- Trang Chủ
- Kế toán - Kiểm toán
- Nghiên cứu tác động của việc áp dụng mô hình thống kê tài chính chính phủ vào kế toán công tại Việt Nam trong tiến trình hội nhập
Xem mẫu
- NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG MÔ HÌNH THỐNG KÊ TÀI
CHÍNH CHÍNH PHỦ VÀO KẾ TOÁN CÔNG TẠI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP
EFFECTS OF THE APPLICATION OF THE GOVERNMENT FINANCE
STATISTICS ON VIETNAMESE PUBLIC SECTOR ACCOUNTING IN THE
INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION
TS. Phạm Quang Huy
Trường Đại học Kinh Tế Thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Số liệu thống kê của một quốc gia có nguồn gốc từ hệ thống tài chính và kế toán khu vực công
cung cấp cũng như xử lý. Đây là cơ sở để các đối tượng sử dụng như chính phủ các quốc gia,
chính quyền hay ban lãnh đạo đơn vị ra các quyết định kinh tế cần thiết. Một trong những mô
hình được Quỹ tiền tệ thế giới và nhiều tổ chức toàn cầu triển khai chính là Thống kê tài
chính chính phủ (GFS). Để thực hiện thành công tại Việt Nam thì chính phủ cần có sự kết hợp
đồng bộ với chuyển đổi các nội dung trong kế toán công. Trên thực tế, Việt Nam vẫn chưa có
nghiên cứu về sự tác động của việc áp dụng này thông qua các cơ sở lý thuyết khoa học một
cách rõ ràng. Sử dụng phương pháp tổng hợp về các công trình nghiên cứu và định lượng
hóa phần cơ bản, bài viết đã giới thiệu phần tổng quan cơ sở lý thuyết khá đầy đủ về mô hình
GFS trong mối quan hệ với kế toán công Việt Nam, đồng thời kiểm định cơ bản các nhân tố
tác động khi áp dụng mô hình này. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 3 nhóm nhân tố trong 10
biến độc lập về tình hình tài chính, kế toán công mà Việt Nam cần cân nhắc giải quyết trong
thời gian tới nhằm hướng đến một nền tài chính minh bạch và hiệu quả.
Từ khóa: kế toán công, thống kê tài chính chính phủ, mô hình GFS, tài chính công, minh
bạch
Abstract
The official statistics of a country are derived from the financial system and public accounting
sector which they give the provision and treatment. This is the basis for bodies to use such as
the national government, state agencies or the board of management who make necessary
economic decision. One of these models which are used and implemented by International
Monetary Fund as well as some global organizations is the model of Government Financial
Statistics (GFS). To perform successfully in Vietnam, the government needs the combination
completely together with converting the content of public sector accounting. In fact, Vietnam
has a little study about the impact of the application of this model through scientific
theoretical basis explicitly. Using the method of synthesis and quantitative method in some
basic parts, the aim of this article presented an overview basis rather comprehensive to
theory GFS model in relation to the public accounting in Vietnam; and basic inspection some
factors that impact the application of this model. The study results showed that there are 3
groups of 10 independent variables of the financial situation, public accounting that Vietnam
should consider to be addresses in the near future to move forwards a transparent and
efficient financial background.
Key words: public accounting, government financial statistics, GFS model, public finance,
transparency
307
- 1. Giới thiệu
Theo chuẩn mực quốc tế, các nhà khoa học đã khẳng định rằng, một trong những vai trò quan
trọng của khu vực công chính là yếu tố về việc lập báo cáo tài chính và thống kê các chỉ tiêu
của quốc gia (Mortimer, 2001). Trong lĩnh vực nghiên cứu và khoa học trên thế giới ở giai
đoạn hiện nay, đã và đang có khá nhiều khái niệm khác nhau được đưa ra để hiểu như thế nào
là một khu vực công. Nhìn chung, có thể hiểu khu vực công là một khái niệm được dùng để
xác định một tập hợp gồm có các cơ quan quản lý nhà nước của quốc gia, các tổ chức và
doanh nghiệp công và cả hệ thống ngân hàng trung ương. Đây được xem là một thành phần cơ
bản và không thể thiếu của nền kinh tế và cuộc sống xã hội. Thông qua khu vực này, chính
phủ chịu trách nhiệm chính và thực hiện việc phân phối hàng hóa và dịch vụ công đến mọi
miền trong cả nước. Nói cách khác, khu vực công được xem là một bộ phận hoặc một thành
phần của nền kinh tế có liên quan đến việc cung cấp các sản phẩm công cơ bản.
