Xem mẫu

  1. Báo cáo Thực trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra (tháng 3/2004) 1. Bối cảnh - Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển hướng chiến lược lâm nghiệp, từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, đặc biệt là đa dạng hoá các phương thức quản lý tài nguyên rừng. - Cộng đồng tham gia quản lý rừng là một trong những hình thức quản lý rừng đang thu hút sự quan tâm ở cấp Trung ương và địa phương. Xét về mặt lịch sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đặc biệt, trong vài năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai giao đất, giao rừng cho cộng đồng (làng bản , nhóm hộ...) quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, theo đó, cộng đồng với tư cách như một chủ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước. Thực tiễn một số nơi đã chỉ rõ quản lý rừng với sự tham gia của các cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam. Tuy nhiên, xét về khía cạnh pháp lý, cộng đồng chưa được thừa nhận là đối tượng được giao đất, giao rừng.
  2. - Có hàng loạt câu hỏi đang đặt ra, như: vị trí, vai trò của cộng đồng trong hệ thống tổ chức quản lý rừng ở Việt Nam như thế nào? Có nên khuyến khích phát triển rừng cộng đồng hay không? Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển rừng cộng đồng là gì? Khuôn khổ pháp lý nhằm khuyến khích cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển rừng cần được xác lập như thế nào?.vv... Xuất phát từ yêu cầu trên, báo cáo này góp phần làm rõ hiện trạng, tiềm năng, xu thế và những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển rừng cộng đồng ở Việt Nam, giúp các nhà luật pháp, các nhà hoạch định chính sách thấy được yêu cầu bức xúc từ thực tiễn quản lý tài nguyên rừng để có những đề xuất bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng mới các chính sách nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cộng đồng tham gia bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng ở Việt Nam. Bài viết gồm: 4 phần - Quan niệm về quản lý rừng cộng đồng - Khái quát hiện trạng QLRCĐ ở Việt Nam - Tiềm năng, xu thế phát triển và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển rừng cộng đồng - Đề xuất 2. Nội dung 2.1. Quan niệm về cộng đồng và quản lý rừng cộng đồng a. Quan niệm về "cộng đồng" trong quản lý rừng
  3. Các nhà xã hội học, dân tộc học đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm "cộng đồng". ở đây chỉ đưa ra khái niệm "cộng đồng" được dùng trong lĩnh vực quản lý tài nguyên rừng, theo đó, có thể khái quát thành 3 loại ý kiến chính sau đây: - Loại thứ nhất cho rằng, thuật ngữ "cộng đồng" chính là nói đến cộng đồng dân cư thôn bản, bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội có những điểm tương đồng về mặt văn hoá truyền thống, có các mối quan hệ sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một thôn bản. - Loại thứ hai cho rằng, "cộng đồng" bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội có những điểm giống nhau và có các mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, theo quan niệm này, tính chất giống nhau về một điểm hoặc một số điểm nào đó là yếu tố hình thành nên những quan hệ cộng đồng trong xã hội. Có nhiều loại cộng đồng khác nhau như cộng đồng sắc tộc, cộng đồng làng bản, cộng đồng tôn giáo... - Loại thứ ba cho rằng, thuật ngữ "cộng đồng" được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến các nhóm người có các mối quan hệ sản xuất và đời sống gắn bó với nhau. Theo quan niệm này, "cộng đồng" có thể là cộng đồng toàn thôn bản; cộng đồng sắc tộc trong thôn; cộng đồng các dòng họ hoặc các nhóm hộ. Thậm chí có ý kiến còn cho rằng các hợp tác xã, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở cấp thôn bản cũng được coi là một loại hình của cộng đồng. Mặc dù có những quan niệm khác nhau về cộng đồng, nhưng phần lớn các ý kiến đều cho rằng thuật ngữ "cộng đồng" được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân cư thôn bản. b. Quan niệm về "quản lý rừng cộng đồng"
