Xem mẫu

  1. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ MỚI VỀ CÔNG CỤ TÀI CHÍNH (IFRS 9) TRONG KẾ TOÁN DỰ PHÒNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Đào Nam Giang1, Trần Nhật Tân2 1 Khoa Kế toán kiểm toán - Học viện Ngân hàng, 2Ngân hàng Agribank Hà Nam TÓM TẮT Các nghiên cứu trước cho thấy IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn; ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ, tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính,…Bên cạnh đó một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu có thể kể đến như tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đông hay chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu thập dữ liệu,…Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9, phần lớn là các nước phát triển với điều kiện kinh tế khác biệt lớn so với Việt Nam. Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước, sử dụng phương pháp điều tra qua bảng hỏi để xác nhận lại khả năng, khó khăn và thuận lợi trong việc áp dụng mô hình lỗ dự kiến của IFRS9 trong điều kiện của các NHTM Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu chính có thể thấy là phần lớn các chủ thể tham gia khảo sát cho rằng mặc dù các NHTM Việt Nam đã tuân thủ các quy định trong của NHNN nhưng vẫn tồn tại hiện tượng giấu lỗ qua dự phòng; do đó việc áp dụng IFRS 9 là cần thiết nhưng không nên áp dụng trực tiếp chuẩn mực này mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Những khó khăn chính khi áp dụng IFRS là sự lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền kinh tế; chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao, thông tin thị trường thiếu minh bạch, hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hoàn thiện, rào cản về ngôn ngữ. Yếu tố con người và công nghệ không phải là những nhân tốt gây trở ngại lớn. Từ khóa: dự phòng rủi ro tín dụng (loan loss provision); IFRS9; mô hình lỗ dự kiến (expected loss model); ngân hàng thương mại (commercial banks). 1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 1.1. Mô hình “Lỗ dự kiến -expected loss” trong xác định dự phòng rủi ro tín dung theo IFRS 9 và tác động của việc áp dụng tại các NHTM Trước 2018, IAS 39 – Công cụ tài chính đo lường và ghi nhận (IAS39) áp dụng mô hình tổn thất tín dụng phát sinh trong xác định và ghi nhận giảm giá trị của khoản cho vay và phải thu. Theo đó, các khoản cho vay và phải thu được đánh giá bị suy giảm và tổn thất suy giảm được ghi nhận chỉ khi tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán có bằng chứng khách quan về việc suy giảm giá trị do một hoặc nhiều sự kiện xảy ra sau khi ghi nhận lần đầu(ví dụ: người vay khó khăn về tài chính, giảm giá trị tài sản thế chấp, rủi ro phá sản). Mô hình này của IAS 39 bị chỉ trích là ghi nhận các khoản tổn thất tín dụng không kịp thời ((IASB, 2014),(Sultanoğlu, 2018)), làm tăng tác động của chu kỳ kinh tế đên các NHTM hoặc cả hai ((Novotny-Farkas, 2015); (Laeven & Majnoni, 2003) (Beatty & Liao, 2011; Bushman & Williams, 2012; Cohen & Edwards, 2017). Theo tổng kết của IASB, trong cuộc khủng hoảng tài chính, việc chậm trễ ghi nhận tổn thất tín dụng đối với các khoản vay (và các công cụ tài chính khác) được xác định là một điểm yếu trong các chuẩn mực kế toán hiện hành. Tại cuộc họp tháng 4/2009, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, IASB đã cam kết xem xét lại toàn diện 64
  2. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 các quy đinh hiện hành của IAS 39. