- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Nghiên cứu nhu cầu đào tạo ngành kinh doanh nông nghiệp ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Xem mẫu
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
NGHIÊN CỨU NHU CẦU ĐÀO TẠO NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
PGS.TS. Ngô Thị Phương Thảo*
NCS.ThS. Nguyễn Hà Hưng**
TÓM TẮT
Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình thực hiện cơ cấu lại theo hướng sản
xuất hàng hóa tập trung, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng nông sản
dựa trên tăng cường ứng dụng công nghệ cao, thông minh. Trong quá trình đó, các cơ
sở, doanh nghiệp nông nghiệp là nòng cốt và nguồn nhân lực nông nghiệp mang tính
quyết định. Vì vậy, bên cạnh việc tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ cho người
nông dân, cán bộ kỹ thuật thì Việt Nam cần phải tăng cường đào tạo, phát triển đội ngũ
doanh nhân, cán bộ quản lý trong các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp đáp ứng
yêu cầu của việc đầu tư hiện đại hóa sản xuất kinh doanh, thích ứng tốt với thị trường
hội nhập đầy biến động và tác động bất lợi của biến đổi khí hậu toàn cầu. Dựa trên một
số kết quả khảo sát bước đầu, nghiên cứu này nhằm xác định nhu cầu đào tạo ngành
kinh doanh nông nghiệp ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, với mục tiêu chính là
đào tạo các doanh dân, cán bộ quản lý cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp
đáp ứng yêu cầu của ngành nông nghiệp trong tình hình mới.
Từ khóa: Nhu cầu đào tạo; ngành kinh doanh nông nghiệp; Trường Đại học Kinh
tế Quốc dân
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là quốc gia có những điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Các
số liệu về tăng trưởng GDP, tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp và kim ngạch xuất khẩu nông
sản từ những năm đầu đổi mới đến nay cho thấy, nông nghiệp đã trở thành “trụ đỡ” của
nền kinh tế nước ta trước biến động khó lường của kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, những
hạn chế về chất lượng, tính bền vững, sự sáng tạo và cách thức phát triển, cùng với yêu
cầu mới đã và đang đòi hỏi ngành nông nghiệp cần có những bước chuyển mới mang
tính đột phá. Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông thôn, nông dân (2018) đã chỉ
ra những tồn tại, hạn chế của Việt Nam đó là: đầu tư cho nông nghiệp còn khá thấp; số
dân làm nông nghiệp còn quá cao, đóng góp cho nền kinh tế còn thấp; doanh nghiệp
trực tiếp đầu tư sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp; huy
*,** Khoa Bất động sản và Kinh tế Tài nguyên, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
* Email: thaonp@neu.edu.vn
** Email: hungnh@neu.edu.vn
140
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
động vốn tín dụng vào nông nghiệp nông thôn vẫn hạn chế, chi phí vốn còn cao; áp
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong nông nghiệp còn yếu, tỷ lệ giá trị chất xám
trong giá thành sản phẩm nông nghiệp chưa cao; 90% hàng nông sản Việt Nam xuất
khẩu là thô, chưa qua chế biến; việc xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao chưa
tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng; kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến
còn hạn chế…[1].
Từ thực trạng trên, việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông
minh ở Việt Nam là tất yếu. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 176/
QĐ-TTg (ngày 29/01/2010) về việc phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao đến năm 2020, trong đó có quan điểm “chú trọng đào tạo nguồn
nhân lực về công nghệ cao trong nông nghiệp đủ về số lượng và có chất lượng cao
cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở nước ta” [3]; Quyết định số
1895/QĐ-TTg (ngày 17/12/2012) về việc phê duyệt Chương trình phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ
cao đến năm 2020, trong đó có nhiệm vụ phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao [4]; Quyết định số 749/QĐ-TTg (ngày 03/6/2020) phê duyệt
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”,
trong đó nông nghiệp là một trong tám ngành, lĩnh vực cần được ưu tiên chuyển đổi
số trước [5]… Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Đẩy mạnh cơ cấu
lại nông nghiệp, khai thác và phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển
nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, vùng chuyên canh
hàng hóa chất lượng cao. Phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sạch, nông
nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh học…” [7].
