Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ HỒNG HẠNH NGHIÊN CỨU THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT TỪ BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ HỌC NHÂN CHỦNG Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ Mã số : 62 22 01 01 PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Khang HÀ NỘI - 2011 `ˆÌi`Ê܈̅Ê̅iÊ`i“œÊÛiÀȜ˜ÊœvÊ ˜vˆÝÊ*ÀœÊ*
  2. Ê `ˆÌœÀÊ /œÊÀi“œÛiÊ̅ˆÃʘœÌˆVi]ÊۈÈÌ\Ê ÜÜÜ°ˆVi˜ˆ°Vœ“É՘œVŽ°…Ì“
  3. MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài Trong ngôn ngữ của một dân tộc, thành ngữ là một đơn vị đặc trƣng và thành ngữ tiếng Việt cũng không phải là ngoại lệ. Bởi vì, thành ngữ không chỉ là một phần quan trọng trong từ vựng của mỗi một ngôn ngữ, mà còn là một nguồn tƣ liệu quý báu lƣu giữ những tri thức văn hóa của dân tộc sở hữu nó. Nói một cách khác, thành ngữ chính là những đơn vị ngôn ngữ kết tinh nét văn hóa của dân tộc rõ nhất và là công cụ phản ánh đặc điểm văn hóa xã hội điển hình nhất của dân tộc. Chính vì vậy, không chỉ các nhà ngôn ngữ học, mà cả các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, những nhà nghiên cứu văn hóa nói chung thƣờng rất quan tâm đối tƣợng này. Với lƣợng tri thức phong phú mà kho tàng thành ngữ lƣu giữ, ngƣời ta có thể tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau, bằng những phƣơng pháp khác nhau. Vì thế, khi có một cách tiếp cận mới, ngƣời ta có thể sẽ tìm ra thêm đƣợc những vấn đề mới. Một trong những cách tiếp cận mới chƣa đƣợc tiến hành ở bất cứ công trình nào ở Việt Nam, đó là hƣớng tiếp cận thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Ngôn ngữ học nhân chủng là một khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ đã đƣợc nhiều học giả trên thế giới quan tâm. Những nƣớc có môi trƣờng ngôn ngữ đa dân tộc nhƣ Mỹ, Trung Quốc hay có truyền thống nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội nhƣ Anh, Pháp v,v từ lâu đã quan tâm đến hƣớng nghiên cứu này. Ở nƣớc ta, đây là một hƣớng nghiên cứu còn rất mới mẻ chƣa đƣợc nhiều ngƣời lƣu ý. Vì thế tiếp cận ngôn ngữ học từ bình diện nhân chủng sẽ góp phần làm phong phú những khuynh hƣớng nghiên cứu khác nhau về ngôn ngữ học ở nƣớc ta hiện nay. Từ cách đặt vấn đề nhƣ vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân 1
  4. chủng” cho luận án của mình với mong muốn khai thác một vấn đề không mới bằng một cách tiếp cận đƣợc cho là mới, góp phần làm phong phú thêm những khuynh hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học ở nƣớc ta hiện nay. 0.2. Mục đích của luận án Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hƣớng tới những mục đích sau đây: Thứ nhất, ứng dụng một số tri thức của ngôn ngữ học nhân chủng vào nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Do đó, có thể coi đây là một cách tiếp cận mới về thành ngữ, góp phần bổ sung thêm lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ ở Việt Nam. Cách làm này sẽ giúp chúng tôi thu nhận đƣợc một cơ sở lý luận quan trọng để từ đó có thể gợi mở những vấn đề khác trong ngôn ngữ học nhằm tiến hành nghiên cứu thêm trên những nguồn tƣ liệu khác nữa của tiếng Việt. Thứ hai, từ cách tiếp cận của ngôn ngữ học nhân chủng, luận án hy vọng góp phần làm nổi bật những đặc điểm văn hóa xã hội của ngƣời Việt đƣợc phản ánh trong đơn vị ngôn ngữ đặc biệt là thành ngữ. Qua đó luận án góp phần chỉ ra những vấn đề liên quan đến thành ngữ mà những cách tiếp cận trƣớc đây chƣa chú ý hoặc chƣa chỉ ra một cách tƣờng minh, cụ thể. 0.3. Nhiệm vụ của luận án Xuất phát từ mục đích nói trên, luận án đặt ra những nhiệm vụ sau đây: Một là, trình bày những cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài gồm một vài vấn đề liên quan đến ngôn ngữ học nhân chủng, những quan điểm nhận diện và nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt cũng nhƣ các hƣớng tiếp cận thành ngữ trƣớc đây. Trên cơ sở đó xác định cho mình những nội dung cụ thể trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Hai là, khảo sát một vài vấn đề liên quan đến đặc điểm văn hóa xã hội trong thành ngữ tiếng Việt. Đƣơng nhiên, khi thực hiện việc khảo sát này luận 2
