- Trang Chủ
- Kế toán - Kiểm toán
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Xem mẫu
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ
thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nguyễn Hồng Yến - Phạm Hồng Linh
Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 05/09/2022 Ngày nhận bản sửa: 15/09/2022 Ngày duyệt đăng: 19/09/2022
Tóm tắt: Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, việc cải tiến hệ thống quản
lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam ngày càng được chú trọng nhiều hơn. Việc thực hiện kiểm
toán nội bộ dựa trên rủi ro đã được nhiều hiệp hội và tổ chức nghề nghiệp
kiểm toán quốc tế đưa ra, nhưng cho đến nay việc triển khai tại Việt Nam nói
chung các ngân hàng thương mại nói riêng còn rất chậm chạp. Mong muốn
Research on factors affecting the level of applying risk-based internal auditing in Vietnamese
commercial banks
Abtract: In the past twenty years, the improvement of risk management, internal control and internal audit
in Vietnamese commercial banks has been increasingly focused. The risk-based internal audit has been
launched by a range of international professional associations and organizations of auditors, but so far, the
implementation in the Vietnamese market, in general, and in commercial banks, in particular, is still limited.
The desire to find out the factors affecting the level of applying risk-based internal audit in Vietnamese
commercial banks motivated the authors to conduct this study. The paper has combined both secondary
data from the banks’ annual reports and primary data from the survey into one research model. Regression
analysis with Tobit shows that aspects of Risk Management, Size and complexity in structure, Corporate
Governance and Competence of Internal Auditors impact on the level of implementing risk-based internal
audit in Vietnamese commercial banks. Specifically, the risk management capacity, the complexity in
structure, the proportion of non-executive board members, the bank with a foreign bank as strategic
shareholder, and the competence of the internal auditors positively impact on whereas the level of risk, the
size of the bank, banks with a dominant share by the state and the board size negatively influence on the level
of implementing risk-based internal auditing.
Keywords: Risk-based internal audit, commercial banks.
Nguyen, Hong Yen
Email: yennh@hvnh.edu.vn
Pham, Hong Linh
Email: linhph@hvnh.edu.vn
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
© Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 1 Số 244- Tháng 9. 2022
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
tìm ra những yếu tố có khả năng tác động đến mức độ áp dụng Kiểm toán nội
bộ dựa trên rủi ro (Risk-based Internal Audit- RBIA) tại các NHTM là động lực
thúc đẩy nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu này. Bài viết đã kết hợp cả số liệu
thứ cấp từ báo cáo thường niên và số liệu sơ cấp từ khảo sát vào một mô hình
nghiên cứu. Phân tích mô hình hồi quy Tobit cho thấy các khía cạnh về Quản
lý rủi ro, Quy mô và mức độ phức tạp trong cấu trúc, Quản trị công ty và Năng
lực của Kiểm toán viên nội bộ đều có tác động đến mức độ sử dụng RBIA tại
các NHTM Việt Nam. Cụ thể, năng lực quản lý rủi ro, mức độ phức tạp trong
cấu trúc, tỷ lệ ủy viên hội đồng quản trị không tham gia điều hành, ngân hàng
có cổ đông chiến lược là ngân hàng nước ngoài và năng lực của kiểm toán
viên nội bộ có tác động cùng chiều, trong khi mức độ rủi ro, quy mô của ngân
hàng, các ngân hàng có nhà nước chiếm cổ phần chi phối và quy mô hội đồng
quản trị lại có ảnh hưởng ngược chiều đến mức độ áp dụng Kiểm toán nội bộ
dựa trên rủi ro
Từ khóa: Kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro, ngân hàng thương mại
1. Giới thiệu trách nhiệm quản lý rủi ro, và do đó góp
phần vào văn hóa quản lý rủi ro mạnh mẽ
Ý tưởng và khái niệm kiểm toán nội bộ hơn trong tổ chức chứ không phải KTNB
(KTNB) định hướng theo rủi ro trước tiên thực hiện quản lý rủi ro.
được đưa ra bởi Viện Kiểm toán nội bộ Chính vì những lợi ích mà RBIA đem lại
Hoa Kỳ (IIA) vào năm 1999. Theo đó, IIA với tổ chức mà có rất nhiều nghiên cứu đã
định nghĩa: Kiểm toán nội bộ dựa trên rủi được thực hiện nhằm đánh giá những nhân
ro (Risk-based Internal Audit- RBIA) là tố tác động đến việc sử dụng RBIA tại các
một phương pháp liên kết KTNB với khuôn tổ chức kinh tế nói chung, các ngân hàng
khổ quản lý rủi ro tổng thể của tổ chức; nói riêng nhằm tìm ra những giải pháp
cho phép KTNB cung cấp sự đảm bảo cho thích hợp cho việc ứng dụng RBIA vào
hội đồng quản trị rằng các quy trình quản hoạt động KTNB tại đơn vị. Các nghiên
lý rủi ro đang quản lý rủi ro một cách hiệu cứu có thể kể đến bao gồm: Nghiên cứu
quả, trong phạm vi khẩu vị rủi ro của tổ của Nuno (2010) đã phân tích các yếu tố cụ
chức. Từ khái niệm nền tảng của IIA, một thể của công ty liên quan đến việc áp dụng
số nghiên cứu cũng đã đề cập đến khái RBIA. Kết quả được rút ra từ một cuộc
niệm RBIA trong các nghiên cứu của mình khảo sát bằng bảng hỏi vào năm 2006 với
với các cách phát biểu khác nhau nhưng 96 trưởng KTNB là thành viên của Viện
tựu chung lại đều thống nhất: RBIA là một KTNB Bồ Đào Nha. Nghiên cứu đã chỉ ra
phương pháp mà KTNB sử dụng để đảm có một mối liên hệ chặt chẽ (nhưng ý nghĩa
bảo rằng các rủi ro đang được quản lý theo thống kê không đáng kể) giữa lập kế hoạch
khẩu vị rủi ro của tổ chức, nói cách khác, kiểm toán hàng năm dựa trên rủi ro và các
các quy trình quản lý các rủi ro ở mức độ đơn vị tư nhân, trong lĩnh vực tài chính và
được Hội đồng quản trị coi là chấp nhận quy mô lớn. Khi lập kế hoạch kiểm toán,
được. Thực hiện RBIA có nghĩa là chức việc áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên
năng KTNB hoạt động theo cách củng cố rủi ro có tương quan thuận với quy mô đơn
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
vị và KTNB chủ động hơn trong việc thực ro có tác động tích cực và đáng kể đến việc
hiện quản lý rủi ro doanh nghiệp trong các thực hiện RBIA. Quan trọng nhất, kết quả
tổ chức nhỏ hơn và quan trọng hơn trong cho thấy tầm quan trọng của dữ liệu đầu
ngành tài chính và khu vực tư nhân. Philip vào của Ủy ban kiểm toán và mối quan tâm
(2014) đã nghiên cứu việc áp dụng RBIA trong việc xem xét các hoạt động KTNB.
