Xem mẫu

  1. CHƯƠNG 3 LỄ HỘI MIẾU BÀ CHÚA x ử NÚI SAM ■ I - CHÂU ĐỐC VÀ MIẾU BÀ CHÚA x ứ 1. Vài nét về phường Núi Sam và thị xã Châu Đốc Ngày nay du khách có thể đến với lễ hội miếu Bà Chúa Xứ khá dễ dàng. Từ thành phố Long Xuyên, có thể bắt xe buýt theo đường 91 đi Long Xuyên - Châu Đốc khoảng 60 km, hoặc có thể dùng xe máy chỉ hết 2 giờ là có thể đến thị xã Châu Đốc, từ đó vào miếu Bà chỉ còn 5 km. Nếu đi từ Tịnh Biên thì theo ngả Nhà Bàng là con đường dẫn đến sát biên giới Cămpuchia, còn đi theo đường thuỷ từ Sóc Trăng hay Cần Thơ, Kiên Giang lên, hay từ thành phố Hồ Chí Minh xuống, đến bến đò Châu Giang, rồi lên bờ vào Miếu Bà dự hội. Lễ hội Bà Chúa Xứ ngày nay, không còn là hội của dân làng VTnh Tế và tỉnh An Giang nữa, mà còn có khách thập phương từ khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và nhiều nơi khác như các tỉnh miền Đông, Nam bộ, miền Trung, miền Bắc và đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, là nơi có số lượng người đến dự hội đông nhất. Miếu Bà hiện nay, thuộc địa phận phường Núi Sam của thị xã Châu Đốc, xưa thuộc đất làng Vĩnh Tế. Ngày nay, 197
  2. không gian của làng xưa chia thành một phường và m ột xã. Phường Núi Sam gồm 6 ấp (khóm): Vĩnh Tây I, Vĩnh Tây II, Vĩnh Đông I, Vĩnh Đông II, Vĩnh Phước và vinh Xuyên. Xã Vĩnh Tế nay có 4 ấp: Vĩnh Khánh I, Vĩnh Khánh II, Cây Châm và Bà Bài. Phường Núi Sam có diện tích 3,76 km2, trong tổng diện tích của thị xã Châu Đốc là 100,59 km 2. Đây là một thị xã vùng biên giới phía Tây Nam đất nước, thuộc tỉnh An Giang. Núi Sam là ngọn núi cao 234 m với chu vi là 5.200m, nổi lên giữa một vùng đổng bằng mênh mông của Đồng Tháp Mười, tạo nên một cảnh quan ngoạn mục, thu hút hàng vạn khách thăm từ khắp mọi miền đất nước. Khu vực miếu Bà lại nằm trong một quần thể di tích văn hoá, với nhiều di tích khác nhau, thị xã Châu Đốc nằm sát biên giới Cãmpuchia - Việt Nam, hiện đang được mở cửa trong xu thế hội nhập và đổi mới của tỉnh An Giang nói riêng và cả nước Việt Nam nói chung, nên trở thành một vị trí du lịch hấp dẫn đối với du khách. Chính nhờ sự phát triển của'lễ hội Bà Chúa Xứ, mà xã Vĩnh Tế xưa, nay đã trở ihành một đô thị sầm uất, một phường có tốc độ đô thị hoá mạnh mẽ của thị xã Châu Đốc. Ngày nay, bộ mặt của làng xưa đã bị nhạt nhoà trong những dãy nhà hàng, khách sạn và đường phố. Còn “Châu Đốc xưa kia là tỉnh lỵ, sau ngày giải phóng là thị xã thuộc tỉnh An Giang, gồm có 4 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ và 3 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Tế, Vĩnh Ngươn. Thị xã Châu Đốc nằm bên ngã ba sông thơ mộng, nhìn sang Cồn Tiên và xóm Châu Giang xanh rờn cây trái. Trước mặt thị xã là giao điểm của sông Châu Đốc và sông Hậu, sau lưng là dãy Thất Sơn hùng 198
  3. vĩ” 1. Đến nay đán số của thị xã Châu Đốc có khoáng hơn 100.00Ơ người. Dây là một tronc những trung tâm kinh tế của tỉnh An Giang. An Giang là một trong lục tỉnh của Nam Kỳ Irước đây (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên). Theo Đại Nam nhất thống chí thì “Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), lấy đất này cùng với huyện Vĩnh An, tỉnh Vĩnh Long đặt làm hai phủ Tuy Biên và Tân Thành, đặt 4 huyện Tây Xuyên, Phong Phú, Đônc Xuyên và Vĩnh An (Tây Xuyên, Phong Phú thuộc phủ Tuy Biên, Đổng Xuyên và Vĩnh An thuộc phủ Tân Thành) lập tỉnh An Giang, đặt chức An Hà tổng đốc thống lĩnh 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố chánh và Án sát”2. b- Các di tích của vùng núi Sam Vùng núi Sam bao gồm một quần thể di tích văn hoá - lịch sử nổi tiếng, như chùa Tây An, miếu Bà Chúa Xứ, chùa Hang, Pháo Đài, đồi Bạch Vân, đồi Đá Chẹt, vườn Tao Ngộ, miếu Son Thần, đặc biệt lãng Thoại Ngọc Hầu, đình Vĩnh Tế... - Chùa Tây An Là một ngôi chùa nguy nga, đồ sộ, đứng ngay trước mặt con đường trục chính từ thị xã Châu Đốc đi vào miếu Bà. Chùa có ba ngôi lầu, nóc tròn hình củ hành theo kiến trúc Ân Hồi, màu sắc sặc sỡ, nhưng hài hoà đẹp mắt. Ngôi giữa là 1 Châu D ố c í ự giới thiệu Văn n g h ệ Châu Đốc, 2003, tr. 10. 2 Theo: Lịch sử hình thành vùng đất An Giang, Kỉ yếu hội thảo khoa học, Baq Tuyên giáo tỉnh uỷ An Giang, sử Khoa học công nghệ và môi trường An Giang, 2000, tr 14. 199