Khu vực công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của một quốc gia mà
chính phủ cũng cần có sự quan tâm về mặt điều hành, hướng dẫn, ưu tiên một số lĩnh vực và
thúc đẩy quá trình thực thi nhiệm vụ đạt được sự hữu hiệu. Khu vực công luôn là thành tố
thiết yếu trong nền kinh tế một vùng, lãnh thổ cũng và không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia
nào và đóng một số vai trò cơ bản sau:
• Thứ nhất, hướng đến sự phát triển của kinh tế: hiện nay, một tỷ trọng không nhỏ tại
các nước thì sự phát triển kinh tế phụ thuộc khá lớn vào sự phát triển của các ngành
công nghiệp cơ bản và công nghiệp nặng, chẳng hạn như sắt, thép, vận tải biển, khai
thác mỏ…bởi những ngành này sẽ cung cấp nguyên liệu thô cho các doanh nghiệp nhỏ
và vừa. Để vận hành được những doanh nghiệp trong lĩnh vực này thì cần một lượng
vốn khổng lồ và điều này chỉ có thể được tài trợ bởi hệ thống tài chính khu vực công
của chính phủ.
• Thứ hai, hướng đến sự phát triển vùng, khu vực: các doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân thường sẽ bỏ qua sự quan tâm đối với những vùng nghèo khó hoặc lạc hậu,
nhưng đối với các đơn vị công thì lại được giao hoàn thành đầy đủ các nhiệm vụ trên
tất cả mọi vùng trong cả nước. Bằng cách này, khu vực công giúp giảm dần và hướng
đến loại bỏ sự mất cân bằng giữa các khu vực và mang lại sự phát triển chung cho
quốc gia.
• Thứ ba, tạo việc làm cho nhân công: các khu vực công thì cũng cần một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức làm việc với số lượng không nhỏ. Ngoài ra trong khu vực
công cũng cần tuyển dụng nhân sự với đa dạng các trình độ khác nhau. Điều này sẽ
cung cấp một lượng việc làm khá lớn cho các cá nhân trong xã hội.
• Thứ tư, không vì mục đích lợi nhuận: các tổ chức trong khu vực công đang hoạt động
trong nhiều lĩnh vực, cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội mà không có sự
quan tâm, cân nhắc đến mức lợi nhuận mà tổ chức có thể đạt được.
• Thứ năm, bảo vệ một số rủi ro cơ bản trong quá trình hoạt động: một số ngành nghề
mang tính chất đặc thù do điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng cũng như nguồn vốn nên
một số lĩnh vực đòi hỏi sự độc quyền nhất định. Đồng thời, một số rủi ro cơ bản trong
hoạt động sẽ được nhà nước, chính phủ có thể đảm bảo.
308
- Đi vào chi tiết, trong công trình nghiên cứu của nhiều quốc gia đang hoặc đã phát triển, tài
chính công của một nước vẫn chưa cung cấp thông tin đáng tin cậy bởi do hệ thống kế toán
công chưa được thay đổi phù hợp với quy định chung của quốc tế cũng như ứng dụng được
những công cụ tích hợp vào cùng hệ thống (Pedregal, 2010). Ngoài ra, hiện tại ở Việt Nam hệ
thống kế toán công vẫn chưa thật sự hình thành, mỗi đơn vị công khác nhau lại đang sử dụng
một chế độ kế toán có sự khác biệt, chưa có chuẩn mực chung cho khu vực công
(Fenella, 2009).