ở Ghana, các yếu tố ảnh hưởng đến việc Về mặt thực nghiệm, các phát hiện cũng
áp dụng hoặc không áp dụng RBIA giữa cho thấy một môi trường quản trị rủi ro
các công ty ở Ghana. Sự tham gia của kiểm chính thống sẽ thúc đẩy sự tồn tại của văn
toán viên (KTV) nội bộ trong việc đánh giá hóa nhận thức rủi ro mạnh mẽ và từ đó tạo
rủi ro cũng được đánh giá trong bối cảnh nền tảng vững chắc cho KTNB để thực
quản lý rủi ro doanh nghiệp. Theo quan sát, hiện kiểm toán dựa trên rủi ro. Tuy nhiên,
phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro đối với kinh nghiệm KTNB, quy mô của KTNB,
KTNB được sử dụng rộng rãi trong các công trình độ của Ủy ban kiểm toán và hệ thống
ty thuộc Câu lạc bộ 100 của Ghana, đặc biệt kiểm soát nội bộ không được coi là yếu tố
là các công ty tài chính, viễn thông và sản dự báo đáng kể về sự hiện diện của RBIA.
xuất. Nghiên cứu một lần nữa phát hiện ra Erlina & Iskandar (2018) sử dụng phương
rằng, có sự tham gia của KTNB trong quản lý pháp nghiên cứu định lượng dựa trên bảng
rủi ro, chuyển sang việc sử dụng các phương khảo sát các nhân tố tác động đến việc áp
pháp tiếp cận dựa trên rủi ro trong việc lập dụng RBIA đã cho thấy việc thực hiện
kế hoạch kiểm toán hàng năm. Ngoài ra, thành công RBIA được xác định bởi một số
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các quy định yếu tố như vai trò của KTV nội bộ, cam kết
không phải là động lực thúc đẩy việc áp của nhà quản lý cấp cao và trình độ năng
dụng RBIA ở Ghana. Yếu tố chính thúc đẩy lực chuyên môn.
việc áp dụng RBIA là nó đã giúp các tổ chức Điển hình nhất có thể kể đến là nghiên
này tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên rủi ro cứu của Yung-Ming Shiu and Mei-Lan Yeh
cao. Philiph & Solomon (2017) cũng nghiên (2008) tìm hiểu các yếu tố tác động tới
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng mong muốn áp dụng KTNB định hướng
RBIA tại Tổ chức nghiên cứu chăn nuôi và theo rủi ro của các Ngân hàng Đài Loan. Sử
nông nghiệp Kenya (Kalro) ở Nairobi và đã dụng dữ liệu từ một cuộc khảo sát của các
xác định cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngân hàng trong nước cùng với thông tin từ
(CNTT) có mối quan hệ tích cực với việc áp các báo cáo thường niên của các ngân hàng
dụng RBIA. Nghiên cứu khuyến nghị rằng này, nghiên cứu này đã nhận thấy mức độ
hội đồng quản trị (HĐQT) nên đưa ra các ứng dụng RBIA của các ngân hàng có liên
chính sách nhằm mục đích tăng cường áp quan đến việc minh bạch hoá thông tin về
dụng RBIA trong đó chú trọng vào việc tăng tài chính, tuân thủ và an toàn, sự phát triển
cường cơ sở hạ tầng CNTT trong tổ chức. của công nghệ, quy trình nội bộ về quản trị
Hafizah (2017) lại nghiên cứu các yếu tố sự thay đổi và quản lý rủi ro; sự tồn tại của
ảnh hưởng đến việc thực hiện RBIA tại một ủy ban quản lý rủi ro; tỉ lệ của nợ quá
các công ty công niêm yết của Malaysia. hạn; quy mô và mức độ phức tạp của hoạt
Với phương pháp nghiên cứu định lượng động ngân hàng; mức độ độc lập của thành
trên cơ sở khảo sát, dữ liệu thu được từ 117 viên HĐQT; mức độ cổ phần được tổ chức
trưởng KTNB đã được thu thập và phân bởi tổ chức cổ đông và năng lực của KTV
tích. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng nội bộ.
ủy ban kiểm toán và hệ thống quản lý rủi Tại Việt Nam, phương pháp KTNB định
Số 244- Tháng 9. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 3
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
hướng theo rủi ro đã được yêu cầu thực 2.2.1. Quản lý rủi ro
hiện trong Thông tư 13/2018/TT-NHNN Sự tách biệt giữa quyền sở hữu với chức
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năng quản lý cùng với tình trạng bất cân
(NHNN). Tuy nhiên, thực tế thực hiện thì xứng thông tin dẫn đến khả năng xảy ra
vẫn còn sự khác biệt giữa các ngân hàng, xung đột giữa người ủy nhiệm- người thừa
mức độ và khả năng áp dụng phương pháp hành (Haniffa và Hudaib, 2006), đồng thời
này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác cũng gây ra rủi ro cho các bên liên quan
nhau. Trong khi đó, cho tới nay, chưa có trong tổ chức (quản lý, cổ đông, chủ nợ...)
