Xem mẫu

  1. Chương 4: THỰC TRẠNG AN NINH TÀI CHÍNH VIỆT NAMGIAI ĐOẠN 2000-2018 4.1. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH AN NINH TÀI CHÍNH VĨ MÔ Ở VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ TIÊU 4.1.1. Sức mạnh và hoạt động kinh tế Chỉ tiêu này được đo lường bởi các yếu tố sau: (1) Mức độ giàu có của người dân: Đồ thị 4.1: GDP bình quân đầu người của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực (USD) Nguồn: World Bank (https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP. PCAP.CD/1ff4a498/Popular-Indicators) 54
  2. Để đo lường mức độ giàu có của người dân người ta thường dùng chỉ tiêu Chỉ số GDP (Gross Domestic Product). Theo nghiên cứu của Cheng (2015) và nhiều tác giả khác khi đánh giá “sức mạnh và hoạt động kinh tế” đã sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người thực như là thước đo sự giàu có của người dân. Vì vậy, nhóm tác giả sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân thực (thực tế - đã loại bỏ những ảnh hưởng của thay đổi giá cả) trên đầu người nhằm mục đích so sánh GDP bình quân đầu người theo thời gian và so sánh sự thịnh vượng của Việt Nam với các quốc gia với quy mô dân số khác nhau. Trên cơ sở đó, căn cứ trên dữ liệu công bố của ngân hàng thế giới (World Bank) để so sánh, đánh giá mức độ giàu có của Việt Nam với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Theo dữ liệu công bố của ngân hàng thế giới (World Bank), GDP bình quân thực tính trên đầu người của Việt Nam tăng nhanh kể từ năm 2000 trở lại đây. Cụ thể, năm 2000 GDP thực bình quân của người Việt Nam đạt 390,1 USD/người/năm thì đến năm 2010 đã đạt 1317,9 USD, tăng 3,37 lần so với năm 2010. Năm 2018 GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam đạt 2.566,6 USD, tăng 6,5 lần so với năm 2000 và tăng 1,9 lần so với năm 2010, tăng 1,08 lần so với năm 2017. Bình quân GDP thực đầu người của Việt Nam giai đoạn 2000-2018 đạt 1.824,6 USD/người/năm, GDP bình quân thực đầu người giai đoạn 2010-2018 đạt 1967,1 USD/ người/năm. Nhìn chung, sự phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2000 đến 2018, hơn 45 triệu người đã thoát nghèo, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). GDP đầu người tăng 2,5 lần vào năm 2018. Tuy nhiên, so với các quốc gia trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Indonesia và Malaysia, thì GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam khá thấp. Cụ thể, theo số liệu thống kê của World Bank, GDP thực bình quân đầu người trong năm 2018 của Singapore gấp 25,8 lần Việt Nam, Brunei gấp 12,6 lần, Malaysia gấp 4,5 lần và Thái Lan có GDP thực bình quân đầu người gấp gần 2,8 lần Việt Nam, Indonesia gấp 1,5 lần. GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam chỉ cao hơn so với Lào và Myanmar. Từ năm 2008, GDP thực bình 55
  3. quân đầu người đạt 1.148,4 USD, đến năm 2018 tăng lên 2566 USD. Với mức GDP thực bình quân này, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm nước có GDP thực bình quân đầu người trung bình thấp và chỉ ngang bằng mức GDP thực bình quân đầu người của Malaysia năm 1988, Thái Lan năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010 và Hàn Quốc năm 1982. Trong khu vực ASEAN, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam chỉ hơn Lào, Campuchia, Myanmar. Ngoài ra, các nước ASEAN rất khác nhau về chính trị và thể chế, nền kinh tế phát triển giữa các nước không đồng đều. Như vậy, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực còn có khoảng cách khá xa, tức là mức độ giàu có của người dân Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực còn khá thấp và có khoảng cách khá xa. Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam vẫn còn vấn đề đáng quan tâm đó là hiện trạng bất bình đẳng kinh tế (hay còn gọi là bất bình đẳng thu nhập, khoảng cách giàu nghèo) là chênh lệch giữa các cá nhân, các nhóm trong xã hội hay giữa các quốc gia trong việc phân phối lại tài sản hay thu nhập. Bất bình đẳng thu nhập không những gây ra những hệ lụy xã hội mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế (Berg, Ostry và Zettelmeyer, 2008). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, bất bình đẳng thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển nói chung, gây tổn hại đến sự gắn kết xã hội như ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ y tế - giáo dục nói chung. Riêng đối với những người nghèo, bất bình đẳng còn góp phần làm gia tăng tình trạng tội phạm. Theo John W. (2003), tăng trưởng kinh tế đạt 10% thì người nghèo chỉ được hưởng lợi khoảng ¼ trong số đó. Trong khi đó, người giàu có cơ hội khai thác nhiều hơn để gia tăng phúc lợi cho mình. Điều đó có nghĩa là, khi tăng trưởng kinh tế góp phần vào xóa đói giảm nghèo thì nó lại làm gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Tác giả Võ Hồng Đức (2019) cũng khẳng định rằng bất bình đẳng thu nhập ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế, đồng thời chính sự gia tăng của bất bình đẳng kinh tế đã dẫn đến kinh tế tăng trưởng chậm. Trong giai đoạn 2000-2018, nền kinh tế Việt Nam đã có những cải 56
  4. thiện đáng kể, đời sống của người dân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng lên, người dân được hưởng nhiều dịch vụ với chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên, để xem xét thực trạng bình đẳng trong thu nhập giữa các nhóm dân cứ hay để đo lường bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, có nhiều thước đo khác nhau như hệ số Gini, hệ số giãn cách thu nhập, tiêu chuẩn 40WB… Hệ số giãn cách thu nhập được tính bằng tỷ số giữa thu nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất trên thu nhập của 20% dân số có thu nhập thấp nhất. Hệ số này càng lớn, tình trạng bất bình đẳng càng cao. Tiêu chuẩn 40WB do Ngân hàng Thế giới đề xuất, được tính bằng tỷ lệ thu nhập (chi tiêu) của 40% dân số có mức thu nhập (chi tiêu) thấp nhất trong xã hội trên tổng thu nhập (chi tiêu) của toàn bộ dân cư. Nếu tỷ lệ này trên 17%, ta có bất bình đẳng ở mức thấp, từ 12% đến 17%, ta có bất bình đẳng ở mức vừa, dưới 12% là bất bình đẳng ở mức cao. Sử dụng hệ số Gini cho thấy, mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của cả nước đang có xu hướng tăng lên. So với mức thấp nhất tại năm 2002, sơ bộ năm 2018, mức độ bất bình đẳng đã tăng 0,4 điểm phần trăm, con số chính thức có thể còn cao hơn. Trong cả 2 giai đoạn, có 2 chu kỳ tăng đạt đỉnh vào năm 2008 và 2016. Năm 2008 là năm diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến nền kinh tế của tất cả các quốc gia. Năm 2016 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vô cùng ảm đạm với các biến cố xảy ra như cuộc khủng hoảng người di cư, nước Anh quyết định rời khỏi EU. Hệ số giãn cách thu nhập và tỷ trọng thu nhập 40% nghèo nhất lại cho thấy một khía cạnh hoàn toàn khác. Bất kể khủng hoảng hay biến cố có xảy ra hay không thì cũng không ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng của bất bình đẳng, bất bình đẳng tăng rõ rệt qua các năm và không có biến động đột biến. Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê vào năm 2018, bất bình đẳng đã đạt ở mức cao nhất trong cả giai đoạn. Nhóm giàu nhất có thu nhập gấp 10 lần nhóm nghèo nhất, thay vì 8 lần ở năm 2002. Mặc dù so với tiêu chuẩn 40WB của Ngân hàng Thế giới, chúng ta luôn ở mức trên 17%, cho thấy bất bình đẳng ở mức thấp so với thế giới và có xu hướng giữ ổn định trong cả giai đoạn. Song mức độ bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay là khá cao. 57
