Xem mẫu

  1. NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẤT KÍCH THÍCH SINH TRƯỞNG VÀ TUỔI HOM ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TƯỞNG CỦA HOM CÂY XĂNG SÊ (SANCHEZIA SPECIOSA LEONARD) HỨA THỊ HẠNH TRẦN THỊ LÀNH - NGUYỄN THỊ KIM YẾN Khoa Sinh học Tóm tắt: Giâm hom là một phương pháp nhân giống vô tính có nhiều ưu điểm như: có hệ số nhân giống cao, đảm bảo chất lượng, giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ, đáp ứng đủ và kịp thời cho việc sử dụng một lượng lớn cây giống trên qui mô lớn. Việc sử dụng chất điều hòa sinh trưởng là một phương pháp khá phổ biến trong nhân giống. Vì vậy, việc nhân giống cây Xăng sê bằng phương pháp giâm hom là một vấn đề cấp thiết nhằm bảo tồn và phát triển giống cây này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sử dụng chất điều hòa sinh trưởng: α-NAA ở nồng độ 100 ppm cho tỉ lệ ra rễ tốt nhất ở hom già, α-NAA ở nồng độ 200 ppm cho tỉ lệ ra rễ tốt nhất ở hom non, α- NAA ở nồng độ 300 ppm cho tỉ lệ ra rễ tốt nhất ở hom bảnh tẻ, và α-NAA + GA ở nồng độ 300 ppm cho tỉ lệ ra chồi tốt nhất. Xăng sê có thể giâm hom cả ba loại đó là hom bánh tẻ, hom già và hom non. Từ khóa: α-NAA, GA, IBA, Giâm hom, Sanchezia speciosa Leonard 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, nhu cầu của con người về nguồn dược liệu ngày càng tăng, nguồn dược liệu con người đang sử dụng có thể được tổng hợp bằng nhiều con đường khác nhau như tổng hợp từ hóa học, vi sinh vật, xong nguồn dược liệu từ thực vật đã được con người sử dụng từ rất lâu và nhu cầu ngày càng lớn. Trong đó, cây Xăng sê là loại thảo dược quí trị bệnh đau dạ dày rất hiệu quả nhưng ít được biết đến. Cây Xăng sê có tên khoa học là Sanchezia speciosa Leonard, thuộc họ Acanthaceae, là cây bụi thường xanh, cây cao từ 1,3 - 2,4 m, lá có màu xanh lá cây hay màu tím than, lớn và hoa đầy màu sắc [8]. Cho đến nay, có rất ít các bài báo nước ngoài nghiên cứu về cây S. speciose, và giá trị của nó vẫn đang còn là một ẩn số. Một nghiên cứu mới nhất của khoa y, dược trường Đại học Malaya, Kuala Lumpur về cây S. speciose với đề tài In vitro anti-oxidant and anti-cancar activity of methanolic extract from S. speciose leaves. Đây là một trong những báo cáo đầu tiên về chống oxy hóa và các hoạt động gây độc tế bào lá của S. speciose [7]. Ở Việt Nam, cây Xăng sê được phân bố rải rác trên các vùng núi Tây Giang (tỉnh Quảng Nam) và huyện Hòa Vang (thành phố Đà Nẵng) và ít được sự chú ý của người dân [1]. Hiện nay, trong nước ta vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu về các đặc điểm sinh học cũng như những giá trị thực tiễn mà cây Xăng sê mang lại, mà chỉ có một số bài báo hay trang web cập nhật công dụng và cách sử dụng cây Xăng sê trong việc điều trị viêm loét dạ dày tá tràng và viêm đại tràng [8], [9]. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016, tr. 327-336