Để thực hiện được những mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, bên cạnh cơ chế, chính sách
của Nhà nước, vai trò của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp
mang tính quyết định. Ngoài ra, để phát triển nông nghiệp trong tình hình mới, cùng
với việc đào tạo nâng cao tay nghề cho nông dân, cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, chúng
ta cũng cần phải tăng cường đào tạo phát triển đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý
trong các cơ cở sản xuất kinh doanh nông nghiệp thích ứng tốt với những biến động
khó lường của thị trường nông sản, ứng dụng công nghệ cao, phát triển nông nghiệp
thông minh.
2. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
Việt Nam là nước đi sau nên cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ hội cho nền
nông nghiệp nước ta nắm bắt các công nghệ mới. Tuy nhiên, trình độ của người lao
động ở mức thấp đã ảnh hưởng lớn đến việc tiếp cận khoa học và công nghệ (KHCN).
Đây là rào cản lớn trong việc xây dựng quy mô của một nền nông nghiệp ứng dụng
141
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
công nghệ cao. Dự báo đến năm 2020, lĩnh vực nông nghiệp sẽ thiếu 3,2 triệu lao động
qua đào tạo, đặc biệt là lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng
nông nghiệp công nghệ cao thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 [2].
Hiện nay, cả nước có 13 trường đại học, cao đẳng đào tạo về nông - lâm nghiệp;
60% trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng nghề, trung cấp nghề, trung tâm dạy
nghề về nông lâm nghiệp. Các trường này chuyên đào tạo các cán bộ khoa học kỹ
thuật và quản lý, đào tạo tay nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Thực tế cho
thấy, nhu cầu về cán bộ được đào tạo qua các trường này rất lớn, nhưng công tác tuyển
sinh gặp nhiều khó khăn, do tâm lý của người học nghĩ rằng sau khi học phải về làm
việc ở nông thôn, những vùng khó khăn nên không muốn học [6].
Về đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam (Mã ngành: 7620114), theo
website: https://tuyensinhso.vn (2020), cả nước có 6 trường đại học, học viện đã và
đang đào tạo gồm: ở miền Bắc có 01 trường là Học viện Nông nghiệp Việt Nam; ở
miền Trung có 03 trường là: Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kom Tum, Trường Đại
học Kinh tế - Đại học Huế, và Trường Đại học Hồng Đức; ở miền Nam có 02 trường
là: Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Cần Thơ. Chỉ
tiêu tuyển sinh và điểm trúng tuyển (theo điểm thi Trung học phổ thông Quốc gia -
THPTQG) như sau:
Bảng 1. Các cơ sở đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
TT Chỉ tiêu Điểm trúng tuyển
Tên trường Ghi chú
tuyển sinh 2018 2019 2020
Căn cứ theo chỉ tiêu
1 Học viện Nông nghiệp Việt Nam 50 14 17,5 - ngành Quản trị kinh
doanh (QTKD)
Căn cứ theo chỉ tiêu
2 Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kom Tum 50 14,05 - -
ngành QTKD
3 Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế 30 13 14 -
Chỉ tiêu lấy theo phổ
4 Trường Đại học Hồng Đức 30 17 - -
biến
5 Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh 75 16,5 16,75 19
6 Đại học Cần Thơ 80 - - 15
Tổng 315
Nguồn: tuyensinhso.vn
Theo Bảng 1, các trường tuyển sinh đủ chỉ tiêu ngành Kinh doanh nông nghiệp
hàng năm thì tổng số sinh viên tuyển sinh được là 315 sinh viên/năm. Tuy nhiên, chỉ
có 01 trường là Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh là tuyển sinh
142
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
được 3 năm liên tiếp (2018 - 2020), 5 trường còn lại chỉ tuyển sinh được một hoặc hai
năm trong ba năm gần đây. Trong đó, Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Trường Đại
học Kinh tế - Đại học Huế tuyển sinh được 2 năm 2018, 2019; còn Phân hiệu Đại học
Đà Nẵng ở Kom Tum chỉ tuyển sinh được năm 2018, còn Đại học Cần Thơ mới tuyển
sinh được trong năm 2020. Mặt khác, nếu so sánh số chỉ tiêu và điểm trúng tuyển
ngành Kinh doanh nông nghiệp với các ngành khác ở 6 trường nêu trên thì đều ở mức
trung bình thấp. Những kết quả trên cho thấy, quy mô tuyển sinh ngành Kinh doanh
nông nghiệp ở các trường Đại học, Học viện ở nước ta vẫn còn nhỏ, không đều qua
các năm và điểm trúng tuyển đầu vào cũng không cao so với mặt bằng chung. Điều
này đòi hỏi cần có nghiên cứu chi tiết hơn về nhu cầu nhân lực ngành kinh doanh nông
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp Việt Nam trong tình hình mới, từ đó có
những chương trình định hướng nghề nghiệp và tư vấn tuyển sinh hợp lý.