  5. án sẽ xuất phát từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng để nhằm chắt lọc ra một số nội dung mà những cách tiếp cận trƣớc đây chƣa chú ý đúng mức. Qua đó, luận án sẽ bƣớc đầu nêu ra những đặc điểm đặc trƣng về nội dung này của thành ngữ tiếng Việt. Ba là, qua việc phân tích ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt, luận án sẽ làm rõ thêm tính ẩn dụ (metaphoricality) thể hiện qua mối quan hệ giữa ý niệm nguồn (source) và ý niệm đích (target) của thành ngữ tiếng Việt. Qua đó thể hiện cách nhìn nhận thành ngữ từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng của luận án. 0.4. Ý nghĩa của luận án Về mặt lý luận, luận án đƣợc thực hiện trên cơ sở kế thừa và vận dụng một vài nội dung liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Vì vậy, luận án sẽ góp phần vào làm đa dạng hóa các cách tiếp cận khác nhau trong việc nghiên cứu một vấn đề của ngôn ngữ học. Ở đây, thành ngữ tiếng Việt sẽ đƣợc nhìn nhận từ một cách tiếp cận mới và do đó, những đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ sẽ có điều kiện đƣợc tập trung làm rõ thêm hơn. Về mặt thực tiễn, luận án sẽ góp phần hữu ích vào việc hiểu và giải thích thành ngữ tiếng Việt. Việc hiểu rõ về thành ngữ tiếng Việt không chỉ có ích đối với mỗi ngƣời Việt Nam nói chung, mà còn có ích đối với các bạn học sinh, sinh viên, đặc biệt là với những sinh viên nƣớc ngoài học tiếng Việt nói riêng. Từ đó, phần nào giúp cho mọi ngƣời có thể hiểu thêm về các vấn đề văn hóa xã hội của Việt Nam, hiểu rõ thêm đặc trƣng văn hóa của ngƣời Việt đƣợc thể hiện trong ngôn ngữ. 0.5. Phạm vi đối tượng nghiên cứu Nhƣ vậy, đối tƣợng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn là thành ngữ tiếng Việt. Hiện nay, đã có rất nhiều từ điển thành ngữ tiếng Việt đƣợc xuất bản. Căn cứ vào tính chất của những cuốn từ điển ấy và để thuận tiện cho việc 3
  6. xử lý, tƣ liệu mà chúng tôi dùng trong luận án sẽ đƣợc tổng hợp từ những nguồn sau đây: - Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung - Vũ Thúy Anh - Vũ Quang Hào (NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995). - Từ điển thành ngữ Việt Nam do Nguyễn Nhƣ Ý chủ biên (NXB Văn hóa, Hà Nội 1993). - Phần “Sƣu tập và phân loại thành ngữ” tiếng Việt trong cuốn Thành ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2004). Tổng số thành ngữ tiếng Việt đƣợc chúng tôi thu thập để tiến hành khảo sát là 8.780 đơn vị. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thành ngữ của các ngôn ngữ khác làm dẫn chứng minh họa và so sánh. Những tƣ liệu nƣớc ngoài này đƣợc trích dẫn từ các sách, từ điển hay luận án đã đƣợc nêu ra trong phần tài liệu tham khảo. 0.6. Phương pháp nghiên cứu Luận án đƣợc tiến hành nghiên cứu dựa trên các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học, trong đó chủ yếu là phương pháp miêu tả, phần nào là phương pháp so sánh đối chiếu. Bên cạnh đó, các thủ pháp nghiên cứu nhƣ thống kê và phân loại tƣ liệu, phân tích v.v cũng sẽ đƣợc áp dụng để phục vụ mục tiêu nghiên cứu. 0.7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của tác giả, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm có ba chƣơng: - Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết của đề tài. Chƣơng viết này sẽ làm rõ một vài vấn đề liên quan đến lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng và những vấn đề lý thuyết đã có về thành ngữ. Từ đó luận án sẽ xác định hƣớng nghiên cứu cụ 4
  7. thể mà ngôn ngữ học nhân chủng có thể áp dụng để nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. - Chƣơng 2: Một vài đặc điểm văn hóa xã hội của thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này sẽ trình bày khái quát một vài nội dung trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng nhằm làm rõ những vấn đề mà các cách tiếp cận khác còn chƣa có điều kiện chỉ ra. - Chƣơng 3: Tính ẩn dụ trong thành ngữ tiếng Việt nhìn từ bình diện ngôn ngữ học nhân chủng. Chƣơng này lựa chọn vấn đề ẩn dụ nhƣ là một trong những nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng để qua đó góp phần chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong thành ngữ. Và đó cũng chính là cách để làm sáng tỏ những đặc điểm của tính ẩn dụ có trong thành ngữ tiếng Việt. Cách giải thích ấy đến lƣợt mình cho chúng ta biết ngôn ngữ và văn hóa tác động qua lại lẫn nhau như thế nào và chính sự hiểu biết đó chỉ ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ học nhân chủng với các phân ngành khoa học khác. 5