nghiên cứu định lượng nào về vấn đề này (Spira và Page, 2003). Những xung đột
được công bố. Do vậy, nhằm đo lường về vấn đề ủy quyền, chi phí ủy quyền và
nhân tố tác động đến mức độ ứng dụng rủi ro hiện được quản lý và là một phần
RBIA tại các NHTM Việt Nam, nhóm tác trong khung quản trị công ty thông qua
giả đã thực hiện nghiên cứu này trên cơ sở các cơ chế về trách nhiệm giải trình, chẳng
phát triển và điều chỉnh lại mô hình nghiên hạn như kiểm soát và KTNB (Haniffa và
cứu của Yung-Ming Shiu and Mei-Lan Yeh Hudaib, 2006; Spira và Page, 2003). Các
(2008) cho phù hợp với trường hợp của bên liên quan thường cạnh tranh để tham
Việt Nam. gia vào quản trị công ty nhằm tìm kiếm
quyền lực trong tổ chức bằng cách khẳng
2. Mô hình nghiên cứu định quan niệm của riêng họ về rủi ro và
cách thức quản lý rủi ro, từ đó, tập trung
Mô hình nghiên cứu đã được phát triển với vào quản lý rủi ro đã trở thành trọng tâm
các biến phụ thuộc và độc lập như sau: của cuộc cạnh tranh này vì nó xác định
rõ trách nhiệm của ban lãnh đạo tổ chức
2.1. Biến phụ thuộc (Spira và Page, 2003). Điều này phù hợp
với lập luận của Hay và Knechels (2004)
Do một số ngân hàng còn đang hiểu chưa rằng nhu cầu kiểm toán là một hàm tập hợp
đầy đủ về khái niệm RBIA, từ đó, đánh giá các rủi ro mà các bên liên quan khác nhau
không chính xác mức độ thực hiện, biến trong một tổ chức phải đối mặt và tập hợp
phụ thuộc của mô hình được đánh giá dựa các cơ chế kiểm soát sẵn có để giảm thiểu
trên bảng câu hỏi khảo sát các ngân hàng. những rủi ro đó. Do đó, định hướng quản lý
Bảng khảo sát gồm các câu hỏi liên quan rủi ro của KTNB đã giúp chức năng kiểm
đến việc thực hiện RBIA trên các mặt: hệ toán tăng uy tín trong toàn doanh nghiệp
thống quản lý rủi ro, quy định về hoạt động và được ban lãnh đạo chấp nhận nhiều hơn
KTNB và việc thực hiện KTNB. Cụ thể, (Beumer, 2006). Từ các lập luận trên, giả
tác giả đã xây dựng bảng câu hỏi để khảo thuyết sau được đề xuất:
sát tại các ngân hàng, các câu hỏi chủ yếu H1: Việc sử dụng RBIA có quan hệ cùng
ở dạng được chọn nhiều đáp án, sau đó sẽ chiều với mức độ rủi ro mà các bên liên
được quy đổi đều để điểm dao động trong quan đối mặt.
khoảng 0-5 cho mỗi tiêu chí. Điểm của mỗi Để đánh giá khía cạnh quản lý rủi ro, do
tiêu chí sẽ được cộng lại và tiếp tục được mức độ công bố thông tin về rủi ro cũng
quy đổi đều trên thang điểm tối đa 100. như thực hành quản lý rủi ro của các
NHTM Việt Nam nhìn chung còn ít và
2.2. Biến độc lập không có sự khác biệt đáng kể, nghiên cứu
đánh giá thông qua thống kê về tiến độ
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
thực hiện Basel 2 mà các ngân hàng công Trong đó, quy mô của ngân hàng được tính
bố chính thức trên các Báo cáo thường niên bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản. Mức
hoặc trên website chính thức. Điểm mức độ độ phức tạp về cấu trúc hoạt động được
thực hiện Basel 2 được tính toán với giả đánh giá thông qua hai biến: tổng số lượng
định các ngân hàng càng hoàn thiện Basel chi nhánh/phòng giao dịch và biến nhị phân
thì năng lực quản lý rủi ro cũng như mức nhận giá trị 1 tương ứng với ngân hàng có
độ sẵn sàng công bố thông tin càng cao. hoạt động kinh doanh ở nước ngoài và 0
Cụ thể, mức điểm cho quản lý rủi ro của cho tình huống ngược lại.
các ngân hàng được chấm điểm ban đầu từ
0-6 tương ứng với các mức độ: chưa triển 2.2.3. Quản trị công ty
khai, triển khai trụ cột 1, hoàn thiện trụ cột IIA (2005), khi trình báo cáo gửi đến
1, triển khai trụ cột 2, hoàn thiện trụ cột Nhóm rà soát Turnbull, đã yêu cầu rằng
2, triển khai trụ cột 3, hoàn thiện trụ cột 3 các HĐQT phải chịu trách nhiệm xác định
sau đó quy đổi lại theo thang điểm tối đa những rủi ro có thể chấp nhận được và quản
là 5. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu cũng sẽ được lý chúng. Các thành viên HĐQT phải chịu
xem xét để đánh giá mức độ rủi ro của ngân trách nhiệm cuối cùng về quản lý rủi ro và
hàng. KTNB và họ cần sự đảm bảo rằng các rủi ro
trong toàn tổ chức đã được xác định, đánh
2.2.2. Quy mô và sự phức tạp trong cấu giá và quản lý (Fraser và Henry, 2007). Do
trúc hoạt động của ngân hàng đó, định hướng dựa trên rủi ro sẽ là một
Khi các tổ chức ngày càng phát triển về quy thành phần quan trọng để KTNB đảm
mô và mức độ phức tạp trong cấu trúc, việc bảo được yêu cầu của HĐQT. Haniffa và
quản lý rủi ro hiệu quả ngày càng trở nên Hudaib (2006) chỉ ra rằng quy mô HĐQT
khó khăn (Fraser và Henry, 2007). Nhiều ảnh hưởng đến mức độ giám sát và kiểm
nghiên cứu trước đây chỉ ra nhu cầu soát. Nhằm hỗ trợ HĐQT quy mô nhỏ có thể
KTNB liên quan đến chi phí so với lợi ích hoạt động hiệu quả hơn trong việc giám sát
từ việc thực hiện giám sát (Carcello và hoạt động của tổ chức, RBIA được kỳ vọng
cộng sự, 2005; Goodwin-Stewart và Kent, được sử dụng nhiều hơn. Tuy nhiên, vì các
2006). Carcello và cộng sự (2005) khẳng HĐQT lớn hơn dường như mang tính hình
định rằng sự phức tạp của tổ chức tăng lên thức hơn là một phần của quá trình quản
sẽ dẫn đến rủi ro lớn hơn và các công ty đối lý (Hermalin và Weisbach, 1998; Haniffa
mặt với rủi ro cao hơn sẽ tăng cường giám và Hudaib, 2006; Chen, 2003), các HĐQT
sát tổ chức của mình. Ngoài ra, từ góc độ lớn vẫn có thể yêu cầu hoạt động KTNB
chi phí giao dịch, các doanh nghiệp lớn hơn bộ định hướng rủi ro nhiều hơn, như một
có cơ hội đạt được lợi thế theo quy mô từ cơ chế thay thế. Từ lý luận này, nghiên cứu
việc đầu tư vào chi phí cố định về KTNB thực hiện kiểm tra xem việc sử dụng RBIA
(Carey và cộng sự, 2000; Carey và cộng có liên quan đến quy mô HĐQT hay không,
sự, 2006). Từ luận điểm này, các giả thuyết nhưng không dự đoán trước chiều hướng.