Do đó, việc thống kê số liệu tài chính toàn chính phủ vẫn còn có nhiều nội dung chưa thể thực
hiện, hoặc giả như có thể tính toán thì cũng sẽ đem lại sự khó hiểu cho người đọc những
thông tin này do tính chất không nhất quán về cơ sở kế toán. Thêm vào đó, tài khoản kế toán
quốc gia về ngân sách nhà nước luôn có mối quan hệ chặt chẽ với việc thống kê trong từng
cấp độ của chính phủ. Việc này cho thấy tài chính chính phủ để cho việc thống kê đạt được
tính hiệu quả thì cần phải kết hợp với hệ thống kế toán khu vực công (Thushyanthan, 2013).
Với những nội dung trên có thể thấy rằng việc nghiên cứu ứng dụng mô hình thống kê tài
chính chính phủ vào kế toán công là phù hợp với khoảng trống nghiên cứu hiện nay tại Việt
Nam.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích
Tại các nước thuộc khu vực châu Phi, họ tin rằng khi áp dụng mô hình GFS sẽ hướng đến
việc tác động vào quá trình áp dụng chuẩn mực kế toán công của quốc gia (Timothy, 2015).
Họ đưa ra một bộ các nhân tố được thay đổi nếu áp dụng theo một quy trình chuẩn chung
trong tài chính của đất nước, đó là khung 5 nhân tố SPART. Đi vào chi tiết, họ giải thích rằng,
khi các nước có một chế độ thống kê rõ ràng về những thông tin do hệ thống kế toán khu vực
công sẽ có thể đáp ứng được 5 tính chất:
• Áp dụng một cách đồng bộ và trọn vẹn bộ chuẩn mực kế toán công quốc tế
(Standards).
• Các tổ chức công đảm bảo hoạt động hướng đến sự tiết kiệm và kinh tế (Public
organization).
• Trách nhiệm giải trình của khu vực công sẽ được gia tăng (Accountability).
• Các đơn vị công sẽ quản trị được những rủi ro trong quá trình hoạt động (Risk
Management).
• Tăng sự sự minh bạch thông tin trình bày trên báo cáo tài chính khu vực công
(Transparency).
Trên cơ sở các yếu tố tác động đó, nhiều nước và tổ chức thế giới lựa chọn việc thống kê lĩnh
vực tài chính của chính phủ thông qua phần mềm FreeBalance do Quỹ tiền tệ quốc tế hướng
dẫn giúp chính phủ các nước thiết lập (Kawika và cộng sự, 2015). Chương trình này hiện nay
được khá nhiều nước sử dụng, chẳng hạn như Kosovo, Mongolia, East Timo, Canada, Mỹ…
Kết cấu của phần mềm hệ thống này chính là được tích hợp kể cả các trường hợp chung và
đặc biệt trong kế toán ngân sách, hành chính sự nghiệp và các đơn vị đặc thù. Ngoài ra, để
đáp ứng theo yêu cầu của bộ chuẩn mực IPSAS, chương trình còn cho phép người sử dụng có
309
- thể lựa chọn cơ sở kế toán thực hiện ghi nhận các giao dịch là cơ sở dồn tích hoặc tiền mặt.
Việc áp dụng chương trình này hướng đến một số ưu điểm sau:
• Được sử dụng cho hầu hết các loại hình chính phủ có quy mô từ lớn đến nhỏ.
• Cung cấp 1 hệ thống tài khoản quốc gia phù hợp chuẩn quốc tế để phục vụ công tác
thống kê.
• Các khoản mục và mục lục của quốc gia được ghi chép một cách tách biệt và dễ dàng
theo dõi.
• Cung cấp một số nội dung về việc trách nhiệm giải trình của ban quản lý và lãnh đạo
đơn vị.
• Đối với việc hạch toán và lập báo cáo thì chương trình cho phép linh hoạt theo từng
quốc gia.