  5. Đồ thị 4. 2: Mức độ bất bình đẳng thu nhập khu vực nông thôn và thành thị Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê (Trích theo Nguyễn Thanh Hằng) Các phân tích trên cho thấy, bất bình đẳng thu nhập vẫn đang gia tăng hầu hết trên cả nước và nhóm dân cư nghèo nhất vẫn đang là nhóm chịu tổn thương. Ngoài ra, đối chiếu theo tiêu chí “Mức độ giàu có của người dân” của Chen (2015) thì giai đoạn 2000-2018 Việt Nam đạt mức thứ 2 tức là mức an ninh tài chính thấp. Như vậy, xét theo tiêu chí sự giàu có của người dân thì Việt Nam đạt mức thấp và từ đó mức độ an ninh tài chính cũng thấp. (2) Quy mô kinh tế và mức độ phát triển Đồ thị 4.3: GDP thực và tốc độ tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018 Nguồn: World Bank (https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP. CD/1ff4a498/Popular-Indicators) 58
  6. Quy mô kinh tế được đo lường thông qua chỉ tiêu GDP thực. GDP thực của Việt Nam liên tục gia tăng qua các năm kể từ năm 2000 đến nay. Năm 2000, GDP thực của Việt Nam đạt 31,17 tỷ USD, đến năm 2010 GDP thực của Việt Nam đạt 115,93 tỷ USD. Năm 2018 GDP thực của Việt Nam đạt 245,21 tỷ USD, tăng 2,11 lần so với năm 2010 và tăng 7,86 lần so với năm 2000. Xét về quy mô GDP thực, nền kinh tế Việt Nam xếp vị trí thứ 5 trong khu vực ASEAN, đứng sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines. So với các nước trong khu vực ASEAN, quy mô nền kinh tế của Việt Nam còn có khoảng cách khá lớn. GDP thực của Việt Nam thấp hơn nhiều nước trong khu vực như Indonesia năm 2018 dẫn đầu đạt 1042,17 tỷ USD, cao gấp 4,2 lần Việt Nam; GDP thực của Thái Lan đạt 504,99 tỷ USD, cao gấp 2 lần Việt Nam; Malaysia và Philippines cũng có GDP cao hơn Việt Nam khoảng hơn 1,3 lần. Đồ thị 4.4: GDP thực của Việt Nam và số nước trong khu vực ASEAN năm 2018 Nguồn: World Bank (https://databank.worldbank.org/indicator/NY.GDP.PCAP. CD/1ff4a498/Popular-Indicators) 59
  7. Như vậy, quy mô kinh tế của Việt Nam liên tục gia tăng trong suốt giai đoạn 2000 - 2018. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế lại có nhiều biến động. Bình quân giai đoạn 2000 - 2018 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,2%/năm. Giai đoạn 2005-2010: Tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2005-2010 đạt 7%. Trong những năm từ 2005 đến 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất 7,1%. Đến 2008, 2009 và tiếp tục 2010, tốc độ tăng trưởng chậm lại. Trong những năm này, một trong những lý do ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động tới kinh tế Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Giai đoạn 2011-2015: tăng trưởng GDP bình quân năm của Việt Nam đạt 5,88% và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2000 tới nay (giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng bình quân đạt 7%, giai đoạn 2001-2005 là 7,51%) nhưng trong điều kiện cụ thể với tình hình kinh tế thế giới trì trệ thì đây là mức tăng trưởng thành công của Việt Nam. Kinh tế có dấu hiệu phục hồi vào năm 2013 và có thể tạo đà tăng trưởng cho những năm tiếp theo. Đến năm 2018 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,1%/ năm. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua và được xếp vào nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới và khu vực. Về mức độ phát triển của nền kinh tế: kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, đồng nghĩa với việc Việt Nam tham gia vào một thị trường mở và toàn cầu. Tuy nhiên, vào năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã diễn ra và lan rộng trên toàn thế giới và cả Việt Nam cũng không ngoại lệ khi nền kinh tế bị suy thoái. Kinh tế thế giới vẫn sụt giảm, tăng trưởng chậm; những cải cách kinh tế không mang lại hiệu quả, cụ thể như thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta chậm được hoàn thiện, nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa tạo ra được môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh; nợ công cao, đầu tư toàn xã hội giảm… đã tác động không thuận đến nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm mạnh so với giai đoạn trước, chỉ đạt mức 6,07%/năm, trong khi tăng trưởng trung bình 2 năm 2006-2007 đạt 8,35%. Những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế cùng với những mặt trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao (năm 2010 lạm phát tăng 11,75%, năm 2011 tăng vọt lên 18,13%) ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ 60