  2. 328 T N và cs. Giâm hom là một phương pháp nhân giống vô tính có nhiều ưu điểm như: có hệ số nhân giống cao, đảm bảo chất lượng, giữ được đặc tính di truyền của cây mẹ, đáp ứng đủ và kịp thời cho việc sử dụng một lượng lớn cây giống trên qui mô lớn. Vì vậy, việc nhân giống cây Xăng sê bằng phương pháp giâm hom là một vấn đề cấp thiết nhằm bảo tồn và phát triển giống cây này. Hiện nay, phương pháp nhân giống vô tính đã được sử dụng rộng rãi và đã tiến hành thành công trong cả nước [2,3,4,5,6]. Do vậy, chúng tôi xin chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất kích thích sinh trưởng và tuổi hom đến khả năng sinh tưởng của hom cây Xăng sê (S. speciosa Leonard)” để tìm hiểu, khai thác giá trị, bảo tồn và mở rộng môi trường sống của cây Xăng sê góp phần ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong Đông y về việc phát hiện và bảo tồn các cây thuốc quý. 2. VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ P ƯƠNG P ÁP NG IÊN C U 2.1. Đối tượng Cây xăng sê (Sanchezia speciosa Leonard). Hóa chất: Các chất kích thích sinh trưởng (KTST) gồm IB (β-indol butyric acid) và α- NAA (α-naphthyl acetic acid) và GA (Gibberellin). Môi trường giâm: cát. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Thí nghiệm được bố trí với 3 nồng độ (100 ppm, 200 ppm, 300 ppm) của chất KTST (NAA, IBA, GA) ở 11 công thức thí nghiệm trên 3 loại tuổi hom khác nhau đó là hom bánh tẻ, hom già và hom non. Công thức I: Sử dụng chất KTST α-NAA nồng độ 100 ppm. Công thức II: Sử dụng chất KTST α-NAA nồng độ 200 ppm. Công thức III: Sử dụng chất KTST α-NAA nồng độ 300 ppm. Công thức IV: Sử dụng chất KTST IBA nồng độ 100 ppm. Công thức V: Sử dụng chất KTST IBA nồng độ 200 ppm. Công thức VI: Sử dụng chất KTST IBA nồng độ 300 ppm. Công thức VII: Sử dụng chất KTST α-NAA kết hợp GA nồng độ 100 ppm/chất. Công thức VII: Sử dụng chất KTST α-NAA kết hợp GA nồng độ 200 ppm/chất. Công thức VII: Sử dụng chất KTST α-NAA kết hợp GA nồng độ 300 ppm/chất. Công thức VIII: Sử dụng chất KTST IBA kết hợp GA nồng độ 100 ppm/chất. Công thức IX: Sử dụng chất KTST IBA kết hợp GA nồng độ 200 ppm/chất. Công thức X: Sử dụng chất KTST IBA kết hợp GA nồng độ 300 ppm/chất. Công thức XI: Không dử dụng chất kích thích Các chỉ tiêu theo dõi tỉ lệ hom ra rễ, ra chồi và số lượng rễ, chồi trên hom.
  3. NGHIÊN C U N ƯỞNG C CÁC C ẤT C TH C SIN T ƯỞNG 329 2.3. Xử lí số liệu Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố thí nghiệm (tuổi hom, KTST) đến kết quả của thí nghiệm bằng phân tích phương sai một nhân tố (ANOVA). Các số liệu được sử lí bằng phần mềm MS Excell, SPSS 15.0 3. ẾT QU VÀ T O LUẬN Thông qua quá trình thăm dò, tìm hiểu thời gian tác động tối ưu của nồng độ chất KTST nhóm Auxin và GA theo chúng tôi với thời gian tác động 30 giây là thích hợp để kích thích và các auxin, GA có nồng độ ≤ 300 ppm là thích hợp cho khả năng ra rễ của các hom Xăng sê khi đem giâm. Từ đó, các thí nghiệm về sau chúng tôi đã sử dụng các chất KTST nhóm auxin, GA ở các nồng độ 100, 200, 300 ppm với thời gian tác động là 30 giây để tìm hiểu khả năng ra rễ của các loại hom Xăng sê: hom bánh tẻ, nom già và hom non. 3.1. Ảnh hưởng của các chất KTST ở các nồng độ khác nhau đến các chỉ tiêu sinh trưởng của hom bánh tẻ Bảng 1. Ảnh hưởng của chất KTST đến khả năng ra rễ và tỷ lệ ra rễ của hom tẻ Chất kích Thời Nồng độ (ppm)/Số lượng rễ trung Nồng độ (ppm)/Tỉ lệ P thích gian bình/hom (rễ) ra rễ (%) ra rễ 100 200 300 100 200 300 α-NAA 15 3.0 ± 3.4bA 2.9 ± 2.4bB 8.7 ± 3.7aA 60 70 90 0.001 IBA 15 0.7 ± 1.3cB 4.9 ± 2.8aA 2.5 ± 2.4bB 30 80 60 0.001 bB bC NAA+GA 15 0.8 ± 1.0 1.1 ± 1.2 2.4 ± 1.8aB 50 60 80 0.038 bB aB IBA + GA 15 0.4 ± 0.5 1.9 ± 1.7 0.7 ± 0.8bC 40 70 50 0.013 B C ĐC 21 0.6 ± 0.8 0.6 ± 0.8 0.6 ± 0.8C 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng. Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột Qua bảng 1 ta nhận thấy, cả bốn chất kích thích sinh trưởng α-NAA, IBA, NAA + GA và IBA + G đều có sự sai khác giữa các nồng độ (bảng 01), trong đó α-NAA ở nồng độ 300 ppm cho khả năng rễ tốt nhất, điều đó được thể hiện ở chỉ tiêu về số lượng rễ trung bình/hom (8,7) và tỷ lệ ra rễ (90%) cao nhất. Ngoài ra qua bảng 1 ta cũng nhận thấy khả năng ra rễ giữa các chất kích thích cũng có sự khác sai khác ở các nồng độ. Ở nồng độ 100 ppm thì công thức α-NAA có sự sai khác so với đối chứng, còn công thức IBA, α-NAA + GA và IBA + GA không có sự sai khác so với đối chứng. Ở nồng độ 200 ppm, thì công thức α-NAA, IBA và IBA +GA có sự sai khác so với đối chứng. Và ở nồng độ 300 ppm, công thức α-NAA, IBA và α- NAA + GA có sự sai khác so với đối chứng, còn công thức IBA + GA không có sự sai khác so với đối chứng. Đồng thời, kết quả cho thấy việc xử lí bằng chất kích thích α- NAA ở nồng độ 300 ppm có sự sai khác cao nhất so với đối chứng và so với các công thức còn lại. Vì thế chúng tôi khẳng định việc xử lí hom bánh tẻ bằng chất kích thích α- NAA ở nồng độ 300 ppm đạt hiểu quả tốt nhất.
  4. 330 T N và cs. 3.2. Ảnh hưởng của các chất KTST ở các nồng độ khác nhau đến các chỉ tiêu sinh trưởng của hom già Bảng 2. Ảnh hưởng của chất KTST đến khả năng ra rễ và tỷ lệ ra rễ của hom già Chất kích Thời Nồng độ (ppm)/Số lượng rễ trung Nồng độ (ppm)/Tỉ lệ P thích gian ra bình/hom (rễ) ra rễ (%) rễ 100 200 300 100 200 300 (ngày) α-NAA 15 5.9 ± 2.6aA 3.0 ± 2.7bB 3.0 ± 2.7bA 90 60 70 0.015 IBA 15 2.1 ± 2.5bB 4.4 ± 2.5aA 1.6 ± 1.8bB 50 80 60 0.030 NAA+ GA 15 1.0 ± 1.1bC 2.7 ± 2.2aB 0.8 ± 1.0bC 50 70 50 0.023 IBA + GA 15 0.9 ± 0.8bC 2.0 ± 1.6aB 0.3 ± 0.4bC 60 80 30 0.007 ĐC 21 0.7 ± 0.8C 0.7 ± 0.8C 0.7 ± 0.8C 50 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột Qua bảng 2 ta nhận thấy, cả bốn chất kích thích sinh trưởng α-NAA, IBA, NAA + GA và IBA + G đều có sự sai khác giữa các nồng độ (bảng 02), trong đó α-NAA ở nồng độ 100 ppm cho khả năng rễ tốt nhất, điều đó được thể hiện ở chỉ tiêu về số lượng rễ trung bình/hom (5,9) và tỷ lệ ra rễ (90%) cao nhất. Ngoài ra qua bảng 2 ta cũng nhận thấy khả năng ra rễ giữa các chất kích thích cũng có sự khác sai khác ở các nồng độ. Ở nồng độ 100 ppm thì công thức α-NAA và công thức IBA có sự sai khác so với đối chứng, còn công thức α-NAA + GA và IBA + GA không có sự sai khác so với đối chứng, trong đó công thức NAA có sự sai khác rõ rệt nhất. Ở nồng độ 200 ppm, thì cả bốn công thức α-NAA, IBA và α-NAA + GA và IBA + GA đều có sự sai khác so với đối chứng, tuy nhiên ở công thức IBA có sự sai khác rõ rệt nhất. Và ở nồng độ 300 ppm, công thức α-NAA, IBA có sự sai khác so với đối chứng, còn công thức α-NAA + GA và IBA + GA không có sự sai khác so với đối chứng. Từ kết quả trên, ta thấy công thức α-NAA ở nồng độ 100 ppm có sự sai khác cao nhất so với đối chứng và các công thức còn lại. Vì vậy, ta có thể kết luận rằng khi xử lí hom già bằng α-NAA ở nồng độ 100 ppm đạt hiệu quả cao nhất. 3.3. Ảnh hưởng của các chất KTST ở các nồng độ khác nhau đến các chỉ tiêu sinh trưởng của hom non Bảng 3. Ảnh hưởng của chất KTST đến khả năng ra rễ và tỷ lệ ra rễ của hom non Chất Thời gian Nồng độ (ppm)/Số lượng rễ trung Nồng độ (ppm)/Tỉ lệ P kích thích ra rễ bình/hom (rễ) ra rễ (%) (ngày) 100 200 300 100 200 300 α-NAA 15 2.7 ± 2.8bB 7.0 ± 3.0aA 4.5 ± 2.9bA 60 90 80 0.011 IBA 15 4.9 ± 3.6aA 0.3 ± 0.4cC 1.5 ± 2.0bB 70 30 50 0.018 bC aB NAA + GA 15 0.8 ± 0.7 2.2 ± 1.6 0.7 ± 0.8bC 60 70 50 0.013 aB bC IBA + GA 15 2.0 ± 1.7 0.5 ± 0.7 0.5 ± 0.8bC 70 40 30 0.012 C C ĐC 21 0.6 ± 0.8 0.6 ± 0.8 0.6 ± 0.8C 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột
  5. NGHIÊN C U N ƯỞNG C CÁC C ẤT C TH C SIN T ƯỞNG 331 Qua bảng 3 ta nhận thấy, cả bốn chất kích thích sinh trưởng α-NAA, IBA, α-NAA + GA và IBA + G đều có sự sai khác giữa các nồng độ (bảng 03), trong đó α-NAA ở nồng độ 200 ppm cho khả năng rễ tốt nhất, điều đó được thể hiện ở chỉ tiêu về số lượng rễ trung bình/hom (7,0) và tỷ lệ ra rễ (90%) cao nhất. Ngoài ra qua bảng 3 ta cũng nhận thấy khả năng ra rễ giữa các chất kích thích cũng có sự khác sai khác ở các nồng độ. Qua kết quả trên, ta thấy ở nồng độ 200 ppm, công thức α-NAA có sự sai khác lớn nhất so với đối chứng và các công thức còn lại. Như vậy, ta có thể kết luận rằng việc xử lí hom non bằng chất kích thích α-NAA ở nồng độ 200 ppm đạt hiệu quả tốt nhất. 3.4. Ảnh hưởng của tuổi hom trên thân đến khả năng ra rễ của cây hom ở nồng độ chất KTST 100 ppm Qua bảng 4 ta thấy khi xử lí bằng chất kích thích sinh trưởng α-NAA ở cùng nồng độ 100 ppm thì khả năng ra rễ giữa các loại hom: bánh tẻ, già, non có sự khác nhau (P = 0.047). Trong đó, khả năng ra rễ của hom già cao hơn so với hai loại hom còn lại bởi vì có các chỉ tiêu về tỷ lệ ra rễ (90%) và số rễ trung bình/hom (5,9) là cao nhất. Tương tự ta cũng nhận thấy rằng ở chất kích thích IB ở cùng nồng độ 100 ppm cũng có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các loại hom (P = 0,005), mà trong đó hom non lại có khả năng ra rễ cao nhất về chỉ tiêu ra rễ (70%) và số rễ trung bình/hom (4.9). Tuy nhiên, khi α-NAA + GA và IBA + G thì khả năng ra rễ giữa các hom có sự sai khác không đáng kể được thể hiện ở các chỉ tiêu: số lượng rễ trung bình/hom, tỉ lệ ra rễ (bảng 07). Điều này chứng tỏ rằng, cùng một nồng độ 100 ppm của α-NAA và IBA thì tuổi hom có ảnh hưởng nhất định đến khả năng ra rễ của hom giâm, nhưng khi xử lí với α- NAA + GA và IBA + GA thì tuổi hom không có ảnh hưởng nhiều đến khả năng ra rễ của hom giâm. Bảng 4. Ảnh hưởng của vị trí hom trên thân cây đến khả năng ra rễ khi được xí lí bằng các chất kích thích sinh trưởng ở nồng độ 100 ppm Chất kích Thời gian Số lượng rễ trung bình/hom (rễ) ở các Tỉ lệ ra rễ trung P thích ra rễ loại tuổi hom bình/hom ở các loại (Ngày) tuổi hom (%) Tẻ Già Non Tẻ Già Non α-NAA 15 3.0 ± 3.4bA 5.9 ± 2.6aA 2.7 ± 2.8bB 60 90 50 0.047 IBA 15 0.7 ± 1.2cB 2.1 ± 2.5bB 4.9 ± 3.6aA 30 50 70 0.005 NAA + GA 15 0.8 ± 1.0aB 1.0 ±1 .1aC 0.8 ± 0.7aC 50 50 60 0.877 IBA + GA 15 0.4 ± 0.5aB 0.9 ± 0.8aC 0.5 ± 0.7aC 40 60 40 0.217 ĐC 21 0.6 ± 0.8B 0.7 ± 0.8C 0.6 ± 0.8C 40 50 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột Ngoài ra, ta còn nhận thấy có sự sai khác về khả năng ra rễ của các loại hom khi được xử lí bằng các chất kích thích khác nhau. Trong đó, ta thấy công thức α-NAA có sự sai khác rõ rệt nhất so với đối chứng. Qua đó ta có thể kết luận rằng xử lí hom già bằng chất kích thích α-NAA ở nồng độ 100 ppm đạt hiệu quả cao hơn cả.