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến tháng 7/2014, IASB ban hành bản chính thức cuối cùng của IFRS 9 – Công cụ tài chính (IFRS9) để thay thế cho IAS 39 và toàn bộ các phiên bản trước đó của IFRS 9. IFRS 9 đưa ra những quy định về việc ghi nhận, đo lường các công cụ tài chính, đánh giá giảm giá trị và kế toán dự phòng. IFRS 9 được phép áp dụng sớm song song cùng IAS 39, chính thức có hiệu lực từ hoặc sau ngày 1/1/2018. IFRS 9 đưa ra mô hình mới – mô hình tổn thất tín dụng dự kiến (ECL – Expected Credit Loss Model) thay thế cho mô hình tổn thất phát sinh (Incurred Loss Model) của IAS 39. Mô hình này được áp dụng cho các TSTC đo lường theo giá trị phân bổ; TSTC bắt buộc đo lường theo giá trị hợp lý thông qua Thu nhập toàn diện khác; các cam kết cho vay khi có nghĩa vụ hiện tại là các gia hạn tín dụng (trừ trường hợp các khoản vay này được đo lường theo giá trị hợp lý thông quan lãi.lỗ) “Tổn thất tín dụng dự kiến” - phản ánh mô hình chung về sự suy giảm hay sự cải thiện chất lượng tín dụng của các công cụ tài chính. Giá trị được tính toán bởi ECLs được ghi nhận như một khoản dự phòng tổn thất hay dự phòng phải trả phụ thuộc vào mức độ suy giảm tín dụng của công cụ tài chính kể từ lần ghi nhận đầu tiên. Khoản tổn thất tín dụng dự kiến được xác định bởi một trong 3 phương pháp: phương pháp chung, phương pháp đơn giản và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng. Bảng 1. Các phương pháp xác định khoản tổn thất tín dụng dự kiến theo IFRS 9 Phương pháp điều Phương pháp chung Phương pháp giản đơn chỉnh rủi ro tín dụng Khoản phải thu thương Tất cả các khoản cho mại đủ điều kiện, hợp Tài sản bị suy giảm giá vay và phải thu không Đối tượng áp dụng đồng tài sản theo IFRS trị ngay từ lần ghi nhận áp dụng phương pháp 15 và khoản phải thu về đầu tiên khác cho thuê Thời điểm ghi nhận ban Cùng thời điểm khi tài Cùng thời điểm khi tài đầu sản được hình thành sản được hình thành Thay đổi luỹ kế trong mô hình tổn thất trọn Phương pháp đo lường Mô hình tổn thất 12 đời kể từ lần ghi nhận Mô hình tổn thất trọn cơ bản dự phòng tổn tháng hoặc mô hình tổn đầu tiên đời thất thất trọn đời (Nguồn: pwc.com) Phương pháp giản đơn và phương pháp điều chỉnh rủi ro tín dụng chỉ áp dụng cho các trường hợp cụ thể, không mang tính tổng quát như phương pháp chung. Nên trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả chỉ xem xét đến phương pháp chung để có cách nhìn toàn diện nhất. Phương pháp chung trong IFRS 9 đưa ra mô hình ba giai đoạn cho tổn thất tín dụng dựa trên những thay đổi về chất lượng tín dụng kể từ lần ghi nhận đầu tiên. Giai đoạn 1: Các khoản cho vay và phải thu không bị suy giảm tín dụng khi ghi nhận lần đầu, không có sự tăng lên đáng kể rủi ro tín dụng sau lần ghi nhận đầu tiên, tổn thất tín dụng vẫn tiếp tục được theo dõi và phải ước tính tổn thất tín dụng dự kiến 12 tháng (ECL 12 months). Tổn thất tín dụng 12 tháng là phần tổn hại tín dụng dự kiến xuất phát từ các sự kiện có thể xảy ra trong vòng 12 tháng sau ngày báo cáo đối với TSTC. Giai đoạn 2: Nếu rủi ro tín dụng tăng lên đáng kể sau lần ghi nhận đầu tiên nhưng chưa được coi là suy giảm tín dụng thì ECL được đo trên tổn thất tín dụng dự kiến trọn đời. Giai đoạn 3: Tài sản tài chính bị suy giảm tín dụng, ECL luôn được đo trên cơ sở trọn đời. 65
  3. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 1.2. Tổng quan nghiên cứu về khả năng áp dụng và tác động dự phòng rủi ro theo IFRS 9 đến các tổ chức tín dụng IFRS 9 sẽ có tác động sâu hơn và rộng hơn lên các ngân hàng trên nhiều khía cạnh, từ lợi nhuận đến quy trình quản lý rủi ro và hệ thống công nghệ thông tin. Khoản mục dự phòng tổn thất tín dụng trên báo cáo tài chính của các ngân hàng dự kiến sẽ tăng và biến động nhiều hơn khi áp dụng IFRS 9. Theo một khảo sát của Ngân hàng Trung ương châu Âu, dự phòng tổn thất tín dụng (trong trường hợp ghi nhận toàn bộ vào báo cáo lãi lỗ) sẽ tăng từ 18-30%. Theo Fitch Ratings, trong một vài năm đầu tiên chuyển đổi sang áp dụng IFRS 9, các chỉ tiêu về vốn và tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng sẽ giảm, trong khi các chỉ tiêu về lợi nhuận sẽ có xu hướng biến động nhiều hơn. Tổ chức xếp hạng này cũng cho biết, việc chuyển sang phương pháp ECL đòi hỏi những thay đổi đáng kể về quy trình, trong đó có việc tăng cường kết hợp giữa quản lý rủi ro tín dụng và hệ thống kế toán nội bộ. Các ngân hàng cần nhiều hơn các dữ liệu về hiệu quả hoạt động của danh mục tín dụng trong suốt chu kỳ tín dụng, cũng như sẽ phải xây