Theo Arvind và Annette (2015), đối với các đơn vị công trong quá trình hoạt động, bên cạnh
chương trình trên, Quỹ tiền tệ thế giới và Ngân hàng thế giới cũng đề xuất các nước nếu muốn
xây dựng hệ thống kế toán công hiện đại, chính phủ có thể sử dụng hệ thống tài khoản kho
bạc quốc gia (Treasury Single Account - TSA). Nội dung này được các tổ chức nghiên cứu
thừa nhận rằng sẽ cung cấp thông tin đáng tin cậy cao cho việc đưa ra quyết định khi căn cứ
vào các thống kê, tính kiểm soát cao của hệ thống giúp có thể tích hợp một cách đầy đủ các
chuẩn mực quốc tế vào các khoản mục mà kho bạc phụ trách toàn quốc gia (Rosa & Vicente
& Santiago, 2016).
Theo nhà khoa học Vincent và các cộng sự (2007), nếu các nước thực hành việc tích hợp toàn
bộ hệ thống GFS vào hệ thống kế toán công của một quốc gia mà chủ yếu chính là kế toán
kho bạc và ngân sách thì việc lập các báo cáo tài chính cũng như báo cáo quyết toán sẽ được
thực hiện một cách nhanh chóng, hướng đến việc có thể tiếp tục thực hiện theo những chuẩn
quốc tế như lập kế hoạch tài chính trung dài hạn hoặc kế toán công quốc gia theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quan hệ giữa GFS với việc lập dự toán trong kế toán công
310
- Nguồn: Vincent (2007)
Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng, GFS khi được áp dụng sẽ kết hợp một cách chặt chẽ
giữa thông tin kinh tế vĩ mô, chương trình của quốc gia định kỳ hàng năm và trung dài hạn,
lập dự toán ngân sách sẽ tác động trực tiếp đến kế toán công (Allan, 2011). Qua đây sẽ giúp
hệ thống kế toán được bền vững, thông tin nhanh chóng, đáng tin cậy cũng như có sơ sở tra
cứu dễ dàng.
Dựa vào những thông tin do hệ thống GFS cung cấp, kế toán tiến hành xử lý rồi sau đó
lại chuyển về hệ thống để làm cơ sở cho những quy trình tiếp theo (Nwosu & Okafor, 2015).
Điều cần lưu ý chính là hệ thống này sẽ cung cấp được cho đơn vị sử dụng một hướng đi để
xem xét các chính sách công theo ba khía cạnh gồm chương trình nghị sự chung, theo nhiệm
vụ và chức năng của các đơn vị công, và theo từng khu vực quản lý trong các bang, địa
phương hay tỉnh thành, quận huyện. Nội dung này khái quát trình bày theo sơ đồ của 3 nhóm
chức năng trên như sau:
Sơ đồ 2: Quy trình điều hành chính sách công quốc gia theo ba cơ sở chính
311
- Nguồn: Nwosu & Okafor, 2015
Với 3 cơ sở cho ban lãnh đạo đơn vị công lựa chọn cho hệ thống báo cáo của tổ chức
mình, chương trình có thể cung cấp một bộ dữ liệu đầy đủ gồm 10 báo cáo chính chủ yếu như
sau: Mục tiêu chiến lược chính phủ; Kế hoạch phê duyệt chương trình quốc gia; Mục tiêu
phân cấp dịch vụ bộ ngành; Sứ mệnh của từng chương trình; Chỉ số đầu ra và đo lường hoạt
động; Quy trình phân phối đầu ra dịch vụ; Quản trị ngân sách hiệu quả trong năm tài chính;
Bảng tính toán chi phí hoạt động; Quản trị nguồn lực hiệu quả; Báo cáo hoạt động và quản lý
tài sản nguồn lực (Samuel và cộng sự, 2015).
