quy Trung Quốc
do triều đình Huế mời sang cứu nguy cho mình thì
cũng không dễ gì bảo họ rút về Trung Quốc, vì họ
cũng có ý đồ của họ. Khi Pháp đánh chiếm Hà Nội,
triều đình nhà Nguyễn cho Phạm Thận Duật sang
Thiên Tân cầu cứu nhà Thanh. Tổng đốc hai tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây là Trương Thụ Thanh làm
một sớ tâu vua Thanh, đại ý nói: "Nước Nam và
- Trung Quốc tiếp giáp nhau, thế lực của nước Nam rất
suy yếu, không thể tự chủ được nữa. Ta nên mượn
tiếng sang đánh giặc, đem quân đóng giữ các tỉnh
thượng du. Khi có biến, ta sẽ chiếm lấy các tỉnh ớ
phía bắc sông Hồng". Do đấy, quân Thanh sang đóng
ở các tỉnh từ Lạng Sơn tới Bắc Ninh, từ Lào Cai tới
Sơn Tây. Hai kẻ thù tiến hành xâm lược miền Bắc
nước ta đã đánh nhau một số trận. Quân Thanh thua.
Nhưng không phải vì thế mà quân Pháp đẩy họ ra
khỏi biên giới Việt Nam một cách dễ dàng, mặc dầu
Pháp đã đánh vào miền duyên hải Trung Quốc. Pháp
thay đổi chiến lược, dùng ngoại giao thay quân sự.
Pháp nhờ một người Đức là Détring phụ trách thương
chính của nhà Thanh ở Quảng Đông giúp việc thương
lượng giữa hai nước Pháp và Trung Quốc. Détring có
quan hệ thân mật với tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng
Chương là một đại thần có thế lực lớn của triều đình
nhà Thanh. Lý Hồng Chương chấp nhận đứng ra hòa
- giải. Ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân, trung tá hải
quân Fournier đại diện Pháp và Lý Hồng Chương đại
diện Trung Quốc ký hoà ước tại Thiên Tân.
Nội dung chủ yếu của hoà ước Thiên Tân năm 1884
là Trung Quốc cam kết rút hết quân Trung Quốc
đóng tại Bắc Kỳ về nước, để mặc Pháp tự do hoành
hành ở Việt Nam.
Sau hoà ước Thiên Tân, quân Trung Quốc vắng bóng
ở Bắc Kỳ; thực dân Pháp ra sức hoàn tất việc chiếm
đóng của chúng, thẳng tay đàn áp nhân dân Việt
Nam, ép buộc triều đình Huế ký giấy đầu hàng, cam
chịu mất độc lập, mất ngoại giao, cúi đầu chịu sự
thống trị của chúng.
Giấy đầu hàng ký tại triều đình Huế ngày 13 tháng 5
năm Giáp Thân (tức ngày 6 tháng 6 năm 1884). Ký
xong, triều đình Huế phải đem ấn phong vương của
- Trung Quốc khi trước ra thiêu hủy trước mặt đại điện
Pháp.
Từ đây, triều đình Huế chỉ là chính quyền bù nhìn,
hoàn toàn chịu sự điều khiển, giám sát của Pháp.
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc bị
Pháp xóa bỏ. Quan hệ giữa Việt Nam và các nước
khác không được Pháp cho phép. Như thế là triều
đình Huế mất hẳn quyền ngoại giao. Quyền ngoại
giao của triều đình Huế chấm dứt đồng thời cũng
chấm dứt toàn bộ nền ngoại giao phong kiến.
Năm 1884 tuy triều đình Huế bắt buộc phải ký giấy
đầu hàng Pháp, nhưng ngọn lửa đấu tranh chống
Pháp vẫn âm ỉ trong lòng vua tôi nhà Nguyễn từ đây.
Đêm mùng 4 rạng sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885,
Tôn Thất Thuyết cùng những người yêu nước ở Huế
phát động chiến tranh, bắn súng vào nhà khâm sứ
- Pháp và đánh trại lính Pháp ở thành Huế. Pháp phản
công, Tôn Thất Thuyết thua trận, đưa vua Hàm Nghi
lên miền núi Quảng Trị, rồi sang Thượng Lào.
Ngày 2 tháng 8 năm 1885, Tôn Thất Thuyết cùng vua
Hàm Nghi tới vùng Cửu Châu thuộc Savanakhét
được nhân dân nước bạn Lào hết lòng giúp đỡ và tiếp
sức cho phong trào chống Pháp của Việt Nam dâng
cao.
Cùng với cuộc chiến đấu chống Pháp của Tôn Thất
Thuyết là phong trào khởi nghĩa của Phan Đình
Phùng, có nhiều gắn bó với nhân dân Lào. Cuối năm
1895, nhân dân Lào đã đưa nghĩa quân Phan Đình
Phùng tới tạm trú ở bản Kiên trên đất Lào để chuẩn
bị các trận đánh Pháp. Nghĩa quân luôn luôn được
nhân dân Lào tiếp sức.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, hoạt động ngoại giao
- của Việt Nam gắn chặt với phong trào cách mạng
trong nước đang chuyển từ phạm trù phong kiến sang
phạm trù mới. Cách mạng càng dâng cao thì quan hệ
ngoại giao càng mở rộng. Ngoại giao cách mạng xuất
hiện và ngày càng hưng khởi, góp phần rất lớn vào
thành công của cách mạng Việt Nam.
*
**
Trải mấy nghìn năm lịch sử nền ngoại giao thời
phong kiến đã góp công sức lớn vào sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc, mở rộng sự giao hảo
với các nước, để lại nhiều kinh nghiệm quý giá về
ngoại giao cho nhân dân các đời sau.
- Về đường lối ngoại giao của dân tộc ta thời phong
kiến, nhà sử học Phan Huy Chú ở thế kỷ XIX đã ghi
tóm tắt:
"Trong việc trị nước, hòa hiếu với nước láng giềng là
việc lớn, mà những khi ứng thù là rất quan hệ không
thể xem thường... Người có quyền trị nước phải nên
cẩn thận" (Bang giao chí).
Vua Lê Thánh Tông ở thế kỷ XV chỉ thị cho những
người đi sứ, tức những người làm ngoại giao với
nước ngoài:
"Một thước núi, một tấc sông của ta, không nên vất
bỏ. . . Nếu người dám lấy một thước, một tấc đất của
Thái Tổ mà đút mồi cho giặc thì phải tội tru di " (Đại
Việt sử ký toàn thư) .
Đây cũng là những lời di văn, di chúc của nền ngoại
- giao nước ta thời phong kiến để lại cho chúng ta thời
nay suy ngẫm và có thể nói theo tới muôn đời sau.
nguon tai.lieu . vn