3. Kết quả khảo sát nhu cầu đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt
Nam và tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Để phục vụ cho bài viết này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành một cuộc khảo sát
nhanh qua hình thức gửi phiếu khảo sát online về nhu cầu đào tạo ngành kinh doanh
nông nghiệp ở Việt Nam và ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Các đối tượng tham
gia khảo sát gồm: giảng viên/nhà khoa học, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý
trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh (SXKD), sinh viên và Học sinh.
Kết quả sơ bộ đã thu được 73 phiếu trả lời với cơ cấu như sau:
Biểu đồ 1. Tỷ lệ các đối tượng tham gia khảo sát
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Kết quả khảo sát về sự cần thiết của đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt
Nam, có 35,6% đánh giá ở mức cần thiết rất cao; 46,6% đánh giá ở mức cần thiết cao
và 15,1% đánh giá ở mức cần thiết trung bình.
143
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Biểu đồ 2. Kết quả khảo sát về mức độ cần thiết của việc đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp
ở Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Kết quả trên cho thấy, đa số người tham gia khảo sát nhận định rằng để phát triển
nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu mới của hội nhập đòi hỏi
cần phải có đội ngũ doanh nhân, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh được đào tạo bài
bản, có trình độ cao.
Khi được hỏi về sự cần thiết của việc mở ngành đào tạo Kinh doanh nông nghiệp
ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tỷ lệ trả lời là 37% cho cả hai mức là “cần thiết
rất cao” và “cần thiết cao”; và tỷ lệ trả lời ở mức “trung bình” là 24,7% (cao hơn khi
hỏi về nhu cầu đào tạo chung ở Việt Nam là 15,1%).
Biểu đồ 3. Kết quả khảo sát về sự cần thiết mở ngành đào tạo Kinh doanh nông nghiệp
ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
144
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Về nhu cầu học ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam, kết quả khảo sát như sau:
Biểu đồ 4. Kết quả khảo sát về nhu cầu học ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Kết quả trên cho thấy mặc dù có đến 43,8% cho rằng nhu cầu cao, nhưng chỉ có
16,4% cho rằng nhu cầu rất cao và cũng có đến 28,8% cho rằng nhu cầu ở mức trung
bình, và có 8,2% cho rằng nhu cầu thấp. Kết quả này cũng phù hợp với thực trạng đào
tạo ngành nông nghiệp nói chung và kinh doanh nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam thời
gian qua. Mặc dù nhu cầu lao động trình độ cao của ngành nông nghiệp Việt Nam rất lớn
nhưng trong đào tạo những ngành liên quan đến nông nghiệp có thể kém hấp dẫn hơn
những ngành khác và tâm lý người học vẫn còn e ngại khi lựa chọn những ngành này.