dựng các mô hình ước tính phức tạp. Việc chuyển đổi sang IFRS 9 sẽ bớt khó khăn hơn đối với các ngân hàng có hệ thống ngân hàng lõi mạnh, với nguồn dữ liệu khả dụng đầy đủ và phong phú. Một số nghiên cứu thực chứng điển hình về tác động của việc áp dụng mô hình tổn thất dự kiến của IFRS9 có thể được thấy trong bảng 2 Bảng 2 Tổng kết tác động của IFRS 9 từ một số bài nghiên cứu Nội dung chính TT Tên bài viết Khó khăn khi áp dụng IFRS 9 Hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 - Ghi nhận ban đầu của ECL 12 - Ghi nhận tổn thất tín dụng sớm tháng có phần hơi độc đoán và thiếu hơn sự cụ thể về mặt khái niệm - Giảm thiểu tác động khuếch Ý nghĩa của IFRS 9 đối - Việc ghi nhận tổn thất tín dụng có đại của phương pháp tổn thất với các quy tắc giám sát phụ thuộc bởi quan điểm của lãnh phát sinh đối với tính chu kỳ và và ổn định tài chính đạo giảm bớt những lo ngại về thiếu (The Significance of - Thời điểm chuyển từ ECL 12 vốn trong một cuộc khủng 1 IFRS 9 for Financial tháng sang ECL trọn đời phụ thuộc hoảng Stability and vào thời điểm NH sử dụng thông tin - Phản ánh tốt hơn chất lượng tín Supervisory Rules) từ quá khứ, hiện tại và dự đoán dụng của các TSTC tương lai để cập nhật khoản dự - Thông tin tài chính được công (Novotny-Farkas, 2015) phòng tổn thất tín dụng khai, minh bạch hơn, tăng hiệu quả hoạt động của các quy luật thị trường So sánh IAS 39 và IFRS - Chi phí áp dụng tương đối khó - Phát hiện tổn thất tín dụng 9: Phân tích thay thế định lượng đúng mức - Chỉ phù hợp cho các tổ chức được - Cải thiện tính nhất quán và (Comparison of IAS 39 niêm yết trên sàn giao dịch chứng minh bạch BCTC 2 and IFRS 9: The khoán trong khi có khoảng 700.000 Analysis of các tổ chức vừa và nhỏ đang áp Replacement) dụng chuẩn mực kế toán quốc gia (Gornjak, 2017) Mô hình tổn thất tín - Tăng gánh nặng về dự phòng tổn - Báo cáo chính xác và minh 3 dụng dự kiến của IFRS thất tín dụng cho các ngân hàng, tác bạch hơn về số lãi, lỗ và chất 9 và các tác động sớm động trực tiếp đến lợi nhuận ngân lượng TSTC giúp các nhà đầu tư 66
  4. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 có thể xảy ra đối với hàng, sẽ có tác động đến lợi ích các tin tưởng hơn BCTC ngành ngân hàng châu cổ đông và thu hút các nhà đầu tư - Ghi nhận ECL 12 tháng trong Âu và Thổ Nhĩ Kỳ - Để áp dụng mô hình ECL các giai đoạn 1 sẽ làm giảm lợi ngân hàng phải thay đổi cơ bản nhuận, giảm cổ tức phân phối ra. (Expected credit loss thậm chí đầu tư mới toàn bộ vào Các ngân hàng sẽ duy trì nguồn model by IFRS 9 and its nguồn nhân lực, kỹ thuật, phát triển vốn cao hơn cũng như giảm mức possible early impacts hệ thống CNTT độ TTTD quá mức trong trường on European and - Sự phức tạp của mô hình mới, việc hợp diễn biến nến KT xấu đi, ổn Turkish banking sector) sử dụng các ước tính dẫn đến mức định tính chu kỳ của nền KT (Sultanoğlu, 2018) độ phán đoán cao hơn sẽ yêu cầu tăng cường tính minh bạch, công khai của BTCT cũng như các thông tin tài chính - tăng áp lực về tăng khoản dự - Yêu cầu ghi nhận tổn thất tín phòng cho tổn thất tín dụng dự kiến, dụng sớm hơn, khuyến khích giảm khả năng sinh lời, dẫn đến có các ngân hàng dự trữ thêm bộ IFRS 9 – chuẩn mực kế thể huỷ bỏ hoặc giảm cung tín dụng đệm vốn với mục đích chuẩn bị toán mới về ghi nhận rủi -chi phí vận hành cho mô hình ECL khoản dự phòng trong trường ro tín dụng cao hơn do cần đầu tư nhiều về hợp nền kinh tế vĩ mô xấu đi (IFRS 9 – the new CNTT và thu thập dữ liệu - Khuyến khích ngân hàng áp 4 accounting standard for dụng chiến lược cho vay thận credit loss recognition) trọng, ít chu kỳ và tăng cường giám sát rủi ro (Frykström & Jieying, - Tăng tính minh bạch về chất 2018) lượng tài sản, tăng niềm tin của nhà đầu tư vào các BCTC ngân hàng Hé lộ mô hình tồn thất - Ước tính tổn thất tín dụng kịp tín dụng dự kiến trong thời và đầy đủ hơn IFRS9 - Tăng tính chủ động cho kế toán dự phòng RRTD 5 (Unveiling the expected - Cải thiện hệ thống kiểm soát loss model in IFRS 9) chất lượng tín dụng (Sanchidrián & García, 2018) Mô hình hoá dự phòng - Nhận ra khoản tổn thất về rủi theo IFRS 9 ro tín dụng sớm hơn, mức ghi nhận dự phòng tổn thất cao hơn (Modelling of provision so với khi áp dụng IAS 39 6 under new International Financial and Reporting Standard (IFRS 9)) (Csaba, 2017) (Nguồn: Tác giả tổng hợp) 67