  4. chánh diện thờ Phật, hai bên là lầu chuông và lầu trống. Đi qua một công viên nhỏ, bước lên bậc thềm, ta gặp ngay tượng người mẹ bồng con, miêu tả tích xưa Quan Âm Thị Kính. Trước sân chùa, có hai con voi bằng xi măng lớn như voi thật, con trắng sáu ngà, con đen hai ngà. Đông Lang ở phía phải, là chùa Địa Tạng thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát theo kinh Địa Tạng. Tây Lang là nhà khói rộng rãi trên nền đất cao, phía trước đặt hai tượng Quan Âm. ở chính điện thờ Phật theo dòng thiền Lâm tế, ngoài tượng Phật Thích Ca rất lớn ở giữa, còn có các=tượng Di Đà, Quan Âm, Tam Thế Phật, Đại Thế Chí... và các vị Bổ Tát. Hai bên và phía trước, là các vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương, Tam Hoàng Ngũ Đế... Phía sau thờ các vị sư trụ trì chùa Tây An, tượng tạc bằng gỗ uy nghiêm, hiền triết.Tại đây đáng lưu ý có tượng hoà thượng Thích Bửu Thọ, người có công lớn trong việc trùng tu chùa, được tạc sinh động như người thật, tay cầm gậy, ngồi bên bàn viết, cốt cách siêu phàm. Người được tôn là Phật thầy Tây An, là Pháp Tạng thiền sư, có tên là Đoàn Minh Huyên, sinh năm Đinh Mão (1807), quê quán làng Tòng Sơn, Sa Đéc, thuộc trấn Vĩnh Thanh xưa, nay là tỉnh Đồng Tháp. Ông đến chùa Tây An, trong thời kỳ thiền sư Hải Tịnh N guyễn Văn Giác trụ trì (đời thứ nhất) và được ngài Hải Tịnh thu nhận và ông đã làm được nhiều việc, nên được nhân dân tôn là Phật thầy. Bên hông chùa là đãy bảo tháp của các vị sư trụ trì, được xây dựng tôn nghiêm, cổ kính. Các tháp đó là của các vị Hải 200
  5. Tịnli (Nguyễn Vãn Giác), Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (Ncô Văn Hoà), Thích Bửu Thọ (Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (Hồ Thạch Hùng), Định Long (Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (Trần Văn Cung). Chùa Tây An do Tổng đốc An Hà, Doãn u ẩ n (tên thật là Doãn Ôn) xây dựng năm 1847, qua nhiều lần trùng tu, chùa trở thành m ột kiến trúc độc đáo của khu vực núi Sam, đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng3. - Lăng Thoại Ngọc Hầu Từ thị xã Châu Đốc đi vào khu di tích miếu Bà, khi đến trước núi Sam, du khách gặp ngay chùa Tây An, rẽ tay phải đi một đoạn, sẽ gặp lăng Thoại Ngọc Hầu ung dung đường bệ nằm bên sườn núi, mặt nhìn ra đường lớn, nhưng ở trên thềm cao với chín bậc thang xây bằng đá ong. Loại đá này được vận chuyển bằng ghe từ Biên Hoà, qua nhiều sông rạch vào kênh Vĩnh Tế rồi chuyển lên núi Sam. Chỗ ghe neo lại để lên đá, còn địa danh đến bây giờ gọi là bến Vựa, Nhà Neo. Lăng được xây bằng hồ ô đước (thời đó chưa có xi măng). Bao bọc quanh khu mộ, là một bức tường dầy cả mét, cao hơn đầu người, đã nhuốm rêu phong. Phía trước có hai cửa lớn theo kiểu kiến trúc lăng tẩm xưa, hai bên có hai hàng liễn đối. Phía sau là bậc thang đi lên đền thờ, được xây trên nền cao. Trong đền thờ có bài vị của Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân, có áo mão, cân đai của ông được phục chế và nhiều nghi 3 Clìâỉt ĐỐC tự giớ i thiệu, sđd, Văn nghệ Châu Đ ốc, 2003, tr.36. 201