  8. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Dẫn nhập Trong xu thế phát triển hiện nay, ngày càng có nhiều hƣớng nghiên cứu mới với những phạm vi nghiên cứu giáp ranh giữa các ngành khoa học. Ở đó, các đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xem xét từ nhiều góc độ có thể nói là toàn diện hơn nhờ những cách tiếp cận liên ngành. Ngôn ngữ học nhân chủng là một ngành khoa học liên ngành ra đời trong xu thế đó. Ở nhiều nƣớc trên thế giới, ngôn ngữ học nhân chủng thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là các nhà nghiên cứu ở Bắc Mỹ nhƣ Mỹ, Canada và tiếp đó là các học giả ở Anh, Úc, Pháp, Trung Quốc... Ở Việt Nam hiện nay, hầu nhƣ chƣa có một công trình nghiên cứu nào nhƣ sách chuyên luận hay giáo trình đại học ... về ngôn ngữ học nhân chủng đƣợc công bố. Vì thế, luận án này có thể đƣợc coi nhƣ là một sự cố gắng bƣớc đầu ứng dụng những kết quả lý luận của ngôn ngữ học nhân chủng vào việc nghiên cứu tiếng Việt. Trong tình hình nhƣ vậy, ở chƣơng này, chúng tôi sẽ giới thiệu về ngôn ngữ học nhân chủng nhằm cung cấp một cái nhìn cơ bản nhất về chuyên ngành ngôn ngữ học này phục vụ cho nhiệm vụ của luận án. Việc giới thiệu ở đây là chỉ nhằm nêu ra những vấn đề có thể ứng dụng cách tiếp cận của chuyên ngành ngôn ngữ học này trong nghiên cứu thành ngữ tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi không có hy vọng làm thỏa mãn những hiểu biết đầy đủ về ngôn ngữ học nhân chủng. Việc giới thiệu của chúng tôi một mặt là cơ sở lý luận cho các chƣơng tiếp theo của luận án, mặt khác trong một chừng mực nào đó có thể góp phần vào việc phát triển lý luận về ngôn ngữ học nhân chủng giúp ích cho việc nghiên cứu những đối tƣợng ngôn ngữ khác ở Việt Nam. 6
  9. 1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngôn ngữ học nhân chủng. 1.2.1. Việc sử dụng thuật ngữ trong luận án Về mặt thuật ngữ, hiện vẫn chƣa có sự phân biệt rõ ràng giữa việc dịch sang tiếng Việt và sử dụng hai thuật ngữ tiếng Anh anthropological linguistics và linguistic anthropology. Sự giống nhau giữa hai thuật ngữ này là ở chỗ, cả hai đều dùng để gọi tên một lĩnh vực liên ngành đƣợc hình thành từ hai ngành anthropology - “nhân học” hay “nhân chủng học” và linguistics - “ngôn ngữ học”. Trong các tài liệu ở Việt Nam, thuật ngữ anthropological linguistics có thể đƣợc dịch là “ngôn ngữ học nhân học” hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng”, hoặc “ngôn ngữ học nhân chủng học” và linguistic anthropology có thể đƣợc dịch là “nhân học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ”, “nhân chủng học ngôn ngữ học”. Trong luận án này, chúng tôi lựa chọn cách dịch anthropological linguistics là “ngôn ngữ học nhân chủng” và linguistic anthropology là “nhân chủng học ngôn ngữ” với hai lý do sau đây: (1) Chúng tôi nghĩ rằng trong một thuật ngữ khoa học không nên có hai chữ học đồng thời có mặt. Vì vậy, cách gọi “nhân học ngôn ngữ học”, “ngôn ngữ học nhân học”, “ngôn ngữ học nhân chủng học” khiến cho thuật ngữ bị lặp một cách chƣa hợp lý. (2) Cách chuyển dịch “ngôn ngữ học nhân chủng” sẽ mang tính hệ thống của thuật ngữ hơn trong mối tƣơng quan với các chuyên ngành ngôn ngữ học khác nhƣ “ngôn ngữ học ứng dụng”, “ngôn ngữ học xã hội”, “ngôn ngữ học tâm lý”, “ngôn ngữ học tri nhận” v.v. Theo đó, yếu tố “ngôn ngữ học” chỉ ra rằng đây là chuyên ngành nghiên cứu về ngôn ngữ và yếu tố “nhân chủng” chỉ ra hƣớng tiếp cận ngôn ngữ từ bình diện nhân chủng. Tƣơng ứng với thuật ngữ tiếng Việt “ngôn ngữ học nhân chủng”, thuật ngữ tiếng Anh linguistic anthropology đƣợc chúng tôi dịch là “nhân chủng học 7