sau được đề xuất: Giả thuyết nghiên cứu trở thành:
H2a: Việc sử dụng RBIA có quan hệ cùng H3a: Việc sử dụng RBIA có liên quan đáng
chiều với quy mô của ngân hàng. kể đến quy mô HĐQT. Trong đó, quy mô
H2b: Việc sử dụng RBIA gắn liền với sự HĐQT được đo bằng số lượng thành viên
phức tạp trong cấu trúc hoạt động của HĐQT.
ngân hàng. Trong ngành ngân hàng, vấn đề bất cân
Số 244- Tháng 9. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 5
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
xứng thông tin tương đối cao hơn đối với H3c: Việc sử dụng RBIA có quan hệ cùng
các bên liên quan ở ngoài ngân hàng, bao chiều với tỷ lệ thành viên không tham gia
gồm cả các nhà đầu tư tổ chức vì họ có điều hành trong HĐQT.
rất ít quyền kiểm soát đối với các nhà quản
lý ngân hàng (Zeckhauser và Pound, 1990; 2.2.4. Năng lực của kiểm toán viên nội bộ
Ross, 1989). Trong khi đó, Pound (1988) Chuẩn mực 1210 của IIA về trình độ KTV
và Cebenoyan và cộng sự (1999) gợi ý rằng nội bộ yêu cầu KTV nội bộ phải có kiến
do các điều khoản hợp đồng quy định các thức, kỹ năng và năng lực khác cần thiết
loại hình đầu tư mà các nhà đầu tư tổ chức để thực hiện trách nhiệm của họ (IIA,
phải nắm giữ, họ có ít khả năng đa dạng 2017; Mihret và Yismaw, 2007). KTV
hóa rủi ro hơn và có nhiều động lực hơn nội bộ là người cung cấp các đánh giá độc
để giám sát các khoản đầu tư riêng lẻ. Tại lập quan trọng về hệ thống quản lý rủi ro
Việt Nam, nhiều ngân hàng có xu hướng và kiểm soát nội bộ (chức năng đảm bảo)
tìm các đối tác chiến lược là các ngân hàng của tổ chức, cũng như kết hợp để hỗ trợ
nước ngoài để có thể được chia sẻ các kinh bộ phận quản lý theo định hướng thực
nghiệm quản lý hiện đại. Từ các lập luận hành hơn (chức năng tư vấn) (Sarens và
này, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết: De Beelde, 2006). Sau Turnbull (1999) và
H3b: Mức độ sử dụng RBIA có liên quan Tuyên bố Vị trí (Position Statement) của
đến việc ngân hàng có cổ đông chiến lược IIA (2004), KTV nội bộ được kỳ vọng sẽ
là ngân hàng nước ngoài. ngày càng trở nên nổi bật trong hệ thống
KTNB đóng một vai trò quan trọng trong quản lý rủi ro doanh nghiệp (Enterprise
quản trị tổ chức bằng cách giám sát rủi ro Risk Managemetn-ERM) nhưng mối quan
tổ chức và đánh giá các kiểm soát (IIARF, tâm đã được diễn tả theo hướng chuyên gia
2003). Nghiên cứu trước đây cho rằng (Fraser và Henry, 2007). Vai trò mới này
KTNB là một cơ chế thay thế cho việc giám đã hướng các KTV nội bộ trở thành các
sát của các ủy viên HĐQT (Anderson và chuyên gia nội bộ hiểu biết sâu sắc về rủi
cộng sự, 1993). Tuy nhiên, Goodwin- ro với các năng lực khác nhau, bao gồm các
Stewart và Kent (2006) cho rằng do vấn đề kỹ năng chuyên môn cần thiết (ví dụ như
bất cân xứng thông tin tồn tại giữa các ủy quản lý rủi ro và thiết kế hệ thống), chuyên
viên HĐQT tham gia điều hành và các ủy môn hóa theo ngành vì các yếu tố đặc thù
viên không điều hành, KTNB có nhiều khả của ngành ảnh hưởng đến khẩu vị rủi ro
năng là cơ chế bổ sung cho các cơ chế quản của doanh nghiệp và chuyên môn về công
trị công ty khác. Vì các ủy viên HĐQT độc nghệ (Spira và Page, 2003; Spekle và cộng
lập không tham gia hoạt động kinh doanh sự, 2007; Carey và cộng sự, 2006; Fraser
hàng ngày, họ có thể không có đủ thông và Henry, 2007). Tuy nhiên, một số KTV
tin, hơn nữa, họ cũng có thể lo ngại về trách nội bộ có thể thiếu các năng lực này và có
nhiệm cá nhân của họ nếu ban quản lý có khả năng dẫn đến những hậu quả nghiêm
hành vi gian lận hoặc xảy ra một số vụ bê trọng tiềm tàng. Lý do là chức năng KTNB
bối khác có liên quan đến tổ chức (tức là đã được giao vai trò nổi bật trong việc đánh
rủi ro danh tiếng) (Knechel và Willekens, giá tính phù hợp của quản lý rủi ro nhưng
2006). Từ đó, định hướng dựa trên rủi ro thiếu chuyên môn cần thiết sẽ biến nó thành
của KTNB sẽ là một thành phần quan trọng một mắt xích yếu trong “chuỗi” quản lý rủi
để hạn chế các vấn đề đó. Thảo luận này ro (Fraser và Henry, 2007).