  6. thờ với các bộ lư đổng. Mặt liền lăng là khoảng sân rộng, nổi bật cái long đình có bản sao bia Thoại Sơn. Trước long đình là khẩu súng thần công, bảng xếp hạng di tích và hai con nai bằng xi mãng, tôn thêm vẻ đẹp cho lãng. Trong lăng, chính giữa là mộ Thoại Ngọc Hầu, ông tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh năm Tân Tỵ (1761) tại huyện Diên Phưóc, tỉnh Quảng Nam. Thòi kỳ loạn lạc theo gia đình vào Nam, cư trú tại cù lao Dài trên sông c ổ Chiên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Long. Dưới triều Nguyễn, ông được cử làm Trấn thủ Vĩnh Thanh (gồm các tỉnh Châu Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long và một phần Kiên Giang). Ông đã có công lớn trong việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam. Ông đã để lại cho đời sau nhiều công trình lớn như: đắp lộ Núi Sam, đào kênh Thoại Hà dài hơn 30.000m ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm 1818, đào kinh Vĩnh T ế dài theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc - Hà Tiên, nối lưu thông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan dài hơn 90km. Bên phải mộ ông, là mộ bà vợ chính Châu Thị Tế, mất năm Bính Tuất (1826). Bên trái có ngôi mộ khiêm nhường hom là của bà vợ thứ Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt, mất năm Tân Tỵ (1821). Trước mỗi đầu mộ đều có bức bình phong, chân mộ là bia kí. Ở bức tường phía trước mộ, đặt bia đá Vĩnh Tế Sơn. Thoại Ngọc Hầu mất năm Kỉ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi. Trong nội lăng có 14 ngôi mộ và ngoại vi lăng cũng có khoảng 50 ngôi mộ, xây vói nhiều hình thức khác nhau: Voi phục, trái đào, cái nón... Đ ây là những ngôi mộ vô danh của 202
  7. những cận thần, thân tộc và những người có công đã chết trong cuộc đào kênh Vĩnh Tê gọi là Nghĩa trủng (đến nay còn lưu truyền bài tế Nghĩa trủng vãn đọc rất lâm ly, bi tráng). Ngoài những sắc phong của triều đình nhà Nguyễn và các văn bia Thoại Sơn, VTnh Tế Sơn, còn có bia “Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương” dựng tại núi Sam năm 1828 nhằm kỉ niệm ngày hoàn thành con lộ Châu Đốc - Núi Sam, ngày nay không còn nữa nhưng văn bia vẫn còn ghi trong sử sách4. - Chùa H a n g . Là tên gọi dân gian của Phước Điền tự, nằm riêng lẻ trên triền phía Tây núi Sam cách cụm di tích Tây An tự, miếu Bà và lăng Thoại Ngọc Hầu khoảng lkm nhưng là nơi cảnh quang thanh tịnh, ở độ cao vừa phải, có hang sâu với truyền thuyết Thanh xà, Bạch xà hấp dẫn khách thập phương. Trước chùa có hai ngôi bảo tháp màu sắc sặc sỡ, hài hoà chạm khắc công phu, đứng uy nghi trên triền núi. Phía dưói là bảo tháp của hoà thượng Thích Huệ Thiện, vị sư trụ trì đời thứ hai viên tịch năm 1990, thọ 86 tuổi, phía trên là bảo tháp của bà Thợ, người sáng lập ra Phước Điền tự. Ngôi bảo tháp này được xây dựng năm 1899. Bà Thợ sinh năm Mậu Dần (1818), quê quán Chợ Lớn, làm nghề thợ may nên thường gọi là bà Thợ. Bà từ bỏ cuộc sống đời thường tìm đến núi Sam vào chùa Tây An xin quy y với pháp danh Diệu Thiện. Tu được một thòi gian, nhân thấy Tây An tư có nhiều người lui tới và bi chính quyền thời đó theo dõi nên bà đi về hướng tây. Ở đây, bà gặp cái 4 C hâu Đ ốc tự giới thiệu, sđd, Văn nghệ Châu Đ ốc, 2003, tr. 44. 203
  8. hang sâu yên tĩnh, vắng người, rậm rạp cây cối nên đã dừng lại dựng am tu hành. Sau đó ít lâu dân sùng đạo địa phương mến mộ công đức của bà nên đã góp công góp của xây dựng thành ngôi chùa, từ tre lá ban đầu đến Phước Đ iền tự sau này. Tương truyền trong hang sâu có cặp rắn rất lớn. Con xanh tên là Thanh xà, con trắng tên Bạch xà. Nghe tiếng kinh kệ, hai con rắn bò lên và sau đó được bà Thợ thuần phục. Chúng không hại người mà đêm đêm còn đến nằm khoanh sau lưng bà nghe kinh, ăn đồ chay cúng Phật và trông chừng thú dữ, kẻ gian bảo vệ yên tĩnh chốn tu hành. Bà Thợ viên tịch năm Kỉ Hợi (1899), thọ 81 tuổi.Trước bảo tháp bà Thợ còn có m ộ thầy Thông Phán, tức ông N guyễn Ngọc Cang, người đóng góp rất nhiều cho đợt trùng tu lần đầu tiên. Đ ến năm 1937, hoà thượng Thích Huệ Thiện trùng tu lần thứ hai và ngày nay hoà thượng Thích Thiện Chơn đang trụ trì và tiếp tục trùng tu. Mặt tiền và chánh điện được xây dựng lại khang trang, đẹp hơn xưa. ở chính điện thờ Phật Thích Ca cùng với các vị Quan Âm, A Di Đà, Đại T hế Chí ở hai bên, phía trước có cây cột phướn đồ sộ cao hơn 20 m, dưới thềm chùa là hai tượng sư tử bằng xi mãng khá sinh động. Hai bên Đông Lang và Tây Lang cũng đựơc xây dựng mới bằng tiền thập phương đóng góp5. - Đình Vĩnh Tế Đình thần Vĩnh T ế là nơi thd đức công thần Nguyễn Văn Thoại, người có công trấn giữ và khai phá vùng đất phía Tây 5 Châu Đ ốc tụ giới thiệu, sđd. Vãn nghệ Châu Đ ốc, 2003, tr.50. 204