Tóm lại, các chính sách công thuộc về vấn đề kinh tế vĩ mô của một quốc gia sẽ được
xử lý một cách trọn vẹn trong quá trình xử lý nghiệp vụ của hệ thống kế toán công với sự tác
động tích cực của hệ thống GFS. Nó sẽ tạo 4 chiều tác động đến tài chính của một nước, gồm
việc đạt được sự hữu hiệu tối ưu trong các chỉ tiêu công, cung cấp sản phẩm dịch vụ công chất
lượng, gia tăng tính cạnh tranh của quốc gia và cung cấp thông tin tin cậy đến người sử dụng
một cách nhanh chóng. Do đó, khung phân tích chính của bài viết chính là xem khi áp dụng
hệ thống GFS của Việt Nam sẽ tác động như thế nào đến kế toán công và sẽ thông qua những
yếu tố nào.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Theo báo cáo ngân sách Hoa Kỳ cần phải khẳng định rằng hệ thống GFS là một hệ
thống lập báo cáo mang tính thống kê, cung cấp thông tin cho từng lĩnh vực của một quốc gia
và nó không phải là một chế độ kế toán công. Tuy nhiên, việc nghiên cứu hệ thống GFS tác
động đến kế toán công là phù hợp theo cơ sở lý thuyết trên bởi nó có mối quan hệ chặt chẽ
giữa ba bộ phận là GFS, GFMIS và IPSAS sẽ tiến hành đồng bộ trong một chính phủ. Theo lý
luận chung này, giả thuyết nghiên cứu đề xuất là:
312
- HO: Áp dụng thống kê tài chính chính phủ tác động cùng chiếu tích cực đến việc áp
dụng chuẩn mực kế toán công quốc tế tại Việt Nam.
Để kiểm định giả thuyết này thì câu hỏi nghiên cứu đặt ra chính là: nhân tố nào tác
động đến việc áp dụng hệ thống thống kê tài chính chính phủ tại Việt Nam. Từ đó, phương
pháp nghiên cứu sử dụng trong bài viết là phương pháp hỗn hợp, có sự kết hợp giữa định tính
và định lượng. Trong phương pháp định tính, bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp
tài liệu cho phần tổng quan tài liệu nghiên cứu để cung cấp những cơ sở lý luận chung cho
nghiên cứu. Đối với phương pháp định lượng, bài viết đã tiến hành khảo sát 81 kế toán viên
(tổng số mẫu phát ra là là các cán bộ công chức đang công tác tại một số đơn vị công để hỏi
xem tính tác động của GFS đến công tác kế toán của đơn vị.
3. Thực trạng tại Việt Nam về Thống kê tài chính chính phủ
Xét về lĩnh vực kế toán công hiện nay tại Việt Nam, có thể thấy rằng Việt Nam chưa
ban hành bộ chuẩn mực kế toán riêng cho khu vực công. Mỗi nhóm đơn vị công hiện nay
đang thực hiện theo một chế độ kế toán mang tính đặc thù và khác nhau, chẳng hạn như kế
toán các đơn vị hành chính sự nghiệp, kế toán bảo hiểm xã hội, hoặc kế toán ngân sách và kho
bạc nhà nước… Tuy nhiên, theo định hướng trong thời gian tới, Việt Nam sẽ có bộ chuẩn
mực kế toán công quốc gia theo hướng tiếp cận quốc tế. Bởi do điều này nên dẫn đến việc
thống kê tài chính chính phủ hiện nay vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định do hệ
thống sổ sách, báo cáo và các chỉ tiêu trong từng nhóm đơn vị cũng có những điểm khác nhau
nhất định.
Cùng với khía cạnh kế toán công thì thực trạng về vấn đề thống kê tài chính của chính
phủ Việt Nam hiện nay cũng có những điểm cần xem xét. Cụ thể, ngày 29.01.2014, Thủ
tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg về việc tăng cường công tác thống kê Bộ
ngành. Chính phủ thừa nhận rằng các số thống kê trong thời gian qua chưa đạt được sự chất
lượng về mặt thông tin tài chính kế toán công. Chính phủ cho rằng vấn đề thống kê ảnh hưởng
đến công tác chỉ đạo và điều hành kinh tế xã hội của đất nước nhưng thật sự vẫn chưa như
mong đợi.