  5. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Có thể thấy các tác giả đều nhất trí rằng IFRS 9 mang lại hiệu quả lớn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đó là: - Ghi nhận tổn thất rủi ro tín dụng sớm hơn với mức ghi nhận dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn - Ước tính tổn thất tín dụng kịp thời và đầy đủ, ổn định tính chu kỳ - Tăng tính nhất quán, minh bạch của chất lượng thông tin tài chính - Tăng niềm tin của các nhà đầu tư đối với BCTC Bên cạnh những hiệu quả mà IFRS 9 mang lại, các bài nghiên cứu cũng chỉ ra một loạt các khăn khi các quốc gia áp dụng IFRS 9 về kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu. Đó là: - Tăng áp lực về khoản DPRRTD, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của NHTM và lợi ích của các cổ đông. - Chi phí để vận hành mô hình ECL của IFRS 9 cao hơn do cần đầu tư vào phát triển chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và quá trình thu thập dữ liệu. - Mô hình mới tương đối phức tạp do đòi hỏi nhiều phán xét mang tính chủ quan và ước tinh cho tương lai Các kết quả nghiên cứu trên được đưa ra dựa trên các nghiên cứu, khảo sát của các tác giả tại nhiều quốc gia đã triển khai áp dụng IFRS 9. Các nghiên cứu liệt kê trong bảng trên và một số nghiên cứu khác ví dụ (Gaston & Song, 2014) đều cho rằng việc triển khai IFRS 9 trên phạm vi toàn cầu là một hướng đi đúng, một mô hình kế toán dựa trên tổn thất tín dụng dự kiến của IFRS 9 là một sự cải thiện đáng kể từ IAS 39. Tuy nhiên các nghiên cứu được xem xét phía trên chỉ đề cập đến quá trình áp dụng IFRS 9 và tác động của nó đến ngành ngân hàng tại các nước có nền kinh tế phát triển ở châu Âu, chưa có nghiên cứu nào xem xét quá trình áp dụng chuẩn mực kế toán này tại Việt Nam hoặc các nền kinh tế có đặc điểm tương đồng Việt Nam. Bên cạnh những kết quả nghiên cứu được nhiều tác giả đồng thuận về lợi ích mà IFRS 9 mang lại, thì những khó khăn trong quá trình áp dụng IFRS 9 gặp phải đó là chi phí vận hành lớn, hạn chế về trình độ nguồn nhân lực hoặc hạn chế về hệ thống công nghệ thông tin chỉ được một vài tác giả đưa ra bình luận. Đây có thể coi là khoảng trống nghiên cứu để tác giả đi vào tìm hiểu thêm khi khảo sát khả năng áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam. 2. Phương pháp nghiên cứu Kế thừa từ các nghiên cứu trước về khả năng áp dụng của một hoặc một số chuẩn mực kế toán quốc tế (ví dụ(Klefvenberg & Nordlander, 2015), (Phan, Mascitelli, & Barut, 2014) hay (Nguyen, 2014)), nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra bằng bảng hỏi để tìm hiểu quan điểm của các chuyên gia kế toán - kiểm toán, những người làm việc trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng về triển vọng áp dụng IFRS 9 trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam, cũng như đánh giá những thách thức mà các cơ quan nhà nước và hệ thống NHTM Việt nam phải đối mặt. Bảng hỏi gồm các câu hỏi được chia thành 3 nhóm chính bao gồm: Phần 1: bao gồm 04 câu hỏi nhằm đánh giá quy định về việc trích lập DPRR và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại TT 02/2013/TT-NHNN Phần 2: bao gồm 05 câu hỏi về sự cần thiết và khả năng áp dụng IFRS 9 vào kế toán sự phòng rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam. Phần 3: bao gồm 05 câu hỏi đánh giá mức độ phù hợp của các giải pháp đưa ra để Việt Nam có thể áp dụng IFRS 9 trong kế toán dự phòng rủi ro tín dụng. Bảng hỏi dưới dạng gửi phiếu điều tra trực tiếp trên docs.google.com và phiếu điều tra trực tiếp qua email tới 05 nhóm với kết quả cụ thể như trong bảng sau: 68