  6. 332 T N và cs. 3.5. Ảnh hưởng của tuổi hom trên thân đến khả năng ra rễ của cây hom ở nồng độ chất KTST 200 ppm Qua bảng 5 ta thấy, khi xử lí bằng chất kích thích sinh trưởng α-NAA ở cùng nồng độ 200 ppm thì khả năng ra rễ giữa các loại hom: bánh tẻ, già, non có sự khác nhau (P = 0.03). Trong đó, khả năng ra rễ của hom non cao hơn so với hai loại hom còn lại bởi vì có các chỉ tiêu về tỷ lệ ra rễ (90%) và số rễ trung bình/hom (7,0) là cao nhất. Tương tự ta cũng nhận thấy rằng ở chất kích thích IB ở cùng nồng độ 200 ppm cũng có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các loại hom (P = 0,001), mà trong đó hom bánh tẻ và hom già lại có khả năng ra rễ cao như nhau, hom non có khả năng ra rễ thấp nhất (bảng 5). Tuy nhiên, khi kết hợp α-NAA + GA và IBA + G thì khả năng ra rễ giữa các hom có sự sai khác không đáng kể được thể hiện ở các chỉ tiêu: số lượng rễ trung bình/hom, tỉ lệ ra rễ. Điều này chứng tỏ rằng, ở cùng một nồng độ 200 ppm của α-NAA + IBA thì tuổi hom có ảnh hưởng nhất định đến khả năng ra rễ của hom giâm, nhưng khi xử lí với α-NAA + GA và IBA + GA thì tuổi hom không có ảnh hưởng nhiều đến khả năng ra rễ của hom giâm. Bảng 5. Ảnh hưởng của vị trí hom trên thân cây đến khả năng ra rễ khi được xử lí bằng các chất kích thích sinh trưởng ở nồng độ 200 ppm Chất kích Thời Số lượng rễ trung bình/hom (rễ) ở các loại Tỉ lệ ra rễ trung P thích gian ra tuổi hom bình/hom ở các rễ loại tuổi hom (%) (Ngày) Tẻ Già Non Tẻ Già Non bB bB α-NAA 15 2.9 ± 2.3 3.00 ± 2.7 7.0 ± 3.0aA 70 70 90 0.003 aA aA bC IBA 15 4.9 ± 2.8 4.4 ± 2.5 0.30 ± 0.4 80 80 30 0.001 aC aC aB NAA + GA 15 0.7 ± 1.1 1.4 ± 2.2 1.5 ± 1.7 40 70 70 0.263 aC aC aB IBA + GA 15 0.7 ± 1.6 1.4 ± 1.6 0.9 ± 1.7 30 70 50 0.188 ĐC 15 0.6 ± 0.8aC 0.7 ± 0.8aC 0.6 ± 0.8aC 40 50 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột Ngoài ra, qua bảng 5 ta còn nhận thấy có sự sai khác về khả năng ra rễ của các loại hom khi được xử lí bằng các chất kích thích khác nhau. Trong đó, ta thấy hom non khi được xử lí bằng chất kích thích α-NAA ở nồng độ 200 ppm thì có khả năng ra rễ cao nhất 3.6. Ảnh hưởng của tuổi hom trên thân đến khả năng ra rễ của cây hom ở nồng độ chất KTST 200 ppm Qua bảng 6 ta thấy, khi xử lí bằng chất kích thích sinh trưởng α-NAA ở cùng nồng độ 300 ppm thì khả năng ra rễ giữa các loại hom: bánh tẻ, già, non có sự khác nhau (P = 0,001). Trong đó, khả năng ra rễ của hom bánh tẻ cao hơn so với hai loại hom còn lại bởi vì có các chỉ tiêu về tỷ lệ ra rễ (90%) và số rễ trung bình/hom (8,7) cao nhất. Tương tự ta cũng nhận thấy rằng ở chất kích thích α-NAA + G cũng có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các loại hom (P = 0,011), mà trong đó hom bánh tẻ có khả năng ra