  9. Nam. ô n c là người được vua Minh Mạng ấn chỉ phong sắc thẩn làne VTnh T ế ngày 15-5-1820. Đình nằm cạnh quốc lộ 91. thuộc ấp Vĩnh Tây I, phường Núi Sam. Tổng diện tích đình là 3.760m 2, trong đó diện tích xây dựng là 745m2. Đình được xây trôn nền cao, sân lót cạch tàu, gồm hai chái, chánh tẩm hình tứ trụ, trên nóc có eắn song long tranh châu, dưới nóc là bốn bức tranh sơn thuỷ đặt bốn hướng. Các cột chính ở mặt tiền đều có cặp đôi liễn chữ Hán. Trong sân có 5 miễu nhỏ, được xây trên bệ cao như đàn xã tắc ở các đình khác: - Miễu Bạch Mã Thái Giám. - Miễu Sơn Quán - Miễu Ngũ Hành - Miễu Thần Nông - Miễu Hậu Thổ. Đình được xây cất năm 1840, bằng cây lá đơn sơ. Đến năm 1938, đình được xây cất lại bằng chất liệu kiên cố. Bên trong đình có bàn thờ hương án, hai bàn thừ khách đối diện và bàn thờ trận vong giữa hai bàn thờ Tiền hiền và Tiền hương chức. Bàn thờ Hậu hiền thờ ông Tính (người có công đóng góp cho đình), giỗ ông vào ngày 25 tháng 5 âm lịch6. - Pháo đài. Tên gọi này do sự xuất hiện của ngôi biệt thự, mà viên Chánh tham biện người Pháp xây thời Pháp tạm chiếm, làm 6 N guyễn Phước Sanh, Đình thân x ã Vĩnh T ê\ Trong: “Vãn nghệ Q iâu Đốc: Lễ vía Bà Chúa Xứ núi Sam 2004”, tr.28. 205
  10. nơi nghỉ ngơi của ông ta. Ngôi biệt thự cách chân núi khoảng 230 m và được xây năm 1896. Nó được xây dựng khá kiên cố, có nhiều phòna và có một tháp cao hình tròn, làm nơi hóng gió. Vì thế mà nó có tên gọi là Pháo đài. Trong các cuộc chiến tranh sau này, nơi đây đều được dùng vào mục đích quân sự, nên cái tên Pháo đài lại càng được khẳng định. Cho đến nay, Pháo đài vẫn thuộc sự quản lý của quân đội, nhưng cũng đã trở thành một địa điểm du lịch. Du khách không được vào bên trong, nhưng có thể đến gần để chiêm ngưỡng. Để lên được đây có hai con đường, một theo đường chính có thể đi bằng ô tô hay xe máy, trên đường đi có nhiều cảnh đẹp và các chùa, am, miếu nhỏ, con đường thứ hai đi đằng sau lưng lăng Thoại Ngọc Hầu, thì không đi xe được mà chỉ đi bộ và rất dốc. Tuy nhiên đi theo đường này, thì lại gặp được nhiều chùa và hang hơn, vả lại con đường này có thể nhìn xuống chân núi, để ngắm toàn bộ khu di tích miếu Bà, chùa Tây An, lăng Thoại Ngọc Hầu... rõ hơn rất nhiều. Vì thế nhiều người chọn inột cách đi lên bằng đường bộ, xuống bằng xe ôm để có được cảm giác của cả hai. Bệ đá đặt tượng Bà. Đó là nơi gần Pháo đài, ở một vị trí quang đãng trên đỉnh núi Sam. Nguồn gốc tượng có từ đâu? Tại sao lại đặt ở đây? đến nay vẫn là một bí ẩn. Ngày nay, người dân địa phương vẫn giữ vị trí này và coi như môt chỗ hết sức linh thiêng. Bê đá được giữ gìn bằng cách xây thành một mái nhà để che mưa, có hàng rào bao quanh không thưng vách. Cạnh bệ đá có đặt bát hương để nhang khói. Không ai đi lễ miếu Bà, mà lại quên 206