  6. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Bảng 3: Kích thước mẫu và tỷ lệ trả lời Số lượng Tỷ lệ Nhóm Phản hồi Phản hồi Phản hồi Gửi diều Phản hồi có thể sử không thể sử Phản hồi có thể sử tra dụng dụng dụng Quản lý chính sách 40 6 5 1 15% 13% Nghiên cứu - Giảng dạy 40 9 9 0 23% 23% Tài chính - Ngân hàng 40 33 25 8 83% 63% Kế toán - Kiểm toán 40 14 11 3 35% 28% Sinh viên 40 4 2 2 10% 5% Tổng cộng 200 66 52 14 33% 26% (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Theo kết quả khảo sát thông tin cá nhân, số năm kinh nghiệm của những người tham gia khảo sát chủ yếu rơi là từ 1 năm đến dưới 3 năm (17,9%), từ 3 năm đến dưới 5 năm (31,3%), từ 5 năm đến dưới 10 năm (17,9%). Vì vậy, kết quả của cuộc khảo sát này chủ yếu là của những người trẻ, có cơ hội được học hỏi và tiếp cận với CM KTQT sớm. Tổng hợp phiếu trả lời phỏng vấn từ những người tham gia khảo sát, điểm số “Người trả lời đồng ý” đã được tính toán trên cơ sở hạng 4 (Đồng ý) và hạng 5 (Rất đồng ý) theo thang đo 5 điểm Likert. Tương tự, điểm số “Người trả lời không đồng ý” được tính từ hạng 1 (Rất không đồng ý) và hạng 2 (Không đồng ý). 3. Kết quả nghiên cứu, thảo luận và hàm ý chính sách 3.1. Kết quả khảo sát về thực trạng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo TT 02/2013/TT-NHNN tại các tổ chức tín dụng Việt Nam Khi được hỏi về việc các NHTM tại Việt Nam có tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của TT 02/2013/TT- NHNN về trích lập DPRR TD hay không, có 65 câu trả lời có thể sử dụng được. Trong đó, có 38 phản hồi đồng ý (chiếm 58,46%) và 02 phản hồi không đồng ý (chiếm 3%). Kết quả này cũng cho thấy nhận định của phần lớn người tham gia trả lời là các NHTM đang thực hiện trích lập DPRR TD theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Với câu hỏi trích lập DPRRTD theo TT 02 đánh giá đúng mức độ rủi ro trong hoạt động của NHTM, có 37 phản hồi đồng ý (chiếm 56.92%) và 5 phản hồi không đồng ý (chiếm 7.7%). Có thể thấy, ở một góc độ nào đó, TT 02/2013/TT-NHNN được nhận định là phù hợp để đánh giá RRTD trong điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. 69
  7. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Bảng 4. Kết quả khảo sát thực trạng trích lập DPRR TD theo TT 02/2013/TT-NHNN tại các TCTD Việt Nam Phản hồi Phản hồi Không đưa ra đồng ý (lựa không đồng ý Lựa chọn % % ý kiến (lựa chọn mức 4 (lựa chọn mức chọn mức 3) và 5) 1 và 2) Các NHTM tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của TT 02 38 58.46% 2 3.08% 25 trong trích lập DPRR tín dụng Trích lập DPRRTD theo TT02 đánh giá đúng mức độ rủi ro 37 56.92% 5 7.69% 23 trong hoạt động tín dụng của các NHTM Trong hoạt động của NHTM, có tồn tại tình trạng che giấu rủi ro 27 41.54% 14 21.54% 24 để thổi phồng lợi nhuận, làm đẹp BCTC TT 02 phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, không cần phải thay 11 16.92% 31 47.69% 23 đổi (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Tuy nhiên, khi được hỏi đến tình trạng che giấu rủi ro để thổi phồng lợi nhuận của các NHTM có tồn tại hay không, phản hồi nhận được đó là 27 người đồng ý (chiếm 41.54%) có tồn tại tình trạng che giấu rủi ro trong khi số người không đồng ý với nhận định này chỉ là 14 người (chiếm 21.54%). Với nhận định TT 02 là phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, không cần phải thay đổi, chỉ có 11 người (16,92%) ủng hộ nhận định này, trong khi con số không đồng ý là 31 phản hồi (chiếm 47,69%). Các kết quả khảo sát này là cơ sở để tác giả tiến hành điều tra thêm về khả năng áp dụng của chuẩn mực kế toán quốc tế mới về giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các TCTD tại Việt Nam. 3.2. Kết quả khảo sát về những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9 Mô hình lỗ dự kiến hay tổn thất dự kiến của IFRS9 khác biệt so với những quy định của Việt Nam tại TT 02/2013/TT-NHNN cũng như cách tiếp cận truyền thông khi dự phòng chỉ được ghi nhận khi rủi ro được coi là đã phát sinh. Do đó, khi hỏi những người tham gia khảo sát liệu có biết đến những quy định mới tại IFRS 9 về DPRRTD hay không thì chỉ có 34 người (chiếm 52.3%) đồng ý, số còn lại là không bình luận và không biết đến những quy định này. Đây là con số khá khiêm tốn vì IFRS 9 đã có hiệu lực từ 1/1/2018 trên toàn thế giới và được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia. Đối với 34 phản hồi có hiểu biết về những quy định IFRS 9, thì 82% (28 phiếu) đồng ý rằng kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động ngân hàng, số còn lại không đưa ra bình luận. Khi được hỏi nguyên nhân vì sao chuẩn mực kế toán quốc tế về DPRR TD đã được ban hành từ năm 1991, sau này là IAS 39 và hiện nay là IFRS 9 có hiệu lực từ 01/01/2018 và được áp dụng tại nhiều quốc gia 70
  8. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 trên thế giới nhưng Việt Nam đến nay vẫn chưa có chuẩn mực tương ứng, cũng chưa bắt buộc áp dụng IFR 9. Với 52 câu trả lời có thể sử dụng kết quả, đa số những người tham gia khảo sát đồng ý với các nguyên nhân: - Hạn chế về ngoại ngữ (71,2% phản hồi đồng ý) - Nhà nước lo ngại số liệu nợ xấu tăng cao khi áp dụng IFRS 9 sẽ gây hiệu ứng xấu lan truyền trong nền kinh tế (lãi suất tăng, đóng băng tín dụng do các doanh nghiệp bị hạ bậc tín nhiệm…) với 78,8% phản hồi đồng ý - Chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 9 cao với 76,9% phản hồi đồng ý - Thông tin thị trường thiếu minh bạch, không đủ tin cậy để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng (với 76,9% phản hồi đồng ý) - Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa hoàn thiện, hoạt động chưa hiệu quả (với kết quả là 76,9% phản hồi đồng ý) - Lãi suất trên thị trường biến động mạnh, gây khó khăn cho việc ước tính dòng tiền chiết khấu (59,6% phản hồi đồng ý) Kết quả khảo sát về nguyên nhân chưa áp dụng được chuẩn mực KTQT IFRS 9 về DPRRTD tại Việt Nam hiện nay cũng là những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt trong quá trình triển khai áp dụng chuẩn mực này. Sau đây là bảng tổng kết kết quả khảo sát về những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam: Bảng 5. Kết quả khảo sát những cản trở trong quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam Phản hồi Không Phản hồi không đưa ra ý đồng ý đồng ý kiến Lựa chọn (lựa chọn % % (lựa chọn (lựa mức 4 và mức 1 và chọn 5) 2) mức 3) VN đã có những quy định riêng về trích lập 15 28.8% 6 11.5% 31 DPRRTD, phù hợp với điều kiện KTXH Hạn chế về ngoại ngữ 37 71.2% 6 11.5% 9 Trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng được 21 40.4% 4 7.7% 27 yêu cầu Thông tin thị trường thiếu minh bạch, không đủ tin cậy để đánh giá khả năng trả nợ của 40 76.9% 8 15.4% 4 KH Tâm lý thận trọng, ngại rủi ro 20 38.5% 5 9.6% 27 Lãi suất thị trường nhiều biến động, gây khó 31 59.6% 9 17.3% 12 khăn cho việc ước tính dòng tiền chiết khấu Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ chưa 40 76.9% 6 11.5% 6 hoàn thiện, hoạt động chưa hiệu quả Nhà nước lo ngại hiệu ứng xấu lan truyền 41 78.8% 6 11.5% 5 trong nền kinh tế 71
  9. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin chưa đáp 15 28.8% 24 46.2% 13 ứng Chi phí xây dựng chuẩn mực mới theo IFRS 40 76.9% 7 13.5% 5 9 lớn (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Cũng theo kết quả khảo sát trên, chỉ có 28,8% phản hồi đồng ý với việc cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu là trở ngại khiến IFRS 9 chưa thể áp dụng ở Việt Nam và có đến 46,2% không đồng tình với quan điểm này. Kết quả này phản ánh đúng thực tế hiện nay bởi nhiều NHTM đã chủ động trong việc cập nhật và triển khai các phần mềm quản lý tập trung hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như sẵn sàng đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng phục vụ và hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, những lo ngại về trình độ nguồn nhân lực cũng như tâm lý thận trọng, ngại rủi ro của người Việt Nam cũng được nhận định không phải là khó khăn lớn trong việc triển khai áp dụng IFRS 9. Bởi vì chỉ cần có hướng dẫn đầy đủ, thông tin rõ ràng, với bản tính chịu khó học hỏi, chăm chỉ lao động, nguồn nhân lực của Việt Nam hoàn toàn có thể tiếp cận và thực hiện được các quy định theo IFRS 9. 3.3. Kết quả khảo sát về sự cần thiết và hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại nhưng hầu hết phản hồi từ cuộc khảo sát đều nhất trí rằng việc áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRR TD tại các NHTM Việt Nam là cần thiết và đánh giá khả năng áp dụng là hoàn toàn có thể nhưng cần thời gian và lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam. Có đến 42/52 phản hồi (chiếm 80,7%) cho rằng cần thiết áp dụng IFRS 9 trong kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các NHTM Việt Nam vì các hiệu quả mà IFRS 9 mang lại. Đó là: - IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động của các TCTD ở Việt Nam - IFRS 9 tăng tính minh bạch, tin cậy của thông tin tài chính - IFRS 9 tăng khả năng so sánh BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế, tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài Bảng 6. Kết quả khảo sát hiệu quả khi áp dụng IFRS 9 tại các TCTD Việt Nam Lựa chọn Phản hồi đồng ý % IFRS 9 giúp đánh giá đúng mức độ RRTD trong hoạt động NHTM ở Việt Nam 33 63.5% IFRS 9 giúp thông tin tài chính của các NHTM minh bạch, đáng tin cậy hơn 27 51.9% IFRS 9 làm tăng khả năng so sánh của BCTC của NHTM Việt Nam và quốc tế, 21 40.4% tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Với 10/52 phiếu trả lời cho quan điểm không cần thiết phải áp dụng IFRS 9 trong trích lập DPRRTD tại các NHTM Việt Nam, các lý do được đưa ra đó là: 72
  10. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 Bảng 7. Kết quả khảo sát lý do không cần thiết áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam Lựa chọn Phản hồi đồng ý % Việt Nam có quy định riêng về DPRR TD phù hợp với điều kiện KTXH 7 13.5% Phương pháp xác định giảm giá trị khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 7 13.5% quá phức tạp Chi phí để áp dung IFRS 9 tại Việt Nam lớn hơn lợi ích mà nó mang lại 6 11.5% Tính xét đoán trong IFRS 9 mang tính chủ quan dẫn đến thông tin đánh giá 8 15.4% không đồng nhất giữa các NHTM (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Trong nội dung câu hỏi về việc cần thiết áp dụng IFRS 9, tác giả có đưa ra một số phương án áp dụng IFRS 9 và nhận được nhiều quan điểm từ những người tham gia khảo sát. Hầu hết các ý kiến đều cho rằng không nên áp dụng trực tiếp toàn bộ IFRS 9 mà phải xây dựng chuẩn mực riêng về công cụ tài chính (bao gồm nội dung DPRR TD) phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Bảng 8. Kết quả khảo sát phương án áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam Lựa chọn Phản hồi đồng ý % Áp dụng trực tiếp IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu 4 8% Xây dựng những quy định riêng về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải 37 71% thu trên cơ sở IFRS 9, phù hợp với điều kiện KTXH tại Việt Nam (Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả) Các biện pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS 9 tại Việt Nam tập trung vào việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống czung cấp thông tin, thu thập dữ liệu về khách hàng và xây dựng khuôn khổ kế toán cho DPRR TD. Như vậy, quá trình khảo sát ý kiến về thực trạng trích lập DPRR TD tại các TCTD tại Việt Nam và khả năng áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS 9 về kế toán giảm giá trị khoản cho vay và phải thu tại các TCTD tại Việt Nam đã đưa ra một số kết luận sau: - Thứ nhất, hiện nay các TCTD đều đang tuân thủ quy định của NHNN Việt Nam về trích lập DPRRTD theo TT 02/1013/TT-NHNN. Tuy nhiên con số trích lập DPRRTD trên BCTC được đánh giá chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro tín dụng đối với các NHTM, vẫn tồn tại tình trạng che giấu rủi ro, làm đẹp BCTC của các NHTM Việt Nam. - Thứ hai, áp dụng kế toán giảm giá trị các khoản cho vay và phải thu theo IFRS 9 được cho là cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế của các NHTM Việt Nam. Bời IFRS 9 giúp phản ánh chính xác chất lượng tín dụng, có xét đến thông tin quá khứ, tình hình hiện tại và dự báo tương lai của từng đối tượng khách hàng. Tuy nhiên chúng ta cần có sự chọn lọc và lộ trình áp dụng để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. - Thứ ba, quá trình áp dụng IFRS 9 tại các TCTD ở Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực và thông tin thị trường. Các giải pháp được đưa ra để thúc đẩy quá trình áp dụng IFRS 9 cần được tiến hành đồng bộ và có sự tham gia của nhiều bên liên quan như chính phủ, ngân hàng nhà nước, các TCTD. 73