  4. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm quản lý rừng cộng đồng, có thể khái quát thành 3 loại ý kiến chính sau đây: - Loại thứ nhất cho rằng, "quản lý rừng cộng đồng" là quản lý rừng được thực hiện bởi cộng đồng. Cộng đồng có thể là chủ thể quản lý rừng hoặc cộng đồng tham gia quản lý rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng. Hay nói một cách khác, "quản lý rừng cộng đồng" là việc bảo vệ, xây dựng và sử dụng rừng có sự tham gia điều hành bởi cộng đồng, bất kể rừng đó thuộc quyền sở hữu của cộng đồng hay không. Loại ý kiến này đồng nhất khái niệm quản lý rừng cộng đồng với quản lý rừng dựa vào cộng đồng. - Loại thứ hai cho rằng,"quản lý rừng cộng đồng" là cộng đồng quản lý rừng thuộc sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. - Loại thứ ba đồng nhất quản lý rừng cộng đồng với lâm nghiệp cộng đồng. Có nghĩa là, diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm từ rừng. Tuy có ý kiến khác nhau về khái niệm quản lý rừng cộng đồng nhưng phần lớn các ý kiến đều thống nhất như sau: Thuật ngữ "cộng đồng" được sử dụng trong khái niệm "quản lý rừng cộng đồng", được giới hạn là tập hợp các cá nhân trong cộng đồng thôn bản gắn bó chặt chẽ với nhau qua các hoạt động sản xuất, sinh hoạt và đời sống văn hoá xã hội. Quản lý rừng cộng đồng có 3 cấu phần: - Cộng đồng thôn bản có quyền sử dụng rừng và dất rừng.
  5. - Cộng đồng thôn bản tham gia tích cực vào việc quản lý rừng và đất rừng trên lãnh thổ của mình. - Tất cả các hộ hoặc nhóm hộ có quyền tham gia và quyết định các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc rừng cũng nh ư chia sẻ lợi ích từ diện tích rừng của thôn bản. Có 2 hình thức quản lý rừng cộng đồng, đó là cộng đồng thôn bản trực tiếp quản lý rừng và đất rừng thuộc quyền sử dụng chung của thôn bản và cộng đồng thôn bản tham gia bảo vệ, gây trồng những diện tích rừng thuộc quyền quản lý của các tổ chức nhà nước. 2.2. Khái quát hiện trạng QLRCĐ ở Việt Nam 2.2.1. Khái quát chung - Theo kết quả kiểm kê, diện tích đất có rừng trong cả nước đến đầu năm 2000 là 10.915.592ha. Trong đó, Nhà nước đã công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của các chủ rừng là 7.956.592 ha. Như vậy, cả nước còn 2.958.671 ha đất lâm nghiệp có rừng chưa được giao hoặc cho thuê cho chủ quản lý cụ thể (chưa kể diện tích đất trống đồi núi trọc quy hoạch cho trồng rừng). - Theo số liệu báo cáo của các địa phương (Xem biểu 01 kèm theo), đến tháng 6/2001, các cộng đồng dân cư thuộc 1203 xã, 146 huyện của 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang tham gia quản lý 2.348.295 ha rừng và đất chưa có rừng quy hoạch để trồng rừng (gọi tắt là đất rừng), chiếm khoảng 15,5% diện tích đất lâm nghiệp (đất có rừng và đất rừng) trong toàn quốc. 2.2.2 Nguồn gốc hình thành rừng cộng đồng
  6. Rừng và đất rừng do cộng đồng quản lý được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có thể phân thành 3 loại sau đây: a. Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống từ nhiều đời nay - Tính đến tháng 6/2001, tổng diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống là 214.006 ha, bao gồm: 86.701 ha đất có rừng và 127.304 ha đất trống đồi núi trọc. Đó là những khu rừng thiêng, rừng ma, rừng đình, rừng thổ công, rừng mó nước (giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng), những khu rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng (săn bắn, thu hái măng, cây thuốc...). Ranh giới rừng từng thôn bản đều được phân định rất rõ ràng trong sự hiểu biết của người dân. Một số nơi, rừng