  11. việc lên đặt lẽ ở dây. Đây cũim là nơi mà đám rước trong ngày hội lên rước về miếu để tiến hành lễ hội. “Bệ đá có chiều ngang lm 60, dày khoảng 0.30 m, chính giữa có lỗ vuông cạnh 3 tác 4, là loại trầm tích thạch màu đen, hạt nhuyễn, nguồn gốc không phải ở địa phương”7. Vườn Tao ngộ Đây là một khu vực nằm trên sườn núi, có một tầm nhìn hết sức ngoạn mục xuống cả một vùng đồng bằng mênh mông phía dưới, xa xa là dãy Thất Sơn. Tuy chỉ là một triền núi quang đãng, nhưng giá trị của nó chính là vị trí tuyệt đẹp của nó. Chính vì vậy chính quyền địa phương đã tiến hành cải tạo, san ủi mặt bằng, để xe cộ và du khách dễ dàng lui tới. Năm 1993, công ty du lịch cổ phần Hàng Châu đã đầu tư nâng cấp, xây dựng một số công trình như nhà hàng, nhà trọ, tạo cảnh hoa'viên, hồ nước, tượng thú... Hiện nay công trình này được công ty liên doanh Victoria Hàng Châu (Pháp và Việt Nam) đầu tư với kinh phí gần 2 triệu đôla, để xây dựng khách sạn 40 phòng, 1 nhà hàng, 1 bể bơi và 1 tháp vọng cảnh8. Như vậy, sự kết hợp hết sức nhuần nhuyễn giữa du lịch nghỉ mát, giải trí và du lịch ]ễ hội có thể được thực hiện. Điều này có thể thấy rất phổ biến ở khu vực núi Sam. Miếu Bà Chúa Xứ. Nói đến miếu Bà ơ iú a Xứ không thể không nói đến Núi Sam, do vậy dân gian quen gọi là Bà Chúa Xứ Núi Sam là như 7 C hâu Đ ốc tự giới thiệu SĐD. tr. 98. 8 C h âu Đ ốc tự giới thiệu SĐD. tr. 98. 207
  12. vậy. Bởi vì ngày nay, miếu nằm cạnh chân núi, nhưng nguồn cội của nó lại xuất phát từ trên núi. “Núi Sam có tên chữ là Học Lãnh Son, nhưng vì từ lãnh thường dùng để chỉ những ngọn núi cao hiểm trở, nhưng núi Sam chỉ cao 234 m so với mặt nước biển, nên chữ lãnh trong tên của núi Sam dần dần bị rút bỏ, và được gọi là Học Sơn. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng: “ Núi Sam ngày xưa có tên là Hấu Sơn (Hấu là con Sam), lâu ngày biến âm đọc trại ra là Học”9. Núi Sam được chia ra thành ba ngọn, là Ngọn Đầu Bờ nằm ở phía Đông, ngọn ở giữa cao nhất được gọi là đỉnh núi, còn ở phía Tây là ngọn Đá Chẹt. Giữa một vùng đồng bằng mênh mông, nhìn từ trên cao hay từ xa, hình thù của núi giống như hình con Sam khổng lồ, nên dân gian gọi là núi Sam. Nó không nằm trong dãy Thất Sơn nhưng luôn được xếp cạnh dãy núi linh thiêng này, vì sự linh thiêng của ngọn núi, nhất là khi tại đây có miếu thờ Bà Chúa Xứ. Dân gian kể rằng, xa xưa đây là vùng biển cả, trải qua bao năm tháng phù sa bổi đắp, dần biến vùng này thành một vùng đất phì nhiêu. Cũng vì thế mà còn có một giả thuyết khác, tên Sam gắn liền với biển, loài vật sinh sống nhiều quanh khu vực này. Lúc đầu khi mới xây dựng, khoảng năm 1820, miếu Bà còn rất sơ sài, chỉ bằng cây lá trên một vùng đất hoang vu. Song do sự linh thiêng của miếu, nên khách thập phương càng ngày đến đây càng đông. Chính vì vậy, năm 1870 miếu được trùng tu 9 Đoàn Thị Thanh Xuân, L ễ hội Bà Chúa Xít Núi Sam và vấn đ ề bảo tồn p h á t huy di sán văn lioá, Luận văn Thạc sĩ văn hoá học, Đại học Văn hoá Hà N ội, 2005, tr. 29. 208
  13. vớ) quv mô lớn hơn. Năm 1962, miếu dược tu sửa khang trang bằng đá miểng và lợp ngói âm dương. Năm 1965, Hội quý tế xâv nới rộng nhà khách, làm hàng rào chánh điện. Năm 1966, cấi Đông lang và Tây Lang. Đợt xây cất quan trọng nhất có lẽ là năm 1972, khi Hội quý tế quyết định xây lại với kiến trúc moi. dồ sộ và nguy nga như ngày nay. Đổ là công lao thiết kế của hai kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng. Miếu có hình chữ quốc, dạng khối tháp, trông như đài sen nở, mái cong tam cấp, lợp ngói đại màu xanh ngọc. Bên tronc; cẩn đá hoa, gạch nhập từ nước ngoài. Các khung bao và cửa được chạm trổ công phu, nghệ thuật. Trên nóc cao chạm nhiều tượng thần thoát tục, trên tường trang trí nhiều bức tranh sơn thuỷ hữu tình, tạo nên vẻ cổ kính, tôn nghiêm, hoành tráng. Chánh điện thoáng rộng, với tượng Bà uy nghi ở giữa, đứng hầu hai bên là đôi hạc trắng. Bên trái là bàn thờ cậu, đặt linga. Bên phải là bàn thờ cô. Phía trước đặt bàn Ihờ hội đổng, với đôi phượng hoàng. Hai bên chánh điện là bàn Ihờ hậu hiền, tiền hiền. Ở chánh điện có nhiều câu đối. Phía trước chánh điện là võ ca, nơi diễn ra các nghi lễ cúng Bà. Cuối võ ca là sân khấu kiên cố, để hát bội khi dứt lễ xây chầu, được xây dựng khoảng năm 1965 và sau đó được trùng tu nhiều lẩn10. Ngoài ra còn có phòng khách, văn phòng làm việc của Ban quản trị lăng miếu, một Đông lang hai tầng, được xây dựng bên phải miếu vào năm 1988, 1989 nâng cấp và lợp ngói xanh phù hợp với tổng thể khuôn viên. Miếu ông Tà mói được xây dựng vào năm 1995 bên trái chánh điện, 10 Lịch sử miếu Bà C húa Xít' Núi Saiỉỉ, Ran Ọuản trị lăng miếu núi Sam, Hội Văn nghệ Châu Đ ốc, 2004. 209