  7. NGHIÊN C U N ƯỞNG C CÁC C ẤT C TH C SIN T ƯỞNG 333 rễ cao nhất (bảng 6). Tuy nhiên, với IB và IB + G ở cùng nồng độ 300 ppm thì khả năng ra rễ giữa các hom có sự sai khác không đáng kể được thể hiện ở các chỉ tiêu: số lượng rễ trung bình/hom, tỉ lệ ra rễ. Điều này chứng tỏ rằng, ở cùng một nồng độ 300 ppm của α-NAA và α-NAA + G thì tuổi hom có ảnh hưởng nhất định đến khả năng ra rễ của hom giâm, nhưng khi xử lí với IB và IB + G thì tuổi hom không có ảnh hưởng nhiều đến khả năng ra rễ của hom giâm. Ngoài ra, qua bảng 6 ta còn nhận thấy có sự sai khác về khả năng ra rễ của các loại hom khi được xử lí bằng các chất kích thích khác nhau. Trong đó, ta thấy hom bánh tẻ khi được xử lí bằng chất kích thích α-NAA ở nồng độ 300 ppm thì có khả năng ra rễ cao nhất. Bảng 6. Ảnh hưởng của vị trí hom trên thân cây đến khả năng ra rễ khi được xử lí bằng các chất kích thích sinh trưởng ở nồng độ 300ppm Chất kích Thời Số lượng rễ trung bình/hom (rễ) ở Tỉ lệ ra rễ trung P thích gian ra các loại tuổi hom bình/hom ở các rễ loại tuổi hom (%) (Ngày) Tẻ Già Non Tẻ Già Non α-NAA 15 8.7 ± 3.6aA 2.4 ± 3.0cA 4.5 ± 2.9bA 90 60 80 0.001 IBA 15 2.5 ± 2.4aB 1.6 ± 1.8aB 1.5 ± 2.0aB 60 60 50 0.512 NAA + GA 15 2.4 ± 1.8aB 0.8 ± 1.0bC 0.7 ± 0.8bC 80 50 50 0.011 IBA + GA 15 0.7 ± 0.8aC 0.3 ± 0.4aC 0.5 ± 0.8aC 50 30 30 0.498 ĐC 21 0.6 ± 0.8D 0.7 ± 0.8D 0.6 ± 0.8D 40 50 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột 3.7. Ảnh hưởng của các chất KTST đến khả năng ra chồi của hom bánh tẻ. Công thức xử lý bằng α-NAA + GA, IBA + G sau 10 ngày đã xuất hiện chồi, công thức xử lý bằng α-N , IB sau 14 ngày đã xuất hiện chồi, còn đối chứng là 17 ngày mới xuất hiện chồi đầu tiên. õ ràng là các hợp chất auxin kết hợp G đã kích thích sự phân hóa chồi nhanh hơn. Do đó chúng tôi đã tiến hành thống kê và xử lý số liệu đối với α-NAA + GA, IBA + G , IB và α-N ở ngày thứ 10 và ngày thứ 14, còn đối chứng ngày 17 sau khi giâm hom. Bảng 7. Ảnh hưởng của chất KTST đến khả năng ra chồi và tỷ lệ ra chồi của hom bánh tẻ Chất kích Thời gian Số lượng chồi trung bình/hom ở các Tỉ lệ ra chồi (%) ở P thích ra chồi nồng độ (ppm) các nồng độ (ppm) (Ngày) 100 200 300 100 200 300 α-NAA 14 0.8 ± 0.7aA 1.4 ± 1.9aB 1.7 ± 2.4aB 60 70 90 0.511 IBA 14 0.9 ± 2.0aA 1.0 ± 0.6B 1.0 ± 1.4aB 30 80 60 0.961 bA bB NAA + GA 10 1.2 ± 1.3 1.3 ± 1.1 2.7 ± 0.9aA 50 60 80 0.046 IBA + GA 10 0.8 ± 1.0bA 2.5 ± 1.0aA 1.0 ± 1.0bB 40 70 50 0.027 ĐC 17 0.5 ± 0.7 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột
  8. 334 T N và cs. Qua bảng 07 ta nhận thấy, đối với hom bánh tẻ thì các chất kích thích sinh trưởng α- NAA, IBA hầu như không có sự sai khác giữa các nồng độ. Nhưng, ta cũng nhận thấy rằng ở chất kích thích α-NAA + G , cũng như IB + GA có có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các nồng độ (Bảng 7), trong đó ở nồng độ 300 ppm với công thức α-NAA + GA và 200 ppm với công thức IBA + GA thì có tỷ lệ ra chồi cao hơn cả. Vì thế chúng tôi nhận thấy ở các chất kích thích sinh trưởng khi kết hợp với GA cho hiệu quả ra chồi tốt nhất. Ngoài ra qua bảng 7 ta cũng nhận thấy khả năng ra chồi ở nồng độ 100 ppm thì không có sự sai khác so với đối chứng, còn ở nồng độ 200 ppm và 300 ppm có sự sai khác so với đối chứng, trong đó ở công thức α-NAA + GA thì ra chồi là cao