trồng của HTX, rừng tự nhiên đã giao cho HTX trước đây sau khi chuyển đổi tổ chức HTX đã giao lại cho các xã hoặc thôn bản quản lý. Hình thức này phổ biến ở cộng đồng người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa, nơi tính cộng đồng , hương ước làng bản còn được duy trì. Xét về khía cạnh pháp lý, Tại Điều 9, Nghị định 17/HĐBT ngày 17/1/92 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng (1991) đã ghi rõ: "Làng, bản hiện còn rừng làng, rừng bản trước ngày ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, mà không trái với những quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Luật đất đai thì được xét công nhận là chủ rừng hợp pháp đối với diện tích rừng, đất trồng rừng đang quản lý sử dụng". Như vậy, theo văn bản trên, Nhà nước thừa nhận thôn bản là chủ rừng đối với diện tích rừng làng, rừng bản đã nói ở trên. Nhưng trên thực tế, phần lớn diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng tự quản lý chính quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các cộng đồng. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, mọi sự tác động của Nhà nước và các tổ chức Nhà nước khác vào loại rừng này đều phải có sự thoả thuận và đồng ý của cộng đồng. Những khu rừng này có vai trò quan trọng trong sản xuất, đời sống hoặc
  7. có ý nghĩa tâm linh, tôn giáo đối với cộng đồng và gần như cộng đồng có toàn quyền quyết định trong việc bảo vệ và sử dụng rừng cũng như hưởng lợi từ rừng. b. Rừng và đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng - Trong quá trình thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, do đặc điểm của từng địa phương, đã có 18 tỉnh thí điểm giao đất, giao rừng cho cộng đồng quản lý ổn định, lâu dài với tổng diện tích đất lâm nghiệp là 1.197.961 ha, bao gồm đất có rừng 669.750 ha, đất trống đồi núi trọc 528.211 ha. Tuy chính quyền địa phương đã ra quyết định giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng, nhưng cho đến nay, rất ít cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Hiện nay một số tỉnh vẫn tiếp tục giao thí điểm rừng cho cộng đồng quản lý, như: Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Đắc Lắc... c. Rừng và đất rừng cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước với tổng diện tích là 936.327 ha, bao gồm rừng phòng hộ 494.242 ha; rừng đặc dụng 39.289 ha; rừng sản xuất 402.795 ha. Đây là hình thức cộng đồng nhận khoán theo quy định tại Nghị định 01/CP của Chính phủ, các tổ chức giao khoán cho cộng đồng chủ yếu là: lâm trường quốc doanh; Ban quản lý các khu rừng đặc dụng, phòng hộ; Ban quản lý các dự án 327, 661 và các dự án khác; các tổ chức kiểm lâm ở những nơi rừng và đất rừng Nhà nước chưa giao cho chủ quản lý cụ thể. Sau khi ký hợp đồng khoán, các cộng đồng tự tổ chức lực lượng thực hiện các công việc đã ký kết trong hợp đồng. 2.2.3. Hiện trạng phân bố rừng cộng đồng theo vùng địa lý (xem biểu 02)
  8. - Vùng Tây Bắc với diện tích rừng cộng đồng là 1.057.585 ha, chiếm 45,04% so với tổng diện tích rừng cộng đồng trong cả nước. Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng là 732.676,6ha. - Vùng Đông Bắc với diện tích rừng cộng đồng là 472.376 ha, chiếm 20,12% so với tổng diện tích rừng cộng đồng trong cả nước. Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng là 299.987 ha. - Vùng Tây Nguyên với diện tích rừng cộng đồng là 495.797ha chiếm 21,11% so với tổng diện tích rừng cộng đồng trong cả nước. Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng là 131.634,9ha. - Vùng Bắc Trung Bộ với diện tích rừng cộng đồng là 188.144,4 ha, chiếm 8,01% so với tổng diện tích rừng cộng đồng trong cả nước. Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng là 39.663,6ha - Các vùng còn lại, diện tích đất lâm nghiệp giao cho cộng đồng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Qua đây cho thấy, cộng đồng tham gia quản lý rừng chủ yếu là các cộng đồng cư trú tại khu vực miền núi cao, thuộc vùng sâu, vùng xa; sản xuất chủ yếu là tự cung, tự cấp; số lượng và thành phần đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu dân số; nơi còn duy trì nhiều phong tục, tập quán của dân tộc mình; cuộc sống của các thành viên cộng đồng gắn bó, chưa bị tác động nhiều bởi các trào lưu nếp sống của cơ chế thị trường; đồng thời, vai trò của già làng, trưởng bản còn có tác dụng quan trọng trong việc tổ chức và chỉ đạo các công việc của cộng đồng. 2.2.4. Các hình thức tổ chức quản lý rừng cộng đồng
  9. Hình thức tổ chức QLRCĐ rất đa dạng với quy mô khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng cộng đồng, từng địa phương, tuy nhiên có thể khái quát các hình thức chủ yếu sau: a. Hình thức tổ chức quản lý rừng theo dòng tộc (dòng họ), theo dân tộc Cộng đồng tổ chức quản lý rừng và đất rừng theo dòng tộc, theo dân tộc, nơi có diện tích đất lâm nghiệp nhỏ, do họ tự thừa nhận hay đã mặc nhiên công nhận từ các thế hệ trước. Những khu rừng này, thường nằm gần nơi cư trú của các cộng đồng với các tên gọi như: Rừng thiêng (tôn thờ thần thánh theo tín ngưỡng), rừng ma (khu rừng chôn cất người chết - nghĩa địa), rừng mó nước (khu vực bảo vệ nguồn nước cung cấp trực tiếp cho cộng đồng). Việc tổ chức bảo vệ rừng gắn bó chặt chẽ với những tập quán truyền thống và hệ thống tư tưởng của cộng đồng, vai trò của người trưởng tộc hoặc già làng rất quan trọng. Hầu hết các công việc quản lý rừng của họ đều có sự phân công rõ ràng, các thành viên thực hiện tự giác và nghiêm túc. b. Hình thức tổ chức quản lý rừng theo thôn, làng, buôn, bản, ấp (gọi chung là thôn) Đây là hình thức tổ chức QLRCĐ chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ chức này dựa trên cơ sở địa lý và khu vực người dân sinh sống. Phần lớn các thôn đều xây dựng hương ước hoặc quy chế quản lý rừng cộng đồng, tổ chức lực lượng tuần tra rừng chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ gia đình trong thôn. Trưởng thôn điều hành các công việc chung của cộng đồng liên quan đến quản lý, bảo vệ rừng cộng đồng. c. Các tổ chức chính trị - xã hội (cấp thôn xã) tổ chức quản lý rừng
  10. Hiện nay, ở một số địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội cấp làng xã đã tham gia quản lý, bảo vệ rừng, như: Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên...Những diện tích rừng này đã được chính quyền địa phương giao cho các tổ chức đó quản lý, bảo vệ lâu dài hoặc nhận khoán từ các tổ chức Nhà nước (lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng), các dự án, các tổ chức kiểm lâm (đối với diện tích rừng và đất rừng chưa giao cho chủ quản lý cụ thể) thông qua các hợp đồng khoán dài hạn hoặc ngắn hạn. 2. 2. 5. Nhận định khái quát về hiệu quả QLRCĐ Cho đến nay chưa có đánh giá hiệu quả QLRCĐ với quy mô toàn quốc, tuy nhiên, căn cứ vào kết quả của một số nghiên cứu ban đầu và ý kiến của địa phương, có thể đưa ra một số nhận định sau: - Nhiều nơi rừng cộng đồng được bảo vệ và phát triển tốt: những nơi rừng do cộng đồng quản lý hầu như không bị chặt phá, do không có xâm hại nên rừng ngày càng tăng trưởng. - Góp phần nâng cao thu nhập của người dân, xoá đói giảm nghèo, đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng Đối với diện tích rừng do cộng đồng nhận khoán bảo vệ, hàng năm được Nhà nước hoặc chủ rừng trả tiền công khoán, đã góp phần giải quyết một phần khó khăn cho một bộ phận dân cư. Đối với diện tích rừng và đất rừng chính quyền địa phương giao, cộng đồng có thể tận dụng khi rừng chưa khép tán hoặc đất trống chưa trồng rừng để canh tác kết hợp cây nông nghiệp, được các dự án đầu tư hỗ trợ vốn để sản xuất, được hưởng lợi sản phẩm từ rừng.