  14. trong đó thờ ba hòn đá. Hai con sư tử tạc bằnc đá hoa cương, nằm canh giũ' trước cửa chánh điện. Trước mặt chú ne, nhìn sang nhà trưng bày ba tầng, nơi chứa những áo mão và các đồ dâng cúng của khách thập phương lên lễ Bà, ngôi nhà này vốn trước kia là trường Trung học Vĩnh Tế, nhưng do khách đến lễ và thăm quan ngày một đông, nên trường được chuyển đi dể lấy chỗ làm nhà trưng bày. Có thể nói, công trình kiến trúc miếu Bà là một công trình vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính mĩ thuật cao. Nó rất hiện đạ; nhưng lại mang dáng vẻ của một công trình kiến trúc cổ theo truyền thống. Vì thế sự uy nghi của nó, góp thêm một phần hùng vĩ và linh thiêng cho nhân vật được thờ phụng, đó chính là Bà Chúa Xứ. Đứng trên đỉnh núi Sam, du khách có thể nhìn thấy một khung cảnh hết sức ngoạn mục toàn bộ một quần thể di tích, trong đó nổi bật lên là miếu Bà và chùa Tây An. II - NHỮ NG T R U Y Ề N T H U Y Ế T V Ể BÀ C H Ú A x ứ 1- Xung quanh tượng Bà và vị trí của miếu và lễ hội Liên quan đến truyền thuyết về Bà Chúa Xứ, chủ yếu là về pho tượng của Bà. Có vẻ mọi chuyện bắt đầu bằng việc xuất hiện pho tượng này. Tất cả đều mang tính ly kì, linh thiêng, làm cho hình ảnh của Bà trở nên huyền bí trong mọi Ihời đại. Trước hết là câu chuyện được dân gian lưu truyền cách đây khoảng 200 năm,rằng có một bọn cướp quấy nhiễu vùng biên giới đã đến khu vực núi Sam. Tại đây, chúng gặp tượng Bà ở trên gần đỉnh núi. Khi ấy, chúng tìm cách đem đi, nhưng chỉ xê dịch một đoạn, mà không làm sao đem đi được. 210
  15. Bực mình chúng bèn đập phá không tlnrưnu tiếc và làm gãy tay trái của pho tượng, sau đó bỏ đi. Dân làng đã kéo lên rất đône với những người lực lưỡng, khoẻ mạnh, dịch chuyển pho tượnu xuống núi, nhưng lạ thay tượng không hề lay chuyển. Khi ấy, Bà bèn đạp đổng cho một người phụ nữ, tự xưng là Chúa Xứ thánh mẫu, mách cho dân nếu muốn đem bà xuống núi. chỉ cần 9 cô gái đồng trinh chuyển là được. Quả nhiên khi 9 cô gái đồng trinh được cử đến, thì tượng bà trở nên nhẹ nhàng và di chuyển một cách dễ dàng. Dân làng vui mừng chuyển tượng bà xuống chân núi. Nhưng khi đến chỗ miếu Bà bây giờ, bỗng dưng pho tượng trở nên rất nặng không sao di chuyển được nữa. Dân làng cho rằng bà muốn ngự tại đây nên lập miếu thờ, đó là khoảng thời gian những năm 1820 - 1825. Lúc đầu miếu được xây dựng đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng phía táy bắc núi Sam, chánh điện nhìn ra con đường làng và cánh đồng lúa bát ngát. Sau nhiều lần trùng tu, miếu càng ngày càng được xây dựng khang trang hơn11. Theo sun tẩm của Đoàn Thị Thanh Xuân, thì “pho tượng Bà Chúa Xứ trước kia vốn là tượng một người đàn ông to béo, bụng phệ, được tạc ở tư thế ngồi chống nẹ. Tượng cao l,25m , được đúc liền với một phiến đá dày khoảng lOcm cùng loại. Tượng được tạc Iheo phong cách rất lạ, có tư thế ngồi thoải mái với chân xếp bằng tròn, bàn chân trái được đặt nằm giáp với bàn chân phải. Chân phải co lên, chống thẳng xuống mặt phiến đá. Tay trái chống nẹ, tay phải buông xuôi chống xuống 11 Lịch sử m iếu Bà Chúa Xỉ? núi Sam, Ban Quản trị lãng miếu núi Sam, Hội Vãn nghệ Châu Đ ốc, 2004, tr. 10. 211