nhất (Bảng 7). Vì thế chúng khẳng định rằng khi kết hợp chất kích α-NAA + GA ở nồng độ 300 ppm là công thức cho hiệu quả ra chồi cao nhất đối với hom bánh tẻ. 3.8. Ảnh hưởng của các chất KTST đến khả năng ra chồi của hom già Qua bảng 8 ta nhận thấy, đối với hom già thì các chất kích thích sinh trưởng α-NAA, IBA hầu như không có sự sai khác giữa các nồng độ. Nhưng, ta cũng nhận thấy rằng ở chất kích thích α-NAA + G , cũng như IB + G có có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các nồng độ (Bảng 8), trong đó ở nồng độ 300 ppm với công thức α-NAA + GA và 200 ppm với công thức IBA + GA thì có tỷ lệ ra chồi cao hơn cả. Vì thế chúng tôi nhận thấy ở các chất kích thích sinh trưởng khi kết hợp với GA cho hiệu quả ra chồi tốt nhất. Bảng 8. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng nhóm Auxin đến khả năng ra chồi và tỷ lệ ra chồi của hom già Chất kích Thời gian Số lượng chồi trung bình/hom ở các Tỉ lệ ra chồi (%) ở P thích ra chồi nồng độ (ppm) các nồng độ (ppm) (Ngày) 100 200 300 100 200 300 α-NAA 14 1.2 ± 0.6aA 1.4 ± 2.3a 0.7 ± 0.6a 60 90 70 0.554 IBA 14 0.5 ± 0.5aA 1.1 ± 0.7a 0.6 ± 0.6a 50 80 60 0.131 bA b NAA + GA 10 0.9 ± 1.0 1.0 ± 1.0 2.2 ± 1.3a 50 60 80 0.028 bA a IBA + GA 10 1.1 ± 1.1 2.4 ± 0.9 0.6 ± 0.9b 60 80 30 0.049 ĐC 17 0.6 ± 0.6 50 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột Ngoài ra qua bảng 8 ta cũng nhận thấy khả năng ra chồi ở nồng độ 100 ppm thì không có sự sai khác so với đối chứng, còn ở nồng độ 200 và 300 ppm có sự sai khác so với đối chứng, trong đó ở công thức IBA + GA thì ra rễ là cao nhất (Bảng 8). Vì thế chúng khẳng định rằng khi kết hợp chất kích IBA + GA ở nồng độ 200 ppm là công thức cho hiệu quả ra chồi cao nhất đối với hom già trồng trên cát. 3.9. Ảnh hưởng của các chất KTST đến khả năng ra chồi của hom non Qua bảng 9 ta nhận thấy, đối với hom non thì các chất kích thích sinh trưởng α-NAA, IBA hầu như không có sự sai khác giữa các nồng độ. Nhưng, ta cũng nhận thấy rằng ở
  9. NGHIÊN C U N ƯỞNG C CÁC C ẤT C TH C SIN T ƯỞNG 335 chất kích thích α-NAA + G , cũng như IB + G có có sự sai khác với mức ý nghĩa thống kê giữa các nồng độ (Bảng 9), trong đó ở nồng độ 200 ppm với công thức α-NAA + GA và 200ppm với công thức IBA + GA thì có tỷ lệ ra chồi cao hơn cả. Vì thế chúng tôi nhận thấy ở các chất kích thích sinh trưởng khi kết hợp với GA cho hiệu quả ra chồi tốt nhất. Ngoài ra qua bảng 9 ta cũng nhận thấy khả năng ra chồi ở nồng độ 100 ppm và 300ppm thì không có sự sai khác so với đối chứng, còn ở nồng độ 200 ppm có sự sai khác so với đối chứng, trong đó ở công thức α-NAA + GA thì ra rễ là cao nhất (Bảng 9). Vì thế chúng khẳng định rằng khi kết hợp chất kích α-NAA + GA ở nồng độ 200 ppm là công thức cho hiệu quả ra chồi cao nhất đối với hom non. Bảng 9. Ảnh hưởng của chất KTST khả năng ra chồi và tỷ lệ ra chồi của hom non Chất kích Thời Số lượng chồi trung bình/hom ở các Tỉ lệ ra chồi (%) ở P thích gian ra nồng độ (ppm) các nồng độ (ppm) chồi (Ngày) 100 200 300 100 200 