Do đó, nếu kết nối hai vấn đề trên tại Việt Nam hiện nay, mối quan hệ giữa hệ thống
GFS với hệ thống kế toán công quốc gia vẫn chưa được xác định một cách đầy đủ và bài bản.
Trên trang web của cơ quan Tổng cục thống kê, hiện tại trong mục “Khu vực tài chính chính
phủ” đang trình bày về các vấn đề chung liên quan đến công tác thống kê như: những yêu cầu
tiên quyết của chất lượng qua môi trường pháp lý, các nguồn lực về cơ sở vật chất, tính thống
nhất, phạm vi thống kê, phân loại ngành nghề… Tuy nhiên, có thể thấy vẫn chưa có sự phân
tích về tính kết nối giữa GFS và IPSAS. Điều này lại càng được khẳng định cho vấn đề
nghiên cứu khi trong hội thảo của Bộ tài chính vào ngày 14.07.2014 khi Kho bạc nhà nước tổ
chức để học hỏi kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Cố vấn quản lý
tài chính công Đông Nam Á và Chuyên gia tư vấn Australia.
Việt Nam hiện tại đang đứng trước những cơ hội lớn cũng như nhiều thách thức trong
bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa mạnh mẽ. Trong lĩnh vực tài chính tại Việt Nam hiện nay,
hệ thống mục lục ngân sách và chỉ tiêu báo cáo hiện hành qua nhiều năm đổi mới đã có rất
nhiều bổ sung, sửa đổi để dần chuyển hướng tiếp cận theo nội dung của chuẩn mực kế toán
công quốc tế, dù rằng nhìn chung các báo cáo ngân sách nhà nước vẫn phù hợp với điều kiện
313
- và yêu cầu quản lý và giám sát của Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu, khái niệm vẫn chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như vật tư đối với kế toán Việt Nam và hàng tồn kho
theo quốc tế cũng có định nghĩa và cách hạch toán khác nhau. Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới công
tác thống kê thu, chi quỹ ngân sách nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế về kế toán công
và thống kê tài chính chính phủ theo mẫu của Quỹ tiền tệ quốc tế là một yêu cầu cấp thiết
được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm.
Bộ tài chính hiện nay cũng mong rằng có thể Việt Nam có thể tăng cường năng lực
xây dựng Báo cáo thống kê tài chính Chính phủ và qua đó góp phần hỗ trợ thực hiện các cải
cách tài chính công của các đơn vị có liên quan. Theo đó, Việt Nam đang tiến hành soạn thảo
Sổ tay thống kê tài chính Chính phủ phiên bản mới cập nhật. Ngoài ra, chính phủ Việt Nam
cũng xác định rõ những khía cạnh công việc sẽ thực hiện gồm: định dạng mẫu báo cáo Thống
kê tài chính Chính phủ; liên kết giữa Thống kê tài chính Chính phủ và Chuẩn mực kế toán
công quốc tế; Phân loại Thống kê tài chính Chính phủ; Thống kê tài chính Chính phủ và nợ
công.