  11. Đối với diện tích rừng cộng đồng quản lý theo truyền thống cho đến nay hầu như cộng đồng có toàn quyền quyết đinh việc sử dụng tài nguyên rừng, trong đó đáp ứng nhu cầu lâm sản cho các công trình chung của cộng đồng. - Tiết kiệm chi phí cho Nhà nước: hiện nay có nhiều cộng đồng đang quản lý rừng hầu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí, nhưng rừng vẫn được bảo vệ tốt. - Góp phần khôi phục truyền thống văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng: thông qua việc quản lý rừng cộng đồng, có sự giúp đỡ và hướng dẫn của các tổ chức Nhà nước, đã góp phần thúc đẩy việc xây dựng và thực hiện quy chế quản lý, bảo vệ rừng ở cộng đồng; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; khôi phục truyền thống văn hoá tốt đẹp, hương ước của cộng đồng. 2.3. Tiềm năng, xu thế phát triển và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển QLRCĐ 2.3.1. Tiềm năng và xu thế phát triển QLRCĐ (1)- Rừng cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu thế mang tính khách quan và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam Tính đến 6/2001, diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng tham gia quản lý là 2.348.390 ha, chiếm 15,5.% diện tích đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc. Trong đó diện tích đất lâm nghiệp được Nhà nước giao cho cộng đồng để quản lý, sử dụng lâu dài (Bằng các quyết định của UBND các cấp có thẩm quyền) là: 1.211.000 ha, chiếm 51,2% tổng diện tích đất lâm nghiệp cộng đồng đang tham gi a quản lý. Tuy số liệu thống kê chưa đầy đủ nhưng cũng đã cho thấy hình thức cộng
  12. đồng tham gia bảo vệ và xây dựng rừng hiện đang có tại 1.203 xã thuộc 146 huyện trên địa bàn 24 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. (2)- Xu thế hiện nay là các tỉnh trên phạm vi toàn quốc vẫn tiếp tục tiến hành giao một phần diện tích đất lâm nghiệp cho cộng đồng quản lý, sử dụng lâu dài, đó là chưa kể một số diện tích rừng do UBND xã tự giao cho cộng đồng dân cư hay nhóm hộ quản lý mà chưa có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Theo số liệu của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ tài nguyên và Môi trường), tính đến năm 2000, toàn quốc còn khoảng 1,7 triệu ha đất có rừng và khoảng 5 triệu ha đất trống đồi trọc chưa giao cho các chủ quản lý cụ thể. Trong những năm tới, các tỉnh sẽ tiếp tục giao một phần diện tích đất nói trên cho cộng đồng (cộng đồng dân cư làng, bản; các tổ chức đoàn thể) quản lý, sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, như: Sơn La, Lai Châu, Đắc Lắc, Cao Bằng, Bắc Cạn. - Phần lớn diện tích rừng phòng hộ chưa giao cho chủ quản lý cụ thể, chính quyền cấp xã và lực lượng kiểm lâm sở tại có trách nhiệm quản lý, bảo vệ (chủ yếu là quản lý về mặt nhà nước). Tỉnh tổ chức thành các Dự án 661, giao cho các lâm trường quốc doanh đóng trên địa bàn làm chủ dự án, lâm trường dùng kinh phí được Nhà nước cấp để khoán cho các hộ gia đình, cộng đồng thôn (bản), các tổ chức đoàn thể ở cơ sở (Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh...) bảo vệ một phần diện tích rừng nói trên. (3)- Quản lý rừng có sự tham gia của các cộng đồng dân cư địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng khả thi về mặt kinh tế-xã hội, bền vững về mặt sinh thái và tiết kiệm chi phí cho nhà nước. Trên thực tế, rừng cộng đồng hầu như không có sự đầu tư hỗ trợ của nhà nước. Cộng đồng dân cư tự tổ chức quản lý bảo vệ và khai thác lợi ích từ rừng để
  13. trang trải các chi phí liên quan đến bảo vệ rừng. Nhờ có các luật lệ của nội bộ cộng đồng, người dân tự giác và có ý thức tự quản cao nên rừng cộng đồng không bị tàn phá và tồn tại từ lâu đời cho đến nay. 2.3.2. Điều kiện giao rừng và đất rừng cho cộng đồng Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, rừng và đất rừng giao cho cộng đồng quản lý, gồm: - Diện tích rừng phân bố xa khu dân cư, vùng sâu, vùng xa, điều kiện địa hình phức tạp mà các tổ chức Nhà nước hay hộ gia đình không có khả năng quản lý hoặc quản lý không có hiệu quả. Những vùng miền núi có cơ sở hạ tầng yếu vì ở đó cần áp dụng những hình thức quản lý đất rừng linh hoạt và phi tập trung để dễ dàng thích ứng với các nhu cầu và tính đa dạng của địa phương. - Các khu rừng có tác dụng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng; rừng phòng hộ đầu nguồn diện tích nhỏ, phân tán chỉ có ý nghĩa trong phạm vi làng, xã; rừng thiêng, rừng ma, rừng cung cấp lâm sản truyền thống cho cộng đồng (săn bắt, lấy măng...), rừng núi đá. - Các khu rừng nằm giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện; các khu rừng giàu nhưng diện tích ít không thể chia riêng cho các hộ mà cần sử dụng chung cho cộng đồng. - Những nơi kinh tế tự cấp tự túc vẫn còn chiếm ưu thế, cuộc sống của người dan vẫn còn phụ thuộc nhiều vào rừng. - Những vùng có truyền thống cộng đồng cao và kiến thức bản địa cao.