300 aA aB aA α-NAA 14 1.5 ± 2.4 1.3 ± 0.6 1.0 ± 0.6 60 90 80 0.756 IBA 14 0.9 ± 0.7aA 0.3 ± 0.4aC 0.5 ± 0.5aA 70 30 50 0.089 NAA + GA 10 0.8 ± 0.7bA 2.9 ± 0.7aA 0.5 ± 0.5bA 60 70 50 0.041 IBA + GA 10 0.4 ± 0.5bA 1.1 ± 0.9bB 0.3 ± 0.4fA 70 40 30 0.034 ĐC 17 0.4 ± 0.5A 0.4 ± 0.5C 0.4 ± 0.5A 40 Chữ cái in thường biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ở hàng Chữ cái in hoa biểu hiện sự khác nhau của các nhân tố thí nghiệm ờ cột 4. ẾT LUẬN Việc sử lý hom giâm bằng IB và α-NAA đã làm tăng khả năng ra rễ của hom so với đối chứng, IB + G và α-N + G đã làm tăng khả năng ra chồi so với đối chứng. α-NAA có tác dụng kích thích ra rễ có ý nghĩa hơn IB và đối chứng vì cho khả năng ra rễ trung bình lớn hơn cả. Còn sự kết hợp giữa α-NAA + GA cho khả năng ra chồi cao hơn IBA + GA và cao hơn so với đối chứng. Và tuổi hom cũng có khả năng ra rễ khác nhau tùy thuộc vào các auxin ở các nồng độ khác nhau. Từ đó, ta có thể kết luận rằng hom bánh tẻ được xử lí bằng chất kích thích N ở nồng độ 300 ppm đạt hiệu quả ra rễ cao nhất, khi kết hợp chất kích α-NAA + GA ở nồng độ 200 ppm là công thức cho hiệu quả ra chồi cao nhất đối với hom non. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Hoàng Hộ (2000). Cây cỏ Việt Nam, Quyển II, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. [2] Phùng Văn Phê (2012). Nghiên cứu giâm hom cây Xá xị Cinnamomum parthenoxylon (Jack) Meisn, Làm cơ sở cho công tác bảo tồn ở vườn quốc gia Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Tạp chí Khoa học và công nghệ, 50, tr. 645 - 652. [3] Vũ Thị Phượng (2008). Nghiên cứu nhân giống cây thìa canh (Gymnema sylvestre) bằng phương pháp gieo hạt và giâm hom cành tại cơ sở nghiên cứu bảo tồn và phát
  10. 336 T N và cs. triển cây dược liệu Tam thái yên – Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học và công nghệ, số 108, tr. 127 – 133. [4] Bùi Văn Thanh (2013). Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả giâm hom nấm cơm ( adsura coccinea (Lem.) . C. Smith), Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, bài 212, tr. 1236 - 1241. [5] Nguyễn Minh Trí, Nguyễn Đắc Tạo (2012). Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng các chất điều hòa sinh trưởng và môi trường giâm hom trong nhân giống cỏ Vetiver ở Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 73, số 4, tr. 219 - 226. [6] Phan Công Tuấn (2013). Cây thuốc mới chữa đau dạ dày, đại tràng, báo Đà Nẵng điện tử, 28/10/2016. [7] Paydar, M., Wong, Y.L, Moharam, B.A., Wong, W.F., Looi, C.Y. (2013). In vitro Anti-oxidant and Anti - cancer Activity of Methanolic Extract from Sanchezia speciosa Leaves, Faculty of Medicine, University of Malaya, Kuala Lumpur, pp. 1212 - 1215. [8] http://www.mi-aime-a-ou.com/sanchezia_speciosa.php [9] https://vi.wikipedia.org/wiki/Sanchezia_(Acanthaceae) T N TRẦN TH LÀNH NGUYỄN TH KIM YẾN SV lớp Sinh 4, khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm – Đại học uế ĐT: 0989 565 121, Email: hanhhanh284@gmail.com
nguon tai.lieu . vn