4. Kết quả nghiên cứu và một số gợi ý chính sách
4.1. Kết quả nghiên cứu
Bài viết chỉ nêu một số ít kết quả nghiên cứu chính để phục vụ cho việc đưa ra gợi ý
chính sách cho nghiên cứu. Theo đó, với những thực trạng trên và quá trình khảo sát thì phần
thống kê mô tả của một số câu hỏi được kết xuất theo phần mềm như sau:
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
T1-Dự án về hệ thống GFS là cần thiết cho kế toán công 81 1 5 3.19 1.034
T2-Hệ thống GFS gắn liền với hệ thống pháp luật 81 1 5 3.27 1.048
T3- Hệ thống GFS gắn liền với tính minh bạch thông tin 81 1 5 3.27 1.074
T4-Hệ thống GFS hỗ trợ công tác tài chính kế toán công 81 1 5 3.38 .982
T5-Hệ thông GFS gắn chặt quy trình lập và hoàn tất ngân sách 81 1 5 3.31 .989
T6-Hệ thống GFS có quan hệ tính chất trách nhiệm giải trình 81 1 5 3.37 1.062
Valid N (listwise) 81
Để chứng minh thêm sự độc lập trong các câu hỏi, tác giả tiến hành thực hiện phân
tích phương sai (ANOVA). Để thực hiện, tác giả đã sử dụng công cụ One way ANOVA để
kiểm định về mặt giá trị trung bình. Trong trường hợp này, các biến sử dụng cho công cụ này
lần lượt là các yếu tố theo từng phần của bảng câu hỏi. Kết quả kiểm định của phát biểu chủ
yếu được thể hiện với chi tiết như sau:
Sum of Mean
Squares df Square F Sig.
C1-GFS tác động trực tiếp đến kế toán công Việt Nam Between Groups 2.652 1 2.652 2.492 .008
Within Groups 296.970 279 1.064
Total 299.623 280
Các nhân tố tác động khi áp dụng hệ thống GFS vào kế toán công Việt Nam được xác
định bao gồm 7 tác động vào ba nhóm theo kết quả như sau:
314
- Rotated Component Matrixa
Component
1 2 3
Ke hoach chi tieu trung dai han (1) .501 .194 .186
Don vi thuoc khu vuc cong (2) .786 .016 .298
Thong ke so lieu chung quoc gia (3) .882 .360 .066
Quan tri rui ro (4) .643 .108 .091
Tinh minh bach (5) .043 .040 .862
Gia tang trach nhiem gia trinh (6) -.015 .456 .678
Ap dung chuan muc ke toan cong (7) .119 -.011 .760
Kiem soat chat luong thong tin tai chinh (8) .124 .764 .285
Doi ngu nhan vien ke toan va tai chinh cong (9) .176 .884 -.148
Cong bo thong tin tai chinh, ke toan cong qua cac mau bieu (10) .364 .689 .215
Dựa theo kết quả phân tích nhân tố, có thể đặt ra tên của những nhân tố này gồm (i)
các vấn đề thuộc quản lý chung tài chính, kế toán công; (ii) các lợi ích khi áp dụng chuẩn mực
kế toán công vào kế toán quốc gia và (iii) những khía cạnh cần xem xét thêm khi đi vào áp
dụng GFS trong mối quan hệ với kế toán khu vực công Việt Nam.
Với kết quả nghiên cứu này thì khẳng định rằng có sự tác động của việc áp dụng GFS
đến hệ thống kế toán công của một quốc gia. Việc tác động này sẽ ảnh hưởng đến nhiều nội
dung trong kế toán công, cụ thể theo từng mảng sau: (i) khuôn khổ pháp lý và cơ chế phối hợp
giữa các lĩnh vực công khác nhau tại Việt Nam để tạo ra nền tảng chung; (ii) chuyên môn và
nghiệp vụ kế toán theo từng khoản mục để vừa đáp ứng yêu cầu của chế độ kế toán và tạo sự
dễ dàng trong việc tích hợp vào báo cáo để có số liệu thống kê đúng thời điểm cần thiết; (iii)
nguồn nhân lực kế toán công có đủ kiến thức về kế toán lẫn cơ chế thống kê; (iv) hệ thống
công nghệ thông tin tích hợp trong lĩnh vực kế toán với chế độ báo cáo thống kê để tạo sự dễ
dàng truy xuất dữ liệu; (v) vấn đề về kiểm soát và bảo mật thông tin.