  14. - Những vùng mà việc duy trì rừng hiện còn là mối quan tâm của toàn cộng đồng. ở những vùng này, nếu tiến hành việc giao đất, giao rừng cho các hộ cá thể, dễ làm giảm mất sự kiểm soát và quyền hưởng lợi của cộng đồng đối với các nguồn tài nguyên rừng. 2.3.3 Những vấn đề đặt ra trong quá trình QLRCĐ - Hiện nay có hàng triệu ha rừng đang do cộng đồng quản lý, liệu có thể tồn tại được không khi Nhà nước không thừa nhận về mặt pháp lý cộng đồng là chủ rừng? Ai sẽ là người thay thế cộng đồng quản lý diện tích rừng nói trên? ở một số địa phương, hình thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng theo luật tục truyền thống vốn rất hiệu quả trước đây thì hiện đang mất dần hiệu lực, trong khi đó các hình thức quản lý rừng tập trung thông qua các tổ chức của Nhà nước (Lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ,) lại chưa gắn bó chặt chẽ với nguyện vọng và nhu cầu cuộc sống của cộng đồng, quản lý rừng không có hiệu quả. - Do cộng đồng chưa được công nhận như là một chủ thể, một đối tượng được giao đất, nên không có đủ các quyền lợi và nghĩa vụ, vì vậy không chủ động trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Mặt khác, khi có các vụ vi phạm về rừng cộng đồng đã gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý trách nhiệm đối với các vi phạm, ai là người thay mặt cộng đồng giải quyết các quyền lợi, nghĩa vụ đối với rừng và đất rừng cũng như khi có tranh chấp xẩy ra trong nội bộ cộng đồng. - Sự tham gia của cộng đồng vào quản lý rừng là một phương thức quản lý rừng mới đối với Việt Nam và ở một mức độ nào đó dường như đi ngược lại với sự chuyển đổi mạnh mẽ trong lĩnh vực nông nghiệp (Lấy hộ gia đình làm hạt nhân, làm chủ thể sản xuất). Việc đồng nhất giữa khái niệm "cộng đồng" với khái niệm "tập thể" và sự tan rã của mô hình hợp tác xã kiểu cũ đã phần nào tác động làm chậm lại quá trình thúc đẩy QLRCĐ.