được phản ánh trong giả thuyết: Trong thập kỷ qua, chi phí tìm kiếm, tuyển
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
dụng và giữ chân nhân viên có trình độ phù quản lý rủi ro, năng lực công nghệ thông
hợp ngày càng trở nên khó khăn và tốn tin… Xét về góc độ chi phí-lợi ích, chủ sở
kém hơn (Martin và cộng sự, 2000). Theo hữu và nhà quản lý sẽ cân nhắc những lợi
quan điểm chi phí- lợi ích, người ủy quyền/ ích và chi phí của việc áp dụng RBIA để
người đại diện kinh tế của tổ chức tìm cách lựa chọn áp dụng sao cho phù hợp với năng
áp dụng cơ cấu quản trị phù hợp với nhu lực của đội ngũ KTV nội bộ. Do đó, khả
cầu kiểm soát của họ theo cách hiệu quả về năng sử dụng RBIA của các ngân hàng sẽ
chi phí, do đó, họ có thể xem xét những lợi cao hơn khi các KTV nội bộ có năng lực
ích và hạn chế của việc áp dụng RBIA khi trong lĩnh vực này. Năng lực của KTV nội
KTV nội bộ thiếu năng lực cần thiết. Do bộ được đánh giá thông qua bình phương
đó, xu hướng sử dụng RBIA của các ngân các tỷ lệ: KTV có chứng chỉ quốc tế về
hàng sẽ cao hơn khi các kiểm toán viên nội kiểm toán, KTV có chứng chỉ quốc tế về
bộ có năng lực trong lĩnh vực này. Dựa trên quản lý rủi ro, KTV có bằng cấp, chứng chỉ
thảo luận này, giả thuyết sau được đưa ra: chuyên sâu về công nghệ thông tin, KTV
H4: Việc sử dụng RBIA gắn liền với năng đã được tham gia ít nhất 1 khoá đào tạo
lực của KTV nội bộ. về Quản trị rủi ro doanh nghiệp và KTV
Năng lực của KTV nội bộ bao gồm kiến đã được tham gia ít nhất 1 khoá đào tạo về
thức, kỹ năng và các năng lực khác cần thiết khung quản lý rủi ro của Basel.
để thực hiện trách nhiệm được giao. Các
khía cạnh có thể được xem xét bao gồm: 2.3. Mô hình hồi quy và phương pháp
hiểu biết về hệ thống quản lý rủi ro, khung nghiên cứu
Bảng 1. Tổng hợp các biến đưa vào mô hình
Dấu kỳ
Tên biến Cách đo lường Nguồn dữ liệu
vọng
Biến phụ thuộc- mức độ áp dụng kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro (RBIA)
RBIA Được chấm điểm dựa trên thông tin khảo sát Khảo sát
Đặc điểm ngân hàng (BANKSPECIFIC)
BASEL Tiến độ thực hiện Basel 2 Thống kê từ BCTN các NH +
NPL (Mức độ rủi ro) Nợ xấu/tổng dư nợ Báo cáo tài chính +
LnTA (Quy mô) Loga tự nhiên của Tổng tài sản Báo cáo tài chính +
Báo cáo thường niên/
BRANCH Tổng số lượng chi nhánh/PGD +
website
Bằng 1 nếu là NH có cơ sở giao dịch ở nước Báo cáo thường niên/
FORBNH +
ngoài và bằng 0 cho trường hợp còn lại. website
S (Sở hữu nhà Bằng 1 nếu là NH có trên 50% vốn Nhà nước và
Tác giả tính +/-
nước) bằng 0 cho trường hợp còn lại
BOD Số lượng Ủy viên HĐQT Báo cáo thường niên +/-
Bằng 1 nếu là NH có cổ đông chiến lược là NH Báo cáo thường niên/
F +
nước ngoài và bằng 0 cho trường hợp còn lại. website
Tỷ lệ Ủy viên không tham gia điều hành/Tổng số
NONEXD Báo cáo thường niên +
Ủy viên HĐQT
Dựa trên các tỷ lệ KTV nội bộ có bằng cấp/ chứng
TC chỉ hoặc tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu Khảo sát +
về KTNB, QLRR, CNTT
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
Số 244- Tháng 9. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 7
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
2.3.1. Mô hình hồi quy Dữ liệu dùng trong nghiên cứu được kết hợp
Dựa theo các biến được lựa chọn, mô hình sử dụng số liệu sơ cấp (khảo sát) và các số
nghiên cứu là phương trình hồi quy có dạng liệu thứ cấp do các ngân hàng công bố. Cụ
như sau: thể, khảo sát được nhóm nghiên cứu thực
RBIA = α + ∑βhRMh + ∑γkSCk + ∑δm CGm hiện từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 6/2022
+ ∑θTC + ϵ dùng để đánh giá các khía cạnh: việc thực
Trong đó, RBIA là mức độ áp dụng RBIA hiện RBIA và năng lực của KTV nội bộ.
của ngân hàng, RM, SC, CG, TC lần lượt Đối tượng khảo sát là nhân viên và lãnh đạo
đại diện cho các nhóm yếu tố về Quản lý bộ phận KTNB và một số cán bộ quản lý
rủi ro, Quy mô và sự phức tạp trong cấu cấp cao tại các ngân hàng Việt Nam. Các
trúc, Quản trị công ty, Năng lực của KTV số liệu còn lại bao gồm thông tin liên quan
nội bộ và h, k, m là số lượng biến trong đến cơ cấu quản trị công ty và một số biến
từng nhóm yếu tố. Cách tính toán, nguồn đại diện cho các đặc điểm tài chính của ngân
dữ liệu cũng như kỳ vọng dấu cho từng hàng như quy mô hay mức độ rủi ro được
biến độc lập được tóm tắt lại ở Bảng 1. trích xuất từ Báo cáo thường niên từ năm
2019- 2021 của các ngân hàng. Các dữ liệu
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu thu thập được xử lý, phân tích, đánh giá với
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu sự hỗ trợ của phần mềm Stata 15.