  8. mô, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Hệ quả là lãi suất tín dụng tăng cao (24-25%/năm trong năm 2011), điều này tác động nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống tài chính. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính, sự suy giảm kinh tế trong nước còn bắt nguồn từ nguyên nhân là nền kinh tế quá tập trung vào tăng trưởng theo chiều rộng mà ít chú trọng đến chiều sâu, các nền tảng kinh tế và cơ cấu kinh tế không hợp lý, thể chế kinh tế yếu kém, cùng với các chính sách ứng phó với khủng hoảng không hiệu quả, mang tính ngắn hạn và hệ quả là bất ổn kinh tế vĩ mô và theo đó là xuất hiện hàng loạt các dấu hiệu bất ổn về an ninh tài chính (Trần Thọ Đạt, 2015). Kể từ năm 2011 mục tiêu tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã được đưa ra và bắt đầu thực hiện. Đến năm 2013, Chính phủ thực hiện quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế; Tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ doanh nghiệp, nợ xấu của các ngân hàng thương mại đã đạt được những kết quả khả quan, các biến số kinh tế vĩ mô bắt đầu có dấu hiệu dần hồi phục, tăng trưởng kinh tế mực dù có thấp hơn thời kỳ trước khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng dần được cải thiện. Qua đó có thể thấy, đã có dấu hiệu của sự phục hồi kinh tế, đây là tiền đề tạo đà tăng trưởng trong hai năm 2014 và 2015 với tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm 2014 đạt 6% và năm 2015 là 6,5%. Ngoài ra, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên tăng vốn, đóng góp từ lao động vào TFP còn hạn chế trong khi Việt Nam có lợi thế về lao động hơn là lợi thế về vốn. Yếu tố trình độ công nghệ, chất lượng lao động, trình độ quản lý cải thiện chưa đáng kể. Giai đoạn 2011-2015, hiệu quả tăng trưởng kinh tế thấp, khi TFP đóng góp vào tăng trưởng GDP chỉ là 28,94%, vốn đóng góp 51,28% và lao động đóng góp 19,78%. Đến năm 2016, tăng trưởng kinh tế giảm nhẹ xuống 6,2% trong bối cảnh tỷ lệ lạm phát vừa phải và tình hình kinh tế đối ngoại vững chắc. Hoạt động kinh tế ở Việt Nam chững lại trong năm 2016. Nguyên nhân GDP tăng chững lại trong năm qua là do sụt giảm trong các ngành nông nghiệp và khai khoáng, trong khi sản lượng chế tạo chế biến và dịch vụ tăng trưởng tốt. Đến năm 2017, kinh tế Việt Nam cho thấy một dấu hiệu khởi sắc hơn với mức tăng trưởng cả năm 2017 đạt 6,81%. 2017 có thể nói là một năm thành công của kinh tế Việt Nam khi là năm đầu tiên sau nhiều năm hoàn thành và hoàn thành 61
  9. vượt mức cả 13/13 chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Quốc hội đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định cùng với những cải cách thể chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư được Chính phủ chỉ đạo quyết liệt kỳ vọng sẽ phát huy hiệu quả, hỗ trợ tích cực hơn cho hoạt động kinh doanh trong năm 2018. Đặc biệt, việc tổ chức thành công sự kiện APEC cũng như đạt được thỏa thuận Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Năm 2018 kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với mức tăng trưởng GDP đạt 7,1%/năm, chúng ta đã đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, với mức tăng trưởng GDP này Việt Nam thuộc quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008, thuộc nhóm các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới. (3) Triển vọng tăng trưởng kinh tế Chỉ tiêu triển vọng tăng trưởng kinh tế được sử dụng để đánh giá tình trạng sức mạnh tài chính ở giai đoạn hiện tại và khả năng đảm bảo an ninh tài chính trong tương lai. Dựa trên nghiên cứu của Cheng (2015), chỉ tiêu này được cụ thể hóa thông qua chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người. Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người ở Việt Nam tăng trưởng liên tục trong suốt giai đoạn 2000 - 2018 và đạt bình quân 11,3%/năm, được thể hiện qua đồ thị sau: Đồ thị 4.5: Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018 (ĐVT: %) (Nguồn: Tính toán từ dữ liệu của World Bank) 62
  10. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng liên tục qua các năm song tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người ở Việt Nam có sự biến động qua các năm. Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người giai đoạn 2000- 2008 đạt mức bình quân 13,91%/năm. Dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào năm 2008, chỉ tiêu này đã giảm chiều tăng trưởng và đạt mức 8,26%/năm vào năm 2009 và 2010. Sau đó, nhờ những chính sách phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng, thu nhập của người dân tăng lên và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cũng gia tăng và đạt mức bình quân 8,8%/năm vào giai đoạn 2011-2018. Điều này cho thấy mức sống của người dân từng bước được cải thiện và gia tăng, sự giàu có của người dân đang có chiều hướng gia tăng là dấu hiệu tích cực để tăng cường an ninh kinh tế và tài chính quốc gia, từ đó quốc gia có nhiều nguồn lực hơn để đối phó với những bất ổn. Mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến cố như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung năm 2019 được xem là có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu và kinh tế Việt Nam nói chung lẫn tình hình an ninh tài chính nói riêng. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, kinh tế Việt Nam năm 2009 tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng 7%, cùng với nền kinh tế vĩ mô và chất lượng tăng trưởng kinh tế dần cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng cao, các yếu tố căn bản của nền kinh tế được giữ vững, môi trường kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ, lạm phát được kiểm soát do Ngân hàng Nhà nước áp dụng các chính sách tiền tệ khá phù hợp và linh hoạt có thể hỗ trợ tốt cho sự tăng trưởng. Điều này cho thấy triển vọng kinh tế Việt Nam là tích cực trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, Bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, khó dự báo, Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi, cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhất là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đồng thời vai trò của châu Á - Thái Bình Dương và khối ASEAN, Ấn Độ, Trung Quốc ngày càng lớn; Xu hướng đan xen giữa tự do hóa thương mại với bảo hộ mậu dịch tiếp tục kéo dài; vai trò của các thể chế kinh tế quốc tế bị suy yếu. Các hiệp định thương mại sẽ giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại đi liền với việc gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại phi thuế quan. Từ đó, có thể nhận thấy kinh tế Việt Nam có nhiều triển vọng tăng trưởng trong thời gian sắp tới song cũng đối 63