  10. ngôn ngữ” và ở đây đƣợc hiểu nó là chuyên ngành nhân chủng học tiếp cận từ bình diện ngôn ngữ. 1.2.2. Khái quát về ngôn ngữ học nhân chủng Ngôn ngữ học nhân chủng là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành có liên quan đến hai chuyên ngành độc lập là nhân chủng học và ngôn ngữ học. Do đều là khoa học nghiên cứu về con ngƣời, bản thân nhân chủng học và ngôn ngữ học vừa có sự đan xen lẫn nhau, vừa có sự trùng lặp về đối tƣợng hay khách thể nghiên cứu, do đó vừa có tác động qua lại và ảnh hƣởng lẫn nhau. Nói nhƣ vậy là vì, tƣ liệu của ngôn ngữ học là ngôn ngữ với tƣ cách là phƣơng tiện giao tiếp và công cụ của tƣ duy. Đó là thứ phƣơng tiện và công cụ mà chỉ có con ngƣời mới có đặc quyền sở hữu với tƣ cách là một thành viên của một cộng đồng xã hội gắn liền với một nền văn hóa nhất định nào đó. Trong khi đó, đối tƣợng nghiên cứu của nhân chủng học là con ngƣời, bao gồm tất cả các đặc điểm sinh lý, các đặc điểm tâm lý, tình cảm, tƣ duy v.v, tức là các hoạt động đặc trƣng của con ngƣời. Trong các hoạt động đặc trƣng ấy, hoạt động ngôn ngữ đƣợc coi là đặc hoạt động phức tạp nhất và cũng là điển hình nhất của loài động vật cao cấp này. Hơn thế nữa, ngôn ngữ còn đƣợc xem nhƣ một tiêu chí quan trọng để xác định và phân biệt một tộc ngƣời và đặc trƣng văn hóa của tộc ngƣời đó. Cho nên, ngôn ngữ là một phần quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu nhân chủng học. Về mặt lịch sử, trƣớc khi ngôn ngữ học nhân chủng ra đời, ngƣời ta thƣờng quen dùng thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ. Có thể nói, thuật ngữ nhân chủng học ngôn ngữ gắn liền với nhân chủng học văn hóa - một trong bốn lĩnh vực truyền thống của nhân chủng học, bên cạnh nhân chủng học hình thể, khảo cổ học, dân tộc học. Trong giai đoạn đầu phát triển, nhân chủng học ngôn ngữ đƣợc xem là một phần của nhân chủng học văn hóa. Khi đó, các nhà nghiên cứu điền dã nhân chủng học trong quá trình nghiên cứu các tộc 8
  11. ngƣời đã nhận thấy vai trò của ngôn ngữ là hết sức quan trọng đối với nghiên cứu dân tộc học. Và vì vậy, ngôn ngữ đƣợc các nhà nhân chủng học quan tâm nghiên cứu nhƣ là một ánh phản của văn hóa tộc ngƣời. Cho nên, nhân chủng học coi ngôn ngữ, và vì thế cả ngôn ngữ học, là nền tảng của một khoa học về con ngƣời, bởi vì nó cung cấp một sự hiểu biết về mối liên hệ giữa cấp độ sinh học và văn hóa xã hội. Tuy nhiên, chỉ đến khi “Một số người thấy trong phương pháp luận ngôn ngữ học hiện đại có một mô hình hay mầm mống của một phương pháp luận chung cho việc nghiên cứu cấu trúc hành vi của con người” (D.Hymes – trích từ [63,143]) thì từ đó, ngôn ngữ và các hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học không thể đƣợc xem là một bộ phận trong nhân chủng học văn hóa nữa. Bởi vậy, thuật ngữ ngôn ngữ học nhân chủng ra đời. Nó nhằm khẳng định vai trò của ngôn ngữ và các lý thuyết ngôn ngữ học đối với việc nghiên cứu nhân chủng. Các nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong việc tạo nên nền tảng văn hóa xã hội của con ngƣời, trong việc đồng thời góp phần tạo nên tính đa dạng và tính chỉnh thể cho các hệ thống văn hóa xã hội đó. Do đó, ngôn ngữ học nhân chủng là hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ thông qua các yếu tố thuộc về con ngƣời, mà cụ thể là mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và tƣ duy, giữa ngôn ngữ và xã hội. Nói một cách khác, ngôn ngữ học nhân chủng có thể đƣợc hiểu nhƣ là một chuyên ngành nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ của loài ngƣời dựa vào các dữ liệu văn hóa xã hội và xử lý những dữ liệu ấy bằng các phƣơng pháp của ngôn ngữ học. Nhƣ chúng ta đều biết, những mối quan hệ vừa kể ở trên cũng là sự quan tâm của rất nhiều phân ngành ngôn ngữ học khác nhƣ ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học tâm lý v.v và ngƣời anh em gần gũi với ngôn ngữ học 9
  12. nhân chủng là ngôn ngữ học xã hội. Chính bởi vậy, ngôn ngữ học nhân chủng dƣờng nhƣ có phạm vi nghiên cứu bao trùm và thậm chí, nó còn có xu hƣớng tích hợp nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Khi nói về đối tƣợng nghiên cứu truyền thống của ngôn ngữ học nhân chủng, các nhà nghiên cứu Bắc Mỹ thƣờng chỉ chú trọng đến những ngôn ngữ không phải là ngôn ngữ phƣơng Tây. Nói một cách khác, họ đặc biệt quan tâm đến các ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ, nhất là các ngôn ngữ không có chữ viết hay còn gọi là các ngôn ngữ tiền văn tự. Điều này là do ngôn ngữ học nhân chủng ra đời bắt nguồn từ những công trình nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ của Boas, Sapir và Whorf. Đây là những ngƣời đƣợc coi là sáng lập ra ngành ngôn ngữ học này. Trong các công trình nghiên cứu của họ, đối tƣợng nghiên cứu chính là các ngôn ngữ còn đƣợc lƣu giữ trong những bộ tộc thổ dân mà ít ngƣời biết đến. Sau này, cùng với xu hƣớng phát triển rộng khắp trên nhiều nƣớc, đối tƣợng nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng đƣợc mở rộng. Và vì vậy, nó không còn giới hạn ở các ngôn ngữ thổ dân nữa mà là ngôn ngữ loài ngƣời nói chung. Việc mở rộng đối tƣợng nghiên cứu cũng là bƣớc phát triển về chất của ngôn ngữ học nhân chủng. Về mặt phƣơng pháp, ngôn ngữ học nhân chủng kế thừa và vận dụng các phƣơng pháp của cả ngôn ngữ học và nhân chủng học. Các phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của ngôn ngữ học mà ngôn ngữ học nhân chủng thƣờng sử dụng là phƣơng pháp phân tích miêu tả, phƣơng pháp so sánh - lịch sử, phƣơng pháp so sánh đối chiếu; còn phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản của nhân chủng học hay đƣợc sử dụng là phƣơng pháp quan sát tham dự, phƣơng pháp khảo tả dân tộc học. “Vốn đã là một lĩnh vực liên ngành, nó dựa vào và mở rộng các phương pháp đã có trong các ngành khác, đặc biệt là ngôn ngữ học và nhân chủng học, với mục tiêu chung là cung cấp hiểu biết dưới nhiều 10
  13. phương diện phong phú về ngôn ngữ với tư cách là một tập hợp các thói quen văn hóa, đó là, như một hệ thống giao tiếp cho phép các các nhân hay từng cá nhân trình bày về trật tự xã hội và giúp việc giao tiếp trở thành các hành vi xã hội cơ bản” [158,3]. Trong nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng truyền thống, bên cạnh phƣơng pháp khảo tả dân tộc học, các nhà nghiên cứu rất chú trọng đến phƣơng pháp quan sát tham dự. Bởi vì, đối tƣợng của ngôn ngữ học nhân chủng là ngôn ngữ nhƣng không phải là ngôn ngữ trong sự phân biệt với lời nói mà ngôn ngữ ở đây đƣợc hiểu là bao gồm cả lời nói. Vì vậy phƣơng pháp quan sát các diễn ngôn tự nhiên là rất quan trọng. Điều này liên quan đến lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học nhân chủng. Chuyên ngành này ra đời bắt nguồn từ các nghiên cứu điền dã của các nhà dân tộc học, do đó phƣơng pháp nghiên cứu tham dự là phƣơng pháp cơ bản điển hình và hệ quả là tƣ liệu thu đƣợc cũng là những quan sát rất tự nhiên. Mặc dù các diễn ngôn cần đƣợc ghi lại một cách càng tự nhiên càng tốt, nhƣng không hẳn chỉ là các diễn ngôn bất kỳ không đƣợc chọn lọc. Các nhà nghiên cứu đã “chỉ trích việc sử dụng các từ ngữ khẩu ngữ như là các “dữ liệu thô” của các nhà nhân chủng học văn hóa” [157,67]. Bởi vậy, họ đặc biệt tin tƣởng vào các “văn bản” – có nghĩa là các diễn ngôn đã đƣợc ghi chép lại. Điều này cho phép loại trừ các yếu tố nhiễu không mang lại kết quả nghiên cứu nhƣ mong đợi. Cụ thể hơn nữa, hầu hết các học giả trong lĩnh vực này đều thấy rằng tƣ liệu căn bản của họ có thể đƣợc tìm thấy trong ngôn ngữ đƣợc thu nhận từ quá trình quan sát các ngữ cảnh tự nhiên, trong những cuộc phỏng vấn tƣơng đối tự do và cả trong các thí nghiệm. Mối quan tâm của họ là “các cách nói” đƣợc quan sát nhƣ vậy có thể tiết lộ điều gì về biểu hiện kiến thức văn hóa trong nhiều lĩnh vực của một cộng đồng; sau đó những biểu hiện ấy đƣợc tổ chức nhƣ thế nào, chúng đƣợc triển khai và tái tạo lại ra sao 11
  14. và cái gì là cái có thể giới hạn cho sự đa dạng văn hóa ở một cộng đồng. Tính chất quan sát tự nhiên nhƣng đƣợc “lựa chọn” là nhƣ vậy. 1.2.3. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157,65], tác giả Jane.H.Hill cho rằng mối quan tâm chính của các nhà ngôn ngữ học nhân chủng là “nhấn mạnh vào nghiên cứu cuộc thoại tự nhiên, và cùng công nhận tầm quan trọng của sự đa dạng liên văn hóa trong các chức năng của ngôn ngữ. Họ cũng được liên kết lại với nhau qua việc khẳng định rằng ngôn ngữ gắn chặt với văn hóa và xã hội loài người, và ở mức độ cao là tạo thành nên văn hóa và xã hội loài người”. Qua phát biểu trên, có thể nói một cách khái quát rằng, nội dung chính của ngôn ngữ học nhân chủng là nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. 