định lượng thông qua phân tích mô hình
hồi quy Tobit (còn được gọi là mô hình 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
hồi quy bị kiểm duyệt- censored regression
model), được thiết kế để ước tính mối quan 3.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
hệ tuyến tính giữa các biến khi biến phụ
thuộc bị kiểm duyệt. Các phiếu khảo sát được gửi tới các đối
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến sử dụng để ước lượng
Bình quân Trung vị Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn Số lượng
Biến phụ thuộc
RBIA 75,45 79,16667 36,66667 96,66667 14,99031 25
Biến độc lập
BASEL 3,733333 4,166667 0 5 1,341986 25
NPL 1,7048 1,65 0,63 4,94 0,9991168 25
LnTA 12,38229 12,26275 10,11087 14,38179 1,120276 25
BRANCH 285,52 167 58 1129 278,8747 25
FORBNH 0,24 0 0 1 0,4358899 25
S 0,12 0 0 1 0,3316625 25
BOD 7,28 7 5 11 1,720465 25
F 0,36 0 0 1 0,4898979 25
NONEXD 0,856443 0,875 0,6 1 0,1251656 25
TC 0,3035428 0,3434783 0,025 0,6714286 0,2160288 25
Nguồn: Tác giả tính bằng phần mềm Stata 15
8 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
Bảng 3. Kết quả mô hình hồi quy (tobit)
Biến độc lập Hệ số S.E t P > |t|
BASEL 2,490553 0,3292502 7,56 0,000
NPL -11,45898 0,5761819 -19,89 0,000
LnTA -15,41436 0,6264053 -24,61 0,000
BRANCH ,0464557 0,0037299 12,45 0,000
FORBNH 8,218619 1,5742 5,22 0,000
S -27,55599 2,504149 -11,00 0,000
BOD -4,944991 0,2824925 -17,50 0,000
F 25,86207 1,050857 24,61 0,000
NONEXD 29,6775 3,604759 8,23 0,000
TC 22,74775 2,282209 9,97 0,000
Intercept 258,9897 7,799015 33,21 0,000
LR chi2 (10) 107,47
Prob 0,0000
Pseudo R2 0,5235
N 25
Nguồn: Tác giả tính bằng phần mềm Stata 15
tượng khảo sát (nhân viên hoặc lãnh đạo 3.2. Kết quả mô hình định lượng
bộ phận kiểm toán nội bộ hoặc một số cán
bộ quản lý cấp cao tại các ngân hàng dựa Kết quả mô hình hồi quy được tóm tắt trong
theo mối quan hệ của nhóm nghiên cứu) Bảng 3. Về sự phù hợp của mô hình, hệ số
qua email, đối tượng là 31 NHTM cổ phần LR chi2 = 107,47 tương ứng với prob rất
Việt Nam. Kết quả thu về được 29 phiếu nhỏ cho thấy mô hình hồi quy là phù hợp.
trả lời từ 29 ngân hàng. Nhóm tiến hành Khả năng giải thích của mô hình nghiên
rà soát các phiếu trả lời, loại bỏ các phiếu cứu là 52,35% (Pseudo R2 = 0,5235). Điều
trả lời có khả năng là đánh giá không hợp này nghĩa là các biến độc lập giải thích
lệ và phiếu trả lời của ngân hàng gần đây được 52,35% sự biến động của biến phụ
không công bố báo cáo tài chính còn lại thuộc, còn lại là do các biến ngoài mô hình
25 phiếu trả lời hợp lệ được sử dụng cho và các sai số ngẫu nhiên.
nghiên cứu chính. Số lượng quan sát ít so Như vậy, theo kết quả ước lượng, mức độ
với số quan sát cần thiết để chạy mô hình sử dụng RBIA của ngân hàng chịu tác động
định lượng, tuy nhiên, số quan sát này đã của cả 4 khía cạnh là Quản lý rủi ro, Quy
chiếm 80,65% số NHTM cổ phần của Việt mô và sự phức tạp trong cấu trúc hoạt động,
Nam. Bảng 2 tóm tắt các thống kê mô tả Quản trị công ty và Năng lực của KTV nội
của các biến dùng để ước lượng cho mô bộ với ảnh hưởng của tất cả các biến độc
hình. Có thể thấy là ngoài các biến rời rạc lập đã chọn đều có ý nghĩa thống kê rất tốt
ra thì các biến liên tục có số trung bình và (
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
khai thực hiện và áp dụng Basel 2 của các thuận chiều đến mức độ áp dụng RBIA.
ngân hàng có tác động tích cực đến việc sẽ Điều này là tất yếu vì để thực hiện một
ứng dụng RBIA. Điều này là phù hợp và phương pháp tiếp cận mới và tổng quát như
dễ hiểu vì thực hiện được Basel 2 nghĩa là RBIA đòi hỏi KTV có kiến thức và hiểu
năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng biết sâu sắc về hệ thống quản lý rủi ro, kiến
được cải thiện đáng kể, là điều kiện tiên thức về kiểm toán cũng như năng lực về
quyết để triển khai RBIA. Tuy nhiên, tỷ công nghệ thông tin.
lệ nợ xấu tác động ngược chiều đến RBIA
lại cho thấy các ngân hàng có mức độ rủi 4. Kết luận và khuyến nghị chính sách
ro cao lại đang tỏ ra chậm chạp trong việc
thực hiện RBIA cũng như cải tiến hoạt Với mục đích khám phá các yếu tố liên
động KTNB. quan đến việc áp dụng RBIA của các
Với nhóm biến liên quan đến Quy mô và NHTM Việt Nam, bài viết đã thiết lập một
sự phức tạp trong cấu trúc hoạt động, kết mô hình nghiên cứu định lượng trên cơ sở
quả ước lượng chỉ ra ngân hàng quy mô lớn phát triển và điều chỉnh lại mô hình nghiên
lại đang chậm hơn các ngân hàng quy mô cứu của Yung-Ming Shiu and Mei-Lan Yeh
nhỏ trong việc triển khai RBIA. Điều này (2008) với kết quả ước lượng cho thấy các
có thể là do xu hướng thực hiện RBIA là tất khía cạnh về Quản lý rủi ro, Quy mô và sự
yếu và đã được yêu cầu thực hiện trong các phức tạp trong hoạt động ngân hàng, Quản
thông tư của NHNN liên quan đến hệ thống trị công ty và Năng lực của Kiểm toán viên
kiểm soát nội bộ và KTNB của ngân hàng nội bộ đều có tác động đến mức độ sử dụng
thương mại (gần nhất là Thông tư 13/2018/ RBIA tại các NHTM Việt Nam với mức ý
TT-NHNN), trong khi đó, các ngân hàng nghĩa kinh tế và thống kê cao.