  11. Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Beatty, A., & Liao, S. (2011). Do delays in expected loss recognition affect banks' willingness to lend? Journal of Accounting and Economics, 52(1), 1-20. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.jacceco.2011.02.002 [2] Bushman, R. M., & Williams, C. D. (2012). Accounting discretion, loan loss provisioning, and discipline of banks’ risk-taking. Journal of Accounting and Economics, 54(1), 1-18. [3] Cohen, B. H., & Edwards, G. (2017). The new era of expected credit loss provisioning. BIS Quarterly Review, March. [4] Csaba, K. (2017). Modelling of provision under new International Financial and Reporting Standard (IFRS 9). Paper presented at the ZZ. Paprika et al., 31st European Conference on Modelling and Simulation, ECMS, Hungary. [5] Ernst & Young (2018), Applying IFRS: Impairment of financial instruments under IFRS 9, available @ https://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/ey-Apply-IFRS-9-FI-Impairment-April2018/$FILE/ey- Apply-IFRS-9-FI-Impairment-April2018.pdf [6] Frykström, N., & Jieying, L. (2018). IFRS 9–the new accounting standard for credit loss recognition. Economic Commentaries(3). [7] Gaston, E., & Song, M. I. (2014). Supervisory roles in loan loss provisioning in countries implementing IFRS: International Monetary Fund. [8] Gornjak, M. (2017). Comparison of IAS 39 and IFRS 9: The Analysis of Replacement. International Journal of Management, Knowledge and Learning(1), 115-130. [9] IASB. (2014). Project Summary - IFRS 9 Financial Instruments (pp. 32): IASB Foundation. [10] IASB, IAS 39 – Financial instruments – Recognition and measurement, [11] IASB, IFRS 9 – Financial Instruments [12] Klefvenberg, L., & Nordlander, V. (2015). IFRS 9 replacing IAS 39: A study about how the implementation of the Expected Credit Loss Model in IFRS 9 i beleived to impact comparability in accounting. [13] Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). Loan loss provisioning and economic slowdowns: too much, too late? Journal of Financial Intermediation, 12(2), 178-197. doi: http://dx.doi.org/10.1016/S1042- 9573(03)00016-0 [14] Nguyen, N. T. T. (2014). Perceptions of accounting professionals towards the prospect of implementing fair value under IASB in Vietnamese accounting system: A quantitative study of accounting professionals in Vietnam. [15] Novotny-Farkas, Z. (2015). The significance of IFRS 9 for financial stability and supervisory rules. European Parliament, Directorate General for Internal Policies Policy Department A: Economic and Scientific Policy, Brussels, European Union. [16] Phan, D., Mascitelli, B., & Barut, M. (2014). Perceptions towards international financial reporting standards (IFRS): The case of Vietnam. Global Review of Accounting and Finance Journal, 5(1), 132- 152. [17] PwC (2017), IFRS 9-Financial Instruments: Understanding the basics, available at https://www.pwc.com/gx/en/audit-services/ifrs/publications/ifrs-9/ifrs-9-understanding-the-basics.pdf [18] Sanchidrián, J. P., & García, C. J. R. (2018). Unveiling the expected loss model in IFRS 9 and Circular 4/2017. FINANCIAL STABILITY REVIEW(36), 143-160. [19] Sultanoğlu, B. (2018). Expected credit loss model by IFRS 9 and its possible early impacts on European and Turkish banking sector. Muhasebe Bilim Dünyası Dergisi, 20(3), 476-506. 74
nguon tai.lieu . vn