1.2.3.1. Đôi nét về lịch sử vấn đề Trên thực tế, ngôn ngữ học nhân chủng đã trải qua một quá trình “dao động” trƣớc khi xác định đƣợc cho mình những nội dung nghiên cứu đặc thù ấy. Để xác định đƣợc nội dung nghiên cứu nói trên, ngôn ngữ học nhân chủng đã phải cùng các ngành khác trải qua một tiến trình nhận thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Chúng tôi tạm thời phân chia tiến trình nhận thức ấy thành các giai đoạn nhƣ sau. (1) Trƣớc hết, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa đã là đề tài truyền thống đƣợc rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, bản thân ngôn ngữ, văn hóa và xã hội đều là những sản phẩm cơ bản mang tính đặc trƣng chỉ có ở loài ngƣời. Có thể nhận thấy rằng trong thực tế luôn tồn tại một mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. “Là một thành tố của nền văn hóa tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hóa. Ngôn ngữ là một trong những thành 12
  15. tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hóa nào” [139,21]. Rõ ràng, tƣ cách là những yếu tố trong cùng một hệ thống đã nói rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và xã hội. (2) Mặc dù ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ tƣơng cận rõ ràng nhƣ vậy, song việc nhìn nhận và xem xét nó nhƣ một vấn đề nghiên cứu cụ thể thì phải đến đầu thế kỷ XIX mới đƣợc nêu lên. Chính vì vậy, khi bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, những tƣ tƣởng của Humboldt có thể coi là những đóng góp đầu tiên. Ông cho rằng về phƣơng diện xã hội, mỗi ngôn ngữ phản ánh những cách tƣ duy của dân tộc sử dụng nó, đồng thời nó cũng tác động đến tƣ duy đó. Ngôn ngữ là công cụ tổ chức và hƣớng dẫn thế giới quan của ngƣời nói. Không những chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy nhƣ thế, Humboldt còn nhấn mạnh rằng “ngôn ngữ và tư duy của một dân tộc không tách rời nhau… Ngôn ngữ và tư duy dựa vào nhau không thể phân tách. Vì thế sự khác nhau giữa các ngôn ngữ sẽ dẫn đến sự khác biệt trong cách lý giải hay giải thích về thế giới khách quan…những người không nói những ngôn ngữ giống nhau sống ở những địa bàn khác nhau sẽ có hệ thống tư duy khác nhau” [112,97-98]. Quan điểm này sau đó đã ảnh hƣởng nhiều đối với giả thuyết về tính tƣơng đối của ngôn ngữ mà Sapir và Whorf chủ trƣơng. Cùng với Humboldt, các nhà tƣ tƣởng thuộc trào lƣu triết học Khai sáng Đức nhƣ Immanuent Kant, Johann Gottfried Heider v.v (cũng có thể coi họ nhƣ là những ngƣời đầu tiên đề cập đến vấn đề ngôn ngữ gắn chặt với tƣ duy) đã có một quan niệm tƣơng tự nhƣ vậy. Trong số đó, Heider cho rằng ngôn ngữ là tài sản riêng biệt của một dân tộc sản sinh ra nó. Ngƣời ta nói rằng với quan niệm đó, ông là ngƣời gieo mầm cho tƣ tƣởng hoàn chỉnh của Humboldt. Nhƣ vậy, tƣ tƣởng đƣợc coi là chủ đạo tuy là do Humboldt phát biểu nhung thực chất là bắt nguồn từ trào lƣu triết học Khai sáng Đức. 13
  16. Liên quan đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã có những thông tin mang tính gợi mở. Trong cuốn “Bách khoa thƣ quốc tế về ngôn ngữ học” [157], tác giả Jane.H.Hill cho rằng việc xác định “ông tổ” của lĩnh vực đa dạng này rất phức tạp. Nó có thể bao gồm cả các nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa chức năng của trƣờng phái Praha, theo chủ nghĩa cấu trúc Mỹ “Bloomfield mới”, các nhà nghiên cứu thổ ngữ học và tâm lý học xã hội. Nhƣng thông qua việc xác định này, ngƣời ta sẽ hiểu rõ hơn mối quan hệ nhƣ là nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng. Cũng có thể kể ra một số công trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu Anh nhƣ các công trình của Malinowski về chức năng các ngôn ngữ “nguyên thủy”, nghiên cứu của Bloch về các bài diễn thuyết chính trị trong các xã hội truyền thống, nghiên cứu xuyên văn hóa của Goody về ảnh hƣởng của kỹ năng đọc viết. Ở Pháp, ngƣời ta có thể kể đến công trình của Claude Lévi Strauss về phân tích cấu trúc huyền thoại, các nghiên cứu về ngôn ngữ Dogon ở Tây Phi của Calame –Griaule, nhân chủng học tri nhận của Sperber. Bên cạnh đó, có thể coi lý thuyết xã hội của các học giả Pháp ít nhiều có liên quan đến nội dung này, ví dụ nhƣ đề xuất của Pierre Bourdieu rằng các dạng thức ngôn ngữ có thể tạo thành một dạng “vốn ký hiệu” hay nhƣ quan niệm của Michel Foucault về các giới hạn diễn đạt đƣợc tạo thành thống qua những dạng thức cấu tạo đƣợc gọi là “trật tự diễn ngôn” [157,65]. Ngoài ra, ngƣời đƣợc coi là cha đẻ của ngôn ngữ học hiện đại Ferdinand de Saussure cũng đã có những đóng góp to lớn cho ngôn ngữ học hậu cấu trúc, trong đó có ngôn ngữ học nhân chủng. F. Saussure đã khá cực đoan khi quan niệm ngôn ngữ là một hệ thống siêu hình đóng kín, bao gồm các quan hệ thuần tuý phi vật chất. Thế nhƣng, trong đó, ông vẫn thể hiện ra 14