Nhận định trên được khẳng định rõ thêm trong kết quả khảo sát về nhu cầu học
ngành Kinh doanh nông nghiệp ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Là một trong
những trường đại học hàng đầu của cả nước về đào tạo Kinh tế, Quản lý và Quản trị
kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có rất nhiều ngành đào tạo gắn với
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, trong đó có những lĩnh vực, nhiều ngành học hấp dẫn
người học hơn lĩnh vực nông nghiệp.
Biểu đồ 5. Kết quả khảo sát về nhu cầu học ngành Kinh doanh nông nghiệp
ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
145
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Biểu đồ 5 cho thấy, mặc dù cũng có đến 31,5% cho rằng “nhu cầu cao” và 16,4%
cho rằng “nhu cầu rất cao”; tuy nhiên, cũng có đến 37% cho rằng nhu cầu ở mức
“trung bình” và 13,7% cho rằng nhu cầu ở mức “thấp”. Kết quả trên cho thấy, Trường
Đại học Kinh tế Quốc dân cần có những biện pháp để cung cấp thông tin tuyển sinh,
cung cấp thông tin về ngành nghề đào tạo giúp người học hiểu rõ về từng ngành đào
tạo, nhu cầu xã hội, từ đó định hướng người học tránh lựa chọn ngành học theo trào
lưu (theo mốt). Đồng thời, đối với những ngành đào tạo kém hấp dẫn hơn (theo suy
nghĩ của người học), Nhà trường cần chủ động trong công tác truyền thông, phát triển
chương trình đào tạo, nâng cao tính hấp dẫn để thu hút người học.
Đánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh (SXKD) nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, phần
lớn người được hỏi cho rằng trình độ của người lao động ở mức trung bình (61,6%) và
thấp (11%). Kết quả này cũng phản ánh đúng với thực trạng hiện nay khi trình độ các
chủ hộ, trang trại, ban giám đốc các HTX nông nghiệp hay các cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp nông nghiệp… phần lớn là có trình độ trung bình và thấp.
Biểu đồ 6. Kết quả khảo sát trình độ đào tạo của đội ngũ cán bộ quản lý SXKD
trong các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Trình độ đào tạo thấp nên năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ quản lý trong các
doanh nghiệp, cơ sở SXKD nông nghiệp cũng không được đánh giá cao.
146
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Biểu đồ 7. Kết quả khảo sát về năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ quản lý SXKD
trong các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Tình trạng làm việc trái ngành, trái nghề đào tạo ở nước ta cũng khá phổ biến.
Nguyên nhân chính là do cung - cầu đào tạo mất cân đối. Nhiều ngành nghề xã hội
có nhu cầu cao về lao động có trình độ thì thực tế ít cơ sở đào tạo và ít người đăng ký
học. Trong khi đó, những ngành nghề nhu cầu thấp, hoặc đã bão hòa thì vẫn được dành
nhiều chỉ tiêu đào tạo và người học vẫn đăng ký đông. Kết quả khảo sát cho thấy đội
ngũ cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh nông nghiệp phần lớn
có ngành đào tạo (bằng cấp) không phù hợp với công việc.
Biểu đồ 8. Đánh giá về ngành đào tạo (bằng cấp) của đội ngũ cán bộ quản lý SXKD
trong các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Khi được hỏi về cơ hội việc làm hiện nay của sinh viên học ngành Kinh doanh
nông nghiệp sau khi ra trường, kết quả khảo sát cho thấy có 13,7% người được hỏi
cho rằng cơ hội rất nhiều; 35,6% cho rằng cơ hội việc làm nhiều; và 39,7% cho rằng
cơ hội ở mức trung bình.
147
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
Biểu đồ 9. Đánh giá về về cơ hội việc làm hiện nay của sinh viên học ngành Kinh doanh nông nghiệp
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Kết quả khảo sát về mức độ ưu tiên cho ngành Kinh doanh nông nghiệp khi lựa
chọn ngành học ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (hoặc tư vấn cho người khác)
cho thấy có 35,6% lựa chọn mức độ ưu tiên cao nhưng cũng có đến 39,7% lựa chọn
mức độ ưu tiên trung bình.