quy mô vừa và nhỏ có lợi thế là linh hoạt và Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vẫn còn tồn
dễ chuyển mô hình hoạt động hơn là những tại một số hạn chế. Đầu tiên là biến phụ
ngân hàng có quy mô lớn (Fiegenbaum và thuộc “mức độ áp dụng RBIA” là biến được
Karnani, 1991). Trong khi đó, xét về mức độ tổng hợp và quy đổi từ kết quả khảo sát mà
phức tạp trong hoạt động thì các ngân hàng chất lượng phụ thuộc vào các đánh giá chủ
có tổ chức phức tạp với nhiều chi nhánh và quan của KTV nội bộ tại mỗi ngân hàng
ngân hàng có hoạt động ở nước ngoài có và kết quả nghiên cứu (mặc dù có ý nghĩa
mức độ áp dụng RBIA cao hơn. cao) nhưng vẫn là tiêu chí dựa vào độ chính
Về ảnh hưởng của nhóm biến liên quan đến xác của những câu trả lời khảo sát nên cũng
Quản trị công ty, số lượng Ủy viên HĐQT cần những nghiên cứu chuyên sâu hơn để
có quan hệ ngược chiều trong khi tỷ lệ Ủy khẳng định chắc chắn hơn tính đáng tin cậy
viên HĐQT không tham gia điều hành lại của những quy đổi này. Thứ hai, số lượng
có quan hệ cùng chiều với mức độ áp dụng mẫu sử dụng trong nghiên cứu tương đối
RBIA. Ngoài ra, những ngân hàng có cổ nhỏ, tuy nhiên số mẫu (số ngân hàng) cũng
đông chiến lược là tổ chức nước ngoài thực chiếm khoảng 80,65% các NHTMCP đang
sự có động lực lớn hơn trong việc triển hoạt động tại Việt Nam và đã bao phủ đầy
khai RBIA trong khi các ngân hàng mà nhà đủ các NH với loại hình sở hữu khác nhau,
nước chiếm cổ phần chi phối đang có tốc quy mô lớn, vừa, nhỏ (theo tổng tài sản)
độ triển khai RBIA tương đối chậm hơn. khác nhau. Các nghiên cứu trong tương lai
Cuối cùng, năng lực của đội ngũ KTV nội có thể mở rộng mẫu hơn nữa hoặc nghiên
bộ là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng cứu trong nhiều giai đoạn hơn để kiểm tra
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
lại các giả thuyết. nhằm làm tiền đề cho sự sẵn sàng thực hiện
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định kiểm toán nội bộ định hướng theo rủi ro.
nhưng nghiên cứu cũng có những kết quả - Các ngân hàng cũng cần cân nhắc việc mở
khá tương đồng với các nghiên cứu cùng rộng quy mô hoạt động, chỉ mở rộng khi
mục tiêu trước đó, do vậy kết quả nghiên thực sự quản trị được rủi ro đi kèm. Ngược
cứu cũng là cơ sở tốt cho việc đưa ra những lại, khi năng lực quản trị rủi ro mới chỉ vừa
khuyến nghị chính sách trong thời gian tới đủ hoặc thậm chí ở những NH chưa đủ điều
cho việc thực hiện RBIA tại các NHTM kiện để đáp ứng Basel 2 hoặc mức độ đủ
Việt Nam. Cụ thể: vốn theo TT41/2016 thì cần vô cùng thận
- Quản trị rủi ro không chỉ là đối tượng trọng, tập trung vào nâng cao chất lượng
được kiểm toán mà đối với KTNB định hoạt động thay vì mở rộng quy mô.
hướng theo rủi ro thì nó còn là điều kiện - Chuẩn hoá cấu trúc quản trị doanh nghiệp
tiên quyết cần phải có để có thể thực hiện ngân hàng cũng là mục tiêu mà các ngân
được phương pháp kiểm toán hiện đại này. hàng cần hướng tới nhằm tạo điều kiện
Chính vì vậy, nâng cao năng lực quản trị rủi cho việc triển khai thực hiện RBIA. Hiệu
ro của các NHTM Việt Nam là vô cùng cần quả của KTNB phụ thuộc rất lớn vào sự
thiết. Quản trị rủi ro không nên chỉ dừng hỗ trợ của HĐQT và Ban điều hành, mối
lại ở việc xây dựng và ban hành quy chế về quan hệ giữa tuyến bảo vệ thứ nhất, tuyến
quản trị các loại rủi ro theo yêu cầu mà việc bảo vệ thứ hai và KTNB. Do vậy, để nâng
phổ biến, đào tạo sự hiểu biết về rủi ro và cao hiệu quả của KTNB, vai trò/vị thế của
quản trị rủi ro cho mọi cấp độ của tổ chức KTNB trong NHTM, chức năng KTNB
là rất cần thiết. Ngân hàng cần thực hiện cần đã được các NHTM quy định cụ thể
các chương trình đào tạo về QLRR cho các trong Điều lệ Tổ chức và hoạt động. Bên
đối tượng từ Ban lãnh đạo, Khối QLRR và cạnh đó, các NHTM cũng cần ban hành
các đơn vị thuộc tẩng bảo vệ thứ nhất để quy định về cơ chế phối hợp trong hoạt
tạo nền tảng nhận thức về QLRR đồng bộ động KTNB với HĐQT, Ban điều hành và
trên toàn hệ thống. Thực hiện truyền thông các đơn vị đặc biệt là việc tiếp cận và đánh
trên toàn hệ thống thường xuyên về các sự giá rủi ro cũng như hoạt động quản trị rủi
kiện/ sự cố rủi ro hoạt động có thể xảy ra ro của ngân hàng.
tại NH hoặc bên ngoài, để nâng cao nhận - Cuối cùng nhưng có thể nói là điều kiện
thức cho cán bộ nhân viên về bài học kinh tiên quyết để thực hiện được KTNB định
nghiệm/lỗi chốt kiểm soát. Để QLRR hiệu hướng theo rủi ro đó là nâng cao năng lực
quả cần phân định rõ ràng vai trò và trách của đội ngũ KTV nội bộ. KTV nội bộ tham
nhiệm của các bên có liên quan để cùng gia vào RBIA, ngoài năng lực và kỹ năng
phối hợp thực hiện. Với các NH chưa thực cần có của KTV thông thường thì còn đòi
hiện áp dụng được hoàn toàn Basel 2 thì hỏi sự hiểu biết toàn diện về hoạt động kinh
cần tập trung mọi nguồn lực để lành mạnh doanh chung của ngân hàng và hiểu biết
hoá hoạt động của mình, xây dựng nền tảng sâu sắc về nghiệp vụ của đơn vị được kiểm
về tài chính, con người và công nghệ nhằm toán. KTV nội bộ cần phải hiểu hết tất cả
tiến tới hoàn thiện từng cấu phần trụ cột các rủi ro đe dọa đến mục tiêu của tổ chức,
của Basel 2. Bên cạnh việc củng cố năng hiểu cách mà tổ chức đang thiết kế và vận
lực quản trị rủi ro chung của tổ chức thì hành các biện pháp ứng phó với rủi ro trong
ngân hàng còn cần phải nỗ lực giảm thiểu các hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm
nợ xấu, lành mạnh hoá hoạt động tín dụng đảm bảo đầy đủ vai trò tư vấn cho nhà quản
Số 244- Tháng 9. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 11
- Nghiên cứu các yếu tố tác động đến mức độ thực hiện kiểm toán nội bộ dựa trên rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
trị về quản trị rủi ro. Đối với các lĩnh vực dự án thì ngân hàng cần có quy định cụ thể
đặc thù như kiểm toán CNTT, kiểm toán về nhân sự thuê ngoài. ■
Tài liệu tham khảo
Anderson, D., Francis, J. R., & Stokes, D. J. (1993). Auditing, directorships and the demand for monitoring. Journal of
accounting and public policy, 12(4), 353-375.