  15. - Để tạo khuôn khổ pháp lý cho cộng đồng dân cư làng bản tham gia quản lý rừng, thì cần thừa nhận cộng đồng làng bản là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, cần phải làm rõ những vấn đề sau: Nếu cộng đồng dân cư làng bản được công nhận là một pháp nhân thì thuộc loại hình tổ chức nào? Ai là cơ quan chủ quản của cộng đồng làng bản? làng bản là nơi cư trú của người nông dân từ lâu đời nhưng không có quyết định thành lập làng bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Cộng đồng dân cư hiện đang quản lý rừng sẽ được hưởng lợi ích gì? Cộng đồng có được nhà nước hỗ trợ như các tổ chức nhà nước quản lý rừng không? Ai là người chịu trách nhiệm dân sự đối với diện tích rừng nếu sẽ được giao chính thức cho cộng đồng? Cộng đồng dân cư nếu được giao đất, giao rừng thì có quyền chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê, góp vốn bằng giá trị rừng không? 2. 4. Đề xuất Từ thực tiễn cho thấy cần thừa nhận cộng đồng là một chủ thể tham gia quản lý tài nguyên rừng. Về khía cạnh pháp luật và chính sách, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: a. Xác định rõ vị trí pháp lý của cộng đồng thôn bản Đề nghị bổ sung vào Luật Dân sự , cộng đồng dân cư làng bản là một pháp nhân. Tuy nhiên, cộng đồng là 1 tổ chức xã hội mang tính tổng hợp về lãnh thổ, dân cư, xã hội và văn hoá; là 1 cộng đồng xã hội tự quản, vận hành theo các nguyên tắc của
  16. luật tục hay tập quán, trong đó tính cộng đồng là nguyên tắc ứng xử quan hệ xã hội nền tảng, do vậy, cộng đồng dân cư làng bản không nhất thiết phải có những thủ tục hành chính về thành lập, giải thể giống như các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội khác. Tuy nhiên cũng cần xác định rõ cộng đồng dân cư làng (bản) là loại hình tổ chức gì? b. Khảng định quyền tiếp cận của cộng đồng đối với rừng và đất rừng Thực chất là làm rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng và đất rừng đối với cộng đồng. Đề nghị bổ sung vào Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cộng đồng là một đối tượng được giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất, đất rừng đặc dụng. Quy định rõ tình trạng rừng giao cho cộng đồng quản lý. c. Quy định quyền lợi của cộng đồng khi tham gia quản lý rừng - Công nhận cộng đồng thôn bản là một đối tượng được vay vốn đầu tư và được hưởng ưu đãi đầu tư khi tham gia bảo vệ và xây dựng rừng. Đề nghị bổ sung vào Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, cộng đồng thôn bản là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư khi tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp như các tổ chức khác. - Quy định quyền hưởng lợi từ rừng đối với cộng đồng khi được Nhà nước giao, khoán rừng và đất lâm nghiệp. d. Các hình thức hỗ trợ khác
  17. - Khuyến nông, khuyến lâm - Thiết lập hệ thống tổ chức quản lý rừng cộng đồng - Miễn giảm thuế... Khái quát định hướng chính sách hỗ trợ QLRCĐ được mô tả ở sơ đồ sau: Định hướng chính sách hỗ trợ QLRCĐ Xây dựng chính sách hỗ Tạo cơ sở pháp trợ QLRCĐ lý Cộng đồng thôn bản là một Chính sách đất Chính sách đầu pháp nhân trong Luật Dân đai tư và tín dụng sự Cộng đồng thôn bản là đối Chính sách khai thác Chính sách tượng được giao đất, giao và hưởng lợi từ khuyến nông, rừng trong Luật Đất đai, rừng khuyến lâm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
  18. Trong thời gian trước mắt cần tập trung vào một số hoạt động sau: a. Thực hiện giao đất, giao rừng cho cộng đồng thôn bản quản lý, sử dụng lâu dài đối với những trường hợp sau: Những diện tích rừng làng, rừng bản đã được các cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống từ trước đến nay, hầu như không có sự hỗ trợ của nhà nước cả về vốn và kỹ thuật, và trên thực tế, chính quyền cấp huyện, xã đã mặc nhiên công nhận loại hình rừng này. Đây cũng được coi là nguỵện vọng của hầu hết các cộng đồng có loại rừng nói trên đề nghị với Nhà nước giải quyết. Tuy nhiên, cũng cần giải quyết những vướng mắc trong việc hợp pháp hoá loại rừng này. Theo Điều 9, Nghị định 17/CP ngày 17/01/92 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (1991) thì Nhà nước chỉ xét công nhận cộng đồng là chủ rừng hợp pháp đối với rừng làng, rừng bản có trước thời gian Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời. Như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn cho các địa phương khi tổ chức thực hiện chủ trương này. Cách tốt nhất là cơ quan nhà nước có thẩm quyền rà soát và hợp pháp hoá loại rừng nói trên tính đến thời điểm hiện nay. Một phần diện tích đất lâm nghiệp hiện đang do UBND xã (hoặc lực lượng kiểm lâm sở tại) quản lý theo tinh thần Quyết định 245/TTg ngày 21./12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý. Diện tích rừng phòng hộ có tác dụng giữ nguồn nước và phòng hộ cục bộ, phân tán có diện tích dưới 5.000 ha; Các khu rừng phân bố xa khu dân cư mà các hộ gia đình không có khả năng quản lý hoặc không dám nhận; diện tích rừng tiếp giáp giữa các thôn, xã, huyện, tỉnh; diện tích rừng mà các hộ gia đình, cá nhân hay tổ chức Nhà nước quản lý không có hiệu quả.