  17. những tƣ tƣởng gieo mầm cho một hệ thống lý thuyết ngôn ngữ học mới khi ông “thừa nhận: "Phong tục của một dân tộc có tác động đến ngôn ngữ, và mặt khác, trong một chừng mực khá quan trọng, chính ngôn ngữ làm nên dân tộc" [107,47]. Cuốn sách “Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng” cũng đã thể hiện những ý kiến của ông về vai trò của "ngôn ngữ học ngoại tại" và về tầm quan trọng của "tài liệu ngôn ngữ đối với nhân loại học và tiền sử học”. 1.2.3.2. Nội dung nghiên cứu của ngôn ngữ học nhân chủng Mặc dù có nhiều học giả quan tâm nhƣ vậy, nhƣng phải nhờ đến những cống hiến của Boas và các học trò của ông là Sapir và Whorf, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa mới thực sự bắt đầu. Và chính họ đã tạo ra một trƣờng phái trong ngôn ngữ học có tên gọi là “Trƣờng phái tƣơng đối ngôn ngữ học” với “Nguyên lý tƣơng đối ngôn ngữ học” hay còn gọi là “Giả thuyết Sapir-Whorf”. Khi nói về giả thuyết này, cần phải điểm qua ba tên tuổi sau. (1) Franz Boas (1858-1942). Tất cả các tài liệu ngôn ngữ học nhân chủng đều thừa nhận rằng, ông đƣợc xem là ngƣời có công đặt nền móng cho sự ra đời của nhân chủng học nói chung và ngôn ngữ học nhân chủng nói riêng. Khác với các nhà nghiên cứu châu Âu đƣơng thời, Boas tập trung nghiên cứu ngôn ngữ thổ dân châu Mỹ thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau. Các kết quả nghiên cứu điền dã ngôn ngữ đã giúp ông nhận ra rằng có một sự khác biệt rất lớn trong văn hóa và các phạm trù của đời sống phản ánh trong văn hóa của họ. Từ đó, ông đã rút ra nhận xét rằng, ngƣời ta không thể thực sự hiểu một nền văn hóa nếu không tiếp cận trực tiếp với ngôn ngữ của nền văn hóa ấy. Và vì thế, thực sự cần thiết phải có những nghiên cứu ngôn ngữ học và đó không chỉ là một yêu cầu mang tính lý thuyết mà còn là một yêu cầu thực tế bởi chính mối liên hệ gần gũi giữa văn hóa và ngôn ngữ. 15
  18. (2) Edward Sapir (1884-1939). Những đóng góp của Sapir không chỉ là về các ngôn ngữ của thổ dân da đỏ châu Mỹ mà là đối với cả nghiên cứu ngôn ngữ nói chung. Darnell cho rằng Sapir có thể đƣợc coi nhƣ là học giả nổi tiếng nhất của ngôn ngữ học nhân chủng [158]. Theo đó, Sapir là ngƣời kế thừa và mở rộng nghiên cứu của Boas. Chính ông dành nhiều sự chú ý đối với cấu trúc ngôn ngữ và nhấn mạnh cách mỗi ngôn ngữ tự mình trở thành một hệ thống hoàn chỉnh và hoàn hảo mà nếu muốn hiểu đƣợc nó phải sử dụng chính những “thuật ngữ” của nó. Nói một cách khác, cái mà ông đi tìm chính là lôgic nội tại của ngôn ngữ. (3) Benjamin Lee Whorf (1897-1941). Đóng góp nổi tiếng nhất của ông đối với lý thuyết ngôn ngữ học là chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa - tƣ duy và quan điểm nhìn nhận thế giới (worldview). “Đối với Sapir, mối quan hệ giữa tư duy, văn hóa và ngôn ngữ chỉ là một trong những quan tâm của ông. Nhưng đối với Whorf thì đó là tất cả sự nghiệp ngôn ngữ học của ông. Ông không những làm nổi rõ những tư tưởng của Sapir về cả mặt nội dung cũng như về cả phương diện các ngữ liệu cụ thể minh họa, mà hơn nữa ông còn phát triển chúng thành một hệ quan điểm học thuật độc đáo, và điều chủ yếu nhất là những kết luận hết sức lôgic được rút ra từ đó” [115,25]. Luận điểm xuất phát của Whorf đã nêu ra vấn đề mối quan hệ tƣơng đối giữa ngôn ngữ - tƣ duy - văn hóa, và chính mối quan hệ này cũng là mối quan tâm của ngôn ngữ học nhân chủng sau này. Bởi vậy, ngƣời ta mới nói rằng, giả thuyết Sapir - Whorf chính là nền tảng căn bản để xây dựng lý thuyết ngôn ngữ học nhân chủng. Nội dung chính của giả thuyết Sapir - Whorf đƣợc phản ánh qua trích dẫn quan trọng sau đây: “Con người không chỉ sống trong mỗi một thế giới khách quan của các sự vật, cũng không chỉ sống trong thế giới của các hoạt động xã hội như vẫn thường nghĩ, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào một ngôn 16