4.2. Một số gợi ý cho Việt Nam
Theo những nhân tố đã xác định được khi xem xét tác động của việc áp dụng hệ thống
GFS vào kế toán công của một quốc gia, kết quả cho thấy rằng việc ứng dụng là hoàn toàn
phù hợp với xu hướng chung của quá trình hội nhập hiện nay. Dựa vào những kết quả thu
được, bài viết xin hướng đến một số điểm mà Việt Nam cần xem xét khi áp dụng GFS trong
thời gian tới để tích hợp tốt nhất vào hệ thống kế toán khu vực công, gồm:
- Thành lập nhóm nghiên cứu các nội dung chuyên sâu về hệ thống GFS tại các quốc
gia.
- Triển khai chi tiết từng nội dung của GFS trong mối quan hệ với kế toán khu vực
công.
- Thực hiện theo từng nhân tố đã xác định trong bài viết để có một kết quả đồng bộ.
315
- - Áp dụng mô hình quản trị ngân sách để giảm rủi ro trong công tác điều hành ngân
sách.
- Xem xét việc ứng dụng các mô hình kinh tế vĩ mô về tài chính công vào lĩnh vực kế
toán.
- Nâng cao chất lượng của việc kiểm soát các thông tin do báo cáo chính phủ cung cấp.
- Đối chiếu giữa các phần hành trong thống kê tài chính với kế toán công để tạo ra điểm
chung.
Tóm lại, vấn đề nghiên cứu về việc kiểm tra sự tác động khi Việt Nam áp dụng hệ
thống thống kê tài chính chính phủ vào hệ thống kế toán công của quốc gia có một ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Bài viết đã cung cấp được những nội dung cần quan tâm khi tiến hành cân
nhắc áp dụng thông qua 5 mảng vấn đề chính với 7 điểm gợi ý cho chính phủ quốc gia có thể
triển khai các nghiên cứu chi tiết cho từng mảng nội dung và giải pháp này trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Allan, D. B (2011). Why Governments Should Use the Government Finance Statistics Accounting System.
Abacus, vol. 47, no. 4, pp. 411-445.
Arvind, K., Annette, V. J (2015). The impact of Treasury supply on financial sector lending and stability.
Journal of Financial Economics, vol. 118, no. 3, pp. 561-571.
Fenella, M. S (2009). Government financial liabilities beyond public sector net debt. Economic & Labour
Market Review, vol. 3, no. 1, pp. 43–50.
Kawika, P., Michael, L. H & Fred, T (2015). The Government Finance Database: A Common Resource for
Quantitative Research in Public Financial Analysis. PLOS One Review, vol. 10, no. 6.
Mortimer, A. D (2001). Behavioral aspects of government financial management. Managerial Auditing Journal,
vol. 16, no. 8, pp. 451–457.
Nwosu, M. E & Okafor, O. H (2015). Financial Management in Local Government: The Nigeria Experience.
International Journal of Financial Research, vol. 4, no. 4.
Pedregal, D. J (2010). Should quarterly government finance statistics be used for fiscal surveillance in Europe?.
International Journal of Forecasting, vol. 26, no. 4, pp. 794–807.
Rosa, M. D., Vicente, M & Santiago, M (2016). Government financial statistics and accounting in Europe: is
ESA 2010 improving convergence?. Public Money & Management, vol. 36, no. 3, pp. 165-172.
Samuel, G. H., Andrei, S., Jeremy, C. S., Robert, W. V (2015). Banks as patient fixed-income investors. Journal
of Financial Economics, vol. 117, no. 3, pp. 449-460.
Thushyanthan, B & Lars, P. F (2013). Fiscal Decentralization and Economic Growth in OECD Countries Is
There a Relationship?. Public Finance Review, vol. 41, no. 4, pp. 421-445.
Timothy, C. I (2015). Defining the Government's Debt and Deficit. Journal of Economic Surveys, vol. 29, no. 4,
pp. 711-732.
Vincent, C. B., Richard, G. & Vasilis S (2007). Dynamic Budgetary Adjustments in the Australian State
Government Finance Sector: An Econometric Approach. Journal of Economics and Management, vol. 3, no. 2.
316
nguon tai.lieu . vn