  19. ưu tiên giao cho cộng đồng thôn bản quản lý các loại rừng khoanh nuôi tái sinh, rừng đang phục hồi và có trữ lượng; Hạn chế giao đất trống đồi trọc cho cộng đồng thôn bản nếu như Nhà nước chưa có sự hỗ trợ về vốn cho cộng đồng để đầu tư phát triển rừng. Chủ tịch UBND huyện có quyền ra quyết định giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng nhưng chưa nhất thiết phải cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) cho cộng đồng. Vì đối với hộ gia đình thì sổ đỏ là căn cứ pháp lý để thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, nhưng đối với cộng đồng dân cư thì việc được cấp sổ đỏ hay có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều có giá trị ngang nhau. b. Đề nghị Nhà nước ban hành 1 văn bản hướng dẫn về cấu trúc cộng đồng, các quy định nội bộ cộng đồng, các loại hình cộng đồng (cộng đồng dân cư làng, bản, nhóm hộ, tổ chức đoàn thể); quyền và nghĩa vụ của lãnh đạo cộng đồng; tăng cường trách nhiệm của trưởng thôn (bản) trong việc tổ chức các hoạt động sản xuất trên địa bàn thôn (bản) quản lý; phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực tự quản của cộng đồng. c. Hướng dẫn việc xây dựng hương ước của làng bản phù hợp với luật pháp nhà nước. Phục hồi và tăng cường tính pháp lý của các quy ước nội bộ cộng đồng về bảo vệ và sử dụng rừng, đảm bảo sự hỗ trợ của các cấp chính quyền cơ sở trong quá trình thực thi các quy ước đó. d. Hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu cho cộng đồng trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng trên đất được giao (có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ không nhất thiết phải có sổ đỏ ) theo một thời gian thích hợp (có thể từ 5 - 7 năm), vì trong thời gian đó hầu như không có sản phẩm thu hoạch từ rừng.
  20. Hỗ trợ vốn đầu tư cho cộng đồng để bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh làm giàu rừng, đặc biệt là rừng quá nghèo kiệt, rừng non mới phục hồi hiện cộng đồng đang quản lý (có thể dựa vào quy định của Quyết định 661 để quy định chính sách này). Đối với các cộng đồng được giao quản lý rừng phòng hộ cũng được Nhà nước hỗ trợ kinh phí bằng mức hỗ trợ như các tổ chức Nhà nước. Cộng đồng thôn bản tham gia quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng cũng được hưởng chế độ hiện hành theo Quyết định 661/TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, vốn đầu tư của Nhà nước cấp để bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu với số tiền công 50.000 đ/ha/năm, thời gian không quá 5 năm; khoanh nuôi tái sinh kết hợp trồng bổ sung không quá 1 triệu đ/ha, thời hạn không quá 6 năm; hỗ trợ bình quân 2 triệu đ/ha nếu cộng đồng tự bỏ vốn trồng rừng sản xuất là các loại cây gỗ đặc biệt quý hiếm có chu kỳ trên 30 năm; suất đầu tư hỗ trợ trồng rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu là 4 triệu đồng/ ha. - Cộng đồng thôn bản tham gia quản lý rừng sản xuất được hưởng ưu đãi theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi (1998) và các văn bản dưới Luật như các tổ chức khác, trong đó có Nghị định 43/CP ngày 29/6/1999 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Theo đó, cộng đồng được vay vốn trồng rừng với lãi xuất ưu đãi (thời điểm hiện nay là 5,4%/năm), thời gian vay tuỳ thuộc vào chu kỳ cây rừng, phải hoàn trả cả vốn và lãi tiền vay khi có sản phẩm khai thác chính, được miễn giảm thuế theo quy định hiện hành. e. Cho phép thành lập quỹ thôn (bản) về bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. Quỹ này có thể được hình thành từ các nguồn như: Tiền bán lâm sản khai thác trên rừng của cộng đồng; tiền lệ phí do các thành viên nộp khi họ được khai thác lâm sản trên rừng cộng đồng để làm nhà và các nhu cầu khác...
nguon tai.lieu . vn