Beumer, H. (2006). A risk-oriented approach: auditors at a Swiss textile firm demonstrate the value of focusing on risk
management. Internal auditor, 63(1), 72-77.
Carcello, J. V., Hermanson, D. R., & Raghunandan, K. (2005). Factors associated with US public companies’ investment
in internal auditing. Accounting Horizons, 19(2), 69-84.
Carey, P., Simnett, R., & Tanewski, G. (2000). Voluntary demand for internal and external auditing by family
businesses. Auditing: a journal of practice & theory, 19(s-1), 37-51.
Carey, P., Subramaniam, N., & Ching, K. C. W. (2006). Internal audit outsourcing in Australia. Accounting &
Finance, 46(1), 11-30.
Cebenoyan, A. S., Cooperman, E. S., & Register, C. A. (1999). Ownership structure, charter value, and risk-taking
behavior for thrifts. Financial Management, 28(1), 43-60.
Chen, H. J. (2003). The relationship between corporate governance and risk-taking behavior in Taiwanese banking
industry. Journal of Risk Management, 5(3), 363-391.
Coetzee, G. P. P. (2010). A risk-based audit model for internal audit engagements. Philosophy Thesis.
Fiegenbaum, A., & Karnani, A. (1991). Output flexibility—a competitive advantage for small firms. Strategic management
journal, 12(2), 101-114.
Fraser, I., & Henry, W. (2007). Embedding risk management: structures and approaches. Managerial Auditing Journal.
22(4), 392-409
Goodwin, J. (2004). A comparison of internal audit in the private and public sectors. Managerial auditing journal, 19(5),
640-650
Goodwin Stewart, J., & Kent, P. (2006). The use of internal audit by Australian companies. Managerial Auditing
Journal, 21(1), 81-101.
Haniffa, R., & Hudaib, M. (2006). Corporate governance structure and performance of Malaysian listed
companies. Journal of business finance & accounting, 33(7 8), 1034-1062.
Hay, D., & Knechel, W. R. (2004). Evidence on the associations among elements of control and external
assurance. Unpublished Working Paper (The University of Auckland).
Hermalin, B., & Weisbach, M. S. (2001). Boards of directors as an endogenously determined institution: A survey of the
economic literature, Working Paper (National Bureau of Economic Research).
IIA (2003). Risk Based Internal Auditing, Position Statement. The Institute of Internal Auditors – UK and Ireland London.
IIA (2004). The Role of Internal Auditing in Enterprise-wide Risk Management, Position Statement. Institute of Internal
Auditors UK and Ireland London.
IIA (2005). Review of the Turnbull guidance on internal control – proposals for updating the guidance consultation
paper, September. Institute of Internal Auditors UK and Ireland London.
IIA (2017). International Standards for the Professional Practice of Internal Auditing (standards). The Institute of
Internal Auditors.
IIARF (2003). Research Opportunities in Internal Auditing. Institute of Internal Auditors Research Foundation Altamonte
Springs, FL: IIARF.
Katz, E. M. (1998). Risk-based supervision, internal controls, and the internal audit function. Bank Accounting and
Finance, 11, 49-55.
Kippenberger, T. (1999). Internal audit and governance: the shift from control to risk. The Antidote.
Knechel, W. R., & Willekens, M. (2006). The role of risk management and governance in determining audit
demand. Journal of Business Finance & Accounting, 33(9-10), 1344-1367.
Martin, C. L., & Lavine, M. K. (2000). Outsourcing the internal audit function. The CPA Journal, 70(2), 58.
Mihret, D. G., & Yismaw, A. W. (2007). Internal audit effectiveness: an Ethiopian public sector case study. Managerial
auditing journal.
McCool, T. J. (2000). Risk-Focused Bank Examinations: Regulators of Large Banking Organizations Face Challenges:
GGD-00-48. In GAO Reports: U.S. Government Accountability Office, 1.
Pound, J. (1988). Proxy contests and the efficiency of shareholder oversight. Journal of financial economics, 20, 237-
265.
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 244- Tháng 9. 2022
- NGUYỄN HỒNG YẾN - PHẠM HỒNG LINH
Ross, S. A. (1989). Institutional markets, financial marketing, and financial innovation. The Journal of Finance, 44(3),
541-556.
Sarens, G., & De Beelde, I. (2006). Internal auditors’ perception about their role in risk management: A comparison
between US and Belgian companies. Managerial Auditing Journal, 21(1), 63-80.
Shiu, P., & Yeh, M. L. (2008). Risk Based Internal Auditing in Taiwanese Banking Industry.
Spekle, R. F., Van Elten, H. J., & Kruis, A. M. (2007). Sourcing of internal auditing: An empirical study. Management
Accounting Research, 18(1), 102-124.
Spira, L. F., & Page, M. (2003). Risk management: The reinvention of internal control and the changing role of internal
audit. Accounting, Auditing & Accountability Journal, 16(4), 640-661.
Turnbull, N. (1999). Internal Control: Guidance for Directors on the Combined Code.
Walker, P. L., Shenkir, W. G., & Barton, T. L. (2003). ERM in practice: examples of auditing’s role in enterprise
risk management efforts at five leading companies shed light on how this new paradigm is impacting audit
practitioners. Internal Auditor, 60(4), 51-55.
Zeckhauser, R. J., & Pound, J. (1990). Are large shareholders effective monitors? An investigation of share ownership
and corporate performance. In Asymmetric information, corporate finance, and investment (pp. 149-180).
University of Chicago Press.
Số 244- Tháng 9. 2022- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 13
nguon tai.lieu . vn