  11. mặt với không ít khó khăn, thách thức khi những yếu kém nội tại của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để. (4) Ổn định kinh tế Chỉ tiêu này được đo lường thông qua mức biến động của GDP bình quân đầu người và tỷ lệ thất nghiệp. Trong đó biến động GDP bình quân đầu người được đo lường bằng độ lệch chuẩn của chỉ tiêu GDP bình quân đầu người 5 năm trước liền kề. Kể từ năm 2000 đến 2007, nền kinh tế khá ổn định nên mức biến động GDP thực bình quân đầu người ở Việt Nam là không đáng kể. Kể từ năm 2007, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng thông qua việc gia nhập WTO và tham gia nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương, điều này làm cho nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các biến động trên thị trường quốc tế, điều đó một phần làm cho kinh tế tăng trưởng chưa vững và chưa đều, hiệu quả và tính bền vững chưa cao. Nhìn chung, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2018 có ảnh hưởng không nhỏ đối với thể chế kinh tế nói chung và phương thức điều hành kinh tế - xã hội nói riêng. Trong những năm đầu sau khi gia nhập WTO, những điểm yếu cố hữu của nền kinh tế - như mất cân đối đầu tư - tiết kiệm, thâm hụt thương mại, khả năng cạnh tranh chậm cải thiện,… bộc lộ rõ nét hơn dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, dù mức tăng trưởng trung bình chỉ đạt 6,04%/năm trong giai đoạn 2007-2018 (thấp hơn so với 7,51%/năm trong 2000-2006), song chất lượng và đà phục hồi tăng trưởng kinh tế ngày một vững chắc hơn. Hơn nữa, trước những thách thức lớn từ những bất ổn kinh tế vĩ mô, Chính Phủ đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách nền kinh tế dựa trên điều chỉnh lại mục tiêu của chính sách tiền tệ và tài khóa. Nhờ đó từ năm 2013 đến nay mức độ ổn định của nền kinh tế đã gia tăng, biến động thu nhập bình quân đầu người giảm, mức sống của dân cư được ổn định, tạo niềm tin cho cho dân chúng về hiệu lực của chính sách. Về tỷ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp là vấn đề kinh tế xã hội phổ biến của các quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp phần nào phần nào phản ánh mức sống 64
  12. và tình hình ổn định kinh tế, xã hội của một quốc gia. Tình trạng thất nghiệp xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn tác động và gây ra nhiều vấn đề bất cập như tệ nạn xã hội, tỷ lệ lạm phát. Theo quy luật Okun (hay quy luật 2,5 - 1): Nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng 1% thì GDP thực tế sẽ giảm 2,5% và ngược lại. Tuy vậy, trong một chừng mực nào đó thất nghiệp cũng có những tác động tích cực. Nhìn chung tỷ lệ thất nghiệp sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế, xã hội và cá nhân người thất nghiệp sẽ mất việc làm, kéo theo thu nhập bình quân đầu người giảm, ảnh hưởng đến mức độ giàu có chung của người dân. Thất nghiệp tăng lên cũng có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái - suy thoái do tổng thu nhập quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng; suy thoái do thiếu vốn đầu tư (vì vốn ngân sách bị thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất việc làm…). Thất nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến (bờ vực) của lạm phát. Kể từ năm 2000 đến nay, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá đã tạo ra nhiều việc làm cho lao động trong tất cả các lĩnh vực. Theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2018, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động (15 tuổi trở lên) chiếm 59% trong tổng dân số và hàng năm Việt Nam đã tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động. Tỷ nghiệp thất nghiệp ở Việt Nam có xu hướng giảm kể từ năm 2000 đến nay và đạt mức trung bình 2% vào năm 2018. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, nền kinh tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu vực công nghiệp và dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị từ mức 4,29% năm 2010 giảm còn 3,1% vào năm 2018. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực của nền kinh tế có sự khác nhau, khu vực thành thị luôn có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn, đạt mức 3,1% vào năm 2018, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn là 1,7% năm 2018. Nguyên nhân tỷ lệ thất nghiệp cao ở khu vực thành thị là do thị trường lao động phát triển sâu rộng đòi hỏi chất lượng lao động cao, trong khi đó không ít ngành nghề đào tạo lại không phù hợp với yêu cầu của thị trường. Cùng đó, lao động không nghề nghiệp có tỷ trọng lớn nên càng ngày càng khó có cơ hội tìm việc làm. 65