  16. bệ đá phía sau đùi trái. Bàn tay phái xoè, để vắt trên đầu gối phải. Tóc của pho tượng uốn thành lừng búp, xoăn thả về phía sau. Trên đầu có vành đai giống một vương miện với những hoa văn hình móc câu, ở phía trước trán có hoa văn hình ngọn lửa, toả ra xung quanh một hình tròn giống hình mặt trời” 12. Chính vì nghe thấy chuyện lạ, nên Malleret (nhà khảo cổ học người Pháp) đã tới đây tìm hiểu, sau khi nghiên cứu ông cho rằng, đây là loại tượng thần Vishnu thường thấy trong nghệ thuật điêu khắc Ân Độ, có niên đại từ thời trung cổ. Ban đầu, pho tượng này được người Việt đưa xuống núi và giữ nguyên hình dạng để thờ phụng, với tên gọi là “Bà Chúa Xứ”. Nhưng “trong Ban trị sự miếu Bà có ông hương chủ Phạm Văn Tiên, đề xướng việc tô điểm m ặt mày hình tượng thật giống phái nữ. Được tất cả hưởng ứng, ông đến Chợ Lớn thuê thợ đắp tượng có tay nghề tinh xảo về điểm xuyết khuôn mặt và gắn pha lê vào đôi mắt trỏ' nên sống động. Du khách đứng ở phía nào, quay mặt nhìn đều thấy có ánh mắt của tượng soi rọi thấu suốt. Để củng cố niềm tin vô biên, thiện nam tín nữ thường dâng lễ vật hiến tế cả y phục đắt tiền, đổ trang sức bằng kim loại quý” 13. - Một truyền thuyết khác, gắn với chiến công của Thoại Ngọc Hầu và việc trùng tu ngôi miếu làm lễ Vía Bà. Dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu giữ trọng trách trấn giữ biên giới Tây Nam, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. 12 Đ oàn Thị Thanh Xuân, Tài liệu đã dẫn, tr. 44. 13 Liêm Châu K ỷ tích núi Sam (Chuyện lạ núi Sơm), Nxb. Mũi Cà Mau, Văn nghệ Châu Đ ốc, 1999, Tập 1, tr.8. 212
  17. Mỗi lần ôrm xuất quân, bà vợ thường đến miễu khấn vái, mong Bà phù hộ cho Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Vổ sau để tạ ơn nhữim điều ứng nghiệm, vợ Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại ngôi miếu to và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng lấy những ngày trên làm ngày lễ Vía Bà. - Một truyền thuyết gắn với tập quán sản xuất nông nghiệp ở địa phương cho rằng, vào tháng tư là thời vụ bà con xuống giống làm mùa, họ làm lễ cầu Bà, hy vọng một mùa sẽ được bội thu. Nhân dịp này, dân chúng tổ chức những cuộc vui chơi, rồi dần thành lệ. Năm này qua năm khác, lệ ấy biến thành hội làng cho đến bây giờ. Sau này khi miếu Bà trở nên linh thiêng, khách thập phương đổ về ngày càng đông, nên lễ hội trở thành nổi tiếng ra khắp vùng. Hình dạng ban đầu của tượng là nam thần, cánh tay bên phải bị gãy mất và được phục chế lại, đường nét thuộc phong cánh Ân Độ. Sau này từ tượng nam thần ấy trở thành tượng thánh Bà như thế nào, là một hiện tượng hết sức thú vị, chưa ai tìm hiểu một cách cặn k ẽ 14. 2. Những sự linh thiêng của miếu Bà Chúa Xứ Niềm tôn kính Bà của người dân, trở nên rất linh thiêng trong cuộc sống của họ. Vì vậy, đối với bất cứ hành động nào xâm phạm đến thánh thể của Bà đều bị phản đối và coi như một sự phỉ báng thần linh. Chẳng hạn, một chuyện mà nhiều 14 Thạch Phương, Lê Trung Vũ, 60 L ễ hội truyền thống Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1995, tr.231. 213
  18. người còn nhớ vào năm 1941, khi người Pháp còn cai trị nước ta, có một người Pháp cùng viên thư kí vào miếu, tự tiện cởi áo Bà để ghi chép và phác hoạ tượng Bà. Bà chủ từ không dám ngăn cản, bèn đi báo với ông Hương cả Phạm Văn Hảnh. Nghe tin, ông Cả Hảnh liền đến và phản ứng với hai người Pháp. Qua giấy tờ, được biết đó là nhà khảo cổ học Malleret đi tìm các cổ vật, có giấy phép của chính quyền tỉnh Châu Đốc. Nhưng khi hiểu được sự ngưỡng vọng của nhân dân ở đây, về sự tôn kính đối vói Bà Chúa Xứ, Malleret rất lo sợ, bối rối và xin ông Hương Cả chỉ giúp việc tạ lỗi. Để tạ lỗi lầm của mình, nhà khảo cổ đã phải cùng với Chánh tham biện Châu Đốc đến, tổ chức ]ễ tạ tội bằng việc cúng Bà một con heo và một mâm xôi. Do không phải là người theo đạo Phật để biết lạy, nhưng ông Malleret đã phải đứng nghiêm trước tượng Bà trong tiếng nhạc lễ để tạ lỗi. Nhân dân đến xem cuộc lễ này rất đông và tiếng đồn về sự linh thiêng của Bà càng được nâng lên gấp bội, chứng tỏ sự oai nghiêm của Bà15. 