Biểu đồ 10. Mức độ ưu tiên lựa chọn ngành Kinh doanh Nông nghiệp ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu
Với đa số người tham gia khảo sát là sinh viên (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
thì kết quả trên cũng phù hợp với phân tích ở trên khi ngành Kinh doanh nông nghiệp
được đem ra so sánh với rất nhiều ngành học khác mà các bạn sinh viên thấy hấp dẫn
hơn. Tuy nhiên, với ưu tiên lựa chọn cao là 35,6% thì đây cũng là kết quả đáng quan
tâm khi Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xem xét xây dựng và mở ngành đào tạo
Kinh doanh nông nghiệp.
148
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
4. Kết luận và khuyến nghị
Nông nghiệp là ngành có vị trí và vai trò quan trọng, cả về kinh tế và xã hội, đối
với đất nước. Nông nghiệp Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi mạnh mẽ để hướng
đến một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền
nông nghiệp thế giới. Trong đó, bước đi tất yếu là hiện đại hóa nền nông nghiệp dựa
trên ứng dụng công nghệ cao và thực hiện chuyển đổi số. Điều này đặt ra thách thức
không nhỏ đối với các doanh nghiệp, các cơ sở SXKD nông nghiệp mà thách thức lớn
nhất đến từ chất lượng nguồn nhân lực. Trách nhiệm đó thuộc về các cơ sở giáo dục,
trong đó nòng cốt là các cơ sở giáo dục đại học. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
với bề dày truyền thống lịch sử, là trường đầu ngành về Kinh tế, Quản lý và Quản trị
kinh doanh, cần lãnh sứ mệnh đào tạo những doanh nhân, cán bộ quản lý kinh doanh
có đủ tâm và tài để thúc đẩy đầu tư, phát triển kinh doanh nông nghiệp. Từ thực trạng
nguồn nhân lực, đào tạo kinh doanh nông nghiệp của Việt Nam và qua kết quả khảo
sát về nhu cầu đào tạo, Nhà trường nên triển khai xây dựng và mở ngành đào tạo Kinh
doanh nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu xã hội và phục vụ cho sự phát triển ngành
nông nghiệp đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Thanh Giang (2018), Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Báo Nhân dân, nhandan.com.vn,
truy cập ngày 22/01/2021, tại trang web https://nhandan.com.vn/tin-tuc-kinh-te/
tong-ket-10-nam-thuc-hien-nghi-quyet-t-u-7-khoa-x-ve-nong-nghiep-nong-dan-
nong-thon-342247/.
2. Diệu Ngọc (2019), Thiếu lao động có trình độ cao đáp ứng nông nghiệp thời
kỳ 4.0, Bộ LĐ-TB&XH, baodansinh.vn, truy cập ngày 19/01/2021, tại trang web
https://baodansinh.vn/thieu-lao-dong-co-trinh-do-cao-dap-ung-nong-nghiep-thoi-
ky-40-98027.htm.
3. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29 tháng 01 năm 2010
về việc phê duyệt đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020.
4. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1895/QĐ-TTg về việc phê duyệt
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc chương trình
quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020.
5. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương
trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
149
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA:
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH KINH DOANH NÔNG NGHIỆP ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI
6. Nguyễn Thanh Sơn (2020), Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam, Tạp chí Công thương, tapchicongthuong.vn, truy cập ngày 21/01/2021,
tại trang web http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/dao-tao-nguon-nhan-luc-cho-
nong-nghiep-nong-thon-viet-nam-72753.htm.
7. Bùi Kinh Thanh (2020), Những yêu cầu đặt ra cho phát triển nông nghiệp Việt
Nam trong bối cảnh mới, Báo Nhân dân, nhandan.com.vn, truy cập ngày 20/01-
2020, tại trang web https://nhandan.com.vn/dang-va-cuoc-song/nhung-yeu-cau-
dat-ra-cho-phat-trien-nong-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-moi-624415/.
150
nguon tai.lieu . vn