  19. ngữ cụ thể vốn là phương tiện giao tiếp trong xã hội của họ. Sẽ chỉ là ảo tưởng nếu cho rằng con người có thể thích nghi với thực tại về cơ bản không cần sử dụng ngôn ngữ và rằng ngôn ngữ chỉ đơn thuần là một phương tiện thứ yếu trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể của giao tiếp hay tư duy. Sự thật của vấn đề ở đây là cái thế giới “thực” ấy phần lớn được hình thành một cách vô thức trên nền những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng. Chúng ta nghe, thấy, hay nói cách khác là trải nghiệm như thế chủ yếu là do những thói quen ngôn ngữ của cộng đồng đã làm cho chúng ta có những cách lựa chọn như thế” [Edward Sapir – trích từ [63,11]. Tƣ tƣởng trên của Sapir đƣợc B.Whorf phát triển thêm trong bài viết “Mối quan hệ giữa tư duy và hành vi thông lệ trong ngôn ngữ (The Relation of Habitual Thought and Behavior to Language)”. Bài viết của ông bao gồm hàng loạt các ví dụ để trả lời cho các câu hỏi chẳng hạn nhƣ tên gọi tình huống ảnh hƣởng đến hành vi nhƣ thế nào, hay các mô hình ngữ pháp trong vai trò lý giải kinh nghiệm ra sao, và đặc biệt trong bài viết có rất nhiều ví dụ từ các ngôn ngữ Sae và Hopi nhƣ: số nhiều và phạm trù số đếm, danh từ chỉ số lƣợng vật thể, các giai đoạn của chu kỳ, hình thức diễn đạt của động từ v.v. Tƣ tƣởng của Whorf phản ánh đầy đủ và có thể nói là đậm đặc thông qua các ví dụ. Song, do cách viết của ông không hề đơn giản và dễ hiểu, nên rất khó tìm đƣợc một trích dẫn tiêu biểu. Nhƣng dù vậy, bất kỳ ai đọc bài báo của ông cũng đều nhận thấy rằng, điều mà Whorf muốn nói là ngôn ngữ có ảnh hƣởng đến cách suy nghĩ của ngƣời sử dụng nó. Mỗi một ngƣời nói một thứ ngôn ngữ khác nhau sẽ có những thói quen suy nghĩ khác nhau, hay ngôn ngữ sẽ quyết định cách tƣ duy của ngƣời nói thứ ngôn ngữ đó. Vậy là “Ngôn ngữ được phú cho một quyền năng thực bao trùm tuyệt đối: nó xác lập các tập quán (chuẩn mực) của tư duy và của hành vi, nó chi phối sự hình thành các phạm trù lô gíc, nó kèm cặp và dẫn dắt con người trong mọi hoạt động xã 17
  20. hội và cá nhân…Các quá trình tư duy khái niệm luôn luôn diễn ra trong hình thức ngôn ngữ, vậy mà các cấu trúc ngôn ngữ thì khác nhau, cho nên điều này tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ là tạo ra ở những người nói các ngôn ngữ khác nhau những chuẩn mực tư duy khác nhau” [115,26]. Chính bởi khẳng định vai trò tuyệt đối của ngôn ngữ trong việc quyết định sự hình thành tƣ duy của mỗi một cộng đồng mà giả thuyết Sapir - Whorf còn đƣợc gọi là “Giả thuyết về tính tƣơng đối của ngôn ngữ” hay “Ngôn ngữ quyết định luận”. Cách nhìn nhận nhƣ vậy đã mang lại một bƣớc tiến mới đối với nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội. Trƣớc đấy, ngƣời ta chỉ nhận thấy giữa ngôn ngữ, văn hóa và tƣ duy có quan hệ với nhau. Giả thuyết Sapir Whorf đã tiến thêm một bƣớc là chỉ ra sự tác động qua lại lẫn nhau trong mối quan hệ ấy. Bƣớc sang nửa cuối của thế kỷ XX, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, giữa ngôn ngữ và xã hội mới dành đƣợc sự quan tâm đặc biệt. Ngƣời ta gọi đó là cuộc “Cách mạng ngôn ngữ học nửa sau thế kỷ XX” [25]. Sở dĩ đƣợc gọi là cuộc cách mạng là vì có sự đổi mới trong nghiên cứu ngôn ngữ, mà cụ thể là là do việc đổi mới trong quan niệm về ngôn ngữ. Thời kỳ này, sự đa dạng của ngôn ngữ vốn bị các nhà ngôn ngữ học cấu trúc thuần túy nhƣ Saussure gạt ra khỏi đối tƣợng nghiên cứu của mình thì nay lại trở thành mối quan tâm chính của ngôn ngữ học. Trong cuộc Cách mạng cuối thế kỷ XX đó, có các công trình nổi tiếng. Ví dụ nhƣ công trình của Micheal Silverstein lý giải cách thức ngôn ngữ liên hệ với văn hóa. Hay nhƣ nghiên cứu của Erving Goffman về việc sử dụng ngôn từ để diễn tả thể diện (face). Hoặc nhƣ nghiên cứu của Gumperz về ứng xử ngôn từ trong các cộng đồng giao tiếp v.v. Vào thời điểm này, giả thuyết Sapir - Whorf không phải đƣợc tất cả các nhà ngôn ngữ học công nhận và tán đồng. Nhiều công trình đã đƣợc tiến hành 18
nguon tai.lieu . vn