15 Lịch sử miếu Bà Chúa Xic núi Sam , Sđd. tr. 15. Về chi tiết này thì theo tác giả Liêm Châu trong sách đã dẫn cho rằng: Năm 1938, ông Malleret, giám đốc Viện khảo cổ Pháp từ Sài Gòn đến núi Sam viếng miếu Bà. Ông bắt buộc người giữ miếu khoả xiêm y để giảo nghiệm . Dụng cụ chỉ là cái búa nhỏ mang theo, dùng khua khua gõ gõ vào tượng. Ông lắng nghe dư âm hầu xác định thời gian kiến tạo. Pho tượng bằng đá xanh điêu khắc trong tư thế ngồi, chân trái co vào, chân phải dựng đứng, tay phải đặt lên dầu gối, tay trái chòi ra sau. Hình tượng giống trong thời đại xa xưa rất được các bộ lạc tôn thờ. Malleret kết luận: Pho tượng tạc từ thời Trung cổ, hiện nhiều nét tương tự các pho tượng Ân Đ ộ bởi mái tóc dợn sóng, mũi cao, nguồn gốc từ đạo Bà La Môn, phát sinh qua các nước vùng Trung Đ ông truyền sang Đ ông Nam Á. 214
  19. Một người dân mà chúng lôi gặp ở lễ Vía Bà 2004 cho bict: tên ông là Nguyễn Sĩ Đôn? quê ngoài Nam Đinh, vào Nam làm ăn năm 1979, khi đi có đem theo cả gia đình là 4 anh em và vợ con. Ông vốn là cán bộ thuỷ lợi ngoài Bắc, chuyển công tác vào An Giang. Do điều kiện gia đình đông con, ông xin ra khỏi cơ quan Nhà nước, để lo cuộc sống vì lúc đó rất khó khăn. Sau hai năm vật lộn vì gia đình, năm 1981 ông thấy tạm ổn, nên lại xin vào một cơ sở Nhà nước nào đó cho ổn định, dù chỉ là làm hợp đổng. Nhưng gần một năm trời chạy xin khắp nơi mà không làm sao xin được. Đầu năm 1982, có người rủ ông đi lễ miếu Bà. Tuy không tin, nhưng ông cũng đi theo. Đến miếu Bà, ông bắt được mộ quẻ thẻ có nội dung như sau: Mừng người tu được phúc trời cho Được phúc trời cho chẳng phải lo Nghe gọi tên mình trên điện ngọc Mới hay đẹp nhất đám nhà nho. Sau khi đi lễ về, ông được công ty khách sạn ăn uống tỉnh An Giang khi đó, nhận vào làm bảo vệ. Ông làm ở đó cho đến khi hết tuổi lao động. Điều này làm ông hết sức tin tưởng vào việc đi lễ Vía Bà, cho nên mỗi khi có dịp là ông đi lễ, thậm chí có năm còn tự tổ chức một nhóm người đi lễ. Ông còn cho biết về người cháu ở Kiên Giang, suốt bốn năm làm ăn vất vả, vay mượn, trả góp vốn ở khắp nơi để làm ăn, mà không ngóc đầu lên được. Năm 2002, sau khi đi lễ Bà Chúa về, một hôm đi trên đường, anh ta gặp một người bán vé 215
  20. số còn lại đúng m ột vé. Anh ta bỏ tiền ra mua. Không ngờ đó là một vé trúng thưởng 50 triệu đồng, làm anh ta đổi đời. Từ đó anh ta rất tin vào việc đi lễ ở miếu Bà. Còn rất nhiều chuyện li kỳ, liên quan đến sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ. Chẳng hạn như chuyện, một kẻ trộm lợi dụng đêm tối đã lẻn vào, định lấy cắp chiếc kiềng vàng đeo trên cổ của Bà. Không ngờ khi hắn vừa chạm tay vào, thì đã bị ngã lăn ra đất hộc máu và bất tỉnh. Ai cũng tin rằng đó là do Bà trừng phạt. Một chuyện khác kể về kẻ khác tinh ranh hơn, đã dùng mẹo nghĩ ra cách trồng cây chuối, đi bằng hai tay vào thánh điện, để ăn trộm đồ trang sức trong miếu. Bởi vì tên này nghĩ rằng, đi như vậy Bà sẽ không nhìn thấy mặt hắn mà bẻ cổ (như lời đồn đại rằng Bà sẽ “vặn cổ” những kẻ ăn trộm). Bằng cách này, hắn đã lấy được các đồ vật quý trong miếu. Tuy nhiên, khi về tới nhà hắn bỗng mắc bệnh lạ, nằm mê man không có cách chữa. Vợ hắn sợ bị trừng phạt, nên đã đem số vàng bạc mà hắn ăn trộm trả lại và cúng tạ lỗi với Bà, khi đó hắn mới khỏi bệnh... Hoặc chuyện người dân ở đây vẫn kể rằng, từ xa xưa khi miếu chưa được xây dựng khang trang như sau này, các cửa còn chưa chắc chắn. Có một tên trộm vào chỗ Bà ngự để ăn trộm, nhưng sau đó suốt đêm hắn cứ quanh quẩn ở đó, mà không tài nào biết đường ra. Đến sáng khi dân làng đến, thì thấy hắn vẫn cầm đồ ăn trộm được trên tay và bị bắt. Người ta cho rằng, hắn bị Bà giam tại đấy nên không thể đi ra được. Ông Hồ Văn Tại, hiện là k ế toán trưởng của miếu, kể lại những điều ông được chứng kiến, những năm ông làm ở đây khá nhiều chuyện lạ. 216
nguon tai.lieu . vn