  13. Bảng 4.1: Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam và các quốc gia trong khu vực năm 2018 (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%) Quốc gia Trung bình Nam Nữ Việt Nam 2 2,1 2 Brunei Darussalam 8,7 7,7 10,1 Indonesia 4,4 4,5 4,2 Lao PDR 9,4 10,8 7,8 Malaysia 3,3 3,1 3,6 Myanmar 0,9 0,7 1 Philippines 2,3 2,1 2,7 Singapore 4,1 3,8 4,5 Thailand 0,7 0,7 0,7 Cambodia 0,7 0,6 0,9 ASEAN 3,7 3,7 3,7 Thế giới 5,7 5,5 6,2 (Nguồn: ILO) Kinh tế các nước ASEAN đã có sự phục hồi mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tỷ lệ thất nghiệp trong khối ASEAN đã giảm nhẹ còn 3,7% vào năm 2018, thấp hơn so với tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thế giới là 6,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm thanh niên rất cao (chiếm 13,5%). Trong khu vực ASEAN, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp, Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất (2%), tức là lọt vào top 5% của các nước và vùng lãnh thổ. Nói tóm lại, thất nghiệp là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan và gây ra những hậu quả xấu ngăn cản sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải quyết thất nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, giảm bớt thất nghiệp không những tạo điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định xã hội. Một xã hội có nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn xã hội sẽ bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được nâng cao. 66
  14. 4.1.2. Năng lực hành chính và hiệu quả chính sách Để đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả của các chính sách điều hành của Chính phủ trong việc đảm bảo an ninh tài chính, các chỉ tiêu được sử dụng bao gồm tình hình vay nợ của chính phủ, nợ công của quốc gia và tình hình thâm hụt ngân sách, cụ thể như sau: (1) Tình hình vay nợ của Quốc gia và Chính phủ Nội dung này chỉ đề cập đến tình hình vay nợ nước ngoài của Việt Nam, bao gồm nợ nước ngoài của khu vực công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân. Trong đó, nợ nước ngoài của chính phủ là một bộ phận của nợ công. Việc vay nợ nước ngoài nhằm bổ sung nguồn vốn đầu tư cho đầu tư phát triển kinh tế quốc gia, song nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với việc đảm bảo an toàn nợ và an ninh tài chính cho nền kinh tế quốc gia. Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra các tiêu chí để đánh giá mức độ nợ như sau: Bảng 4.2: Các chỉ số dùng để đánh giá mức độ nợ của Ngân hàng thế giới Mức nợ Mức nợ Mức nợ STT Chỉ số trầm bình khó khăn trọng thường 1 Tổng số nợ /GDP > 50% 30-50% < 30% Tổng số nợ/XK hàng 2 > 200% 165-200% < 165% hóa và dịch vụ Trả nợ hàng năm/XK 3 > 30% 18-30% < 18% hàng hóa và dịch vụ 4 Trả nợ hàng năm/GDP > 4% 2-4% < 2% Trả lãi nợ hàng năm/ 5 XK hàng hóa và dịch > 20% 12-20% < 12% vụ Nguồn: World Bank 67
  15. Dựa trên các chỉ số đáng giá về mức độ nợ nêu trên, đối chiếu với Việt Nam ta thấy mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam thuộc mức 2 (mức nợ khó khăn). Giai đoạn 2000 - 2010, mức nợ nước ngoài/GDP bình quân của Việt Nam đạt 35,94%, kể từ năm 2010 trở đi mức nợ nước ngoài của Việt Nam có xu hướng tăng và đạt bình quân 42%/năm giai đoạn 2010-2018, mức tăng nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn này đạt 16,7%/năm. Riêng năm 2017, mức nợ nước ngoài đạt 48,9%/GDP, gần sát với ngưỡng mức nợ trầm trọng và sát với ngưỡng 50% được quốc hội cho phép. Đến năm 2018 mức nợ này đã giảm xuống còn 46%. Về nghĩa vụ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và nghĩa vụ trả nợ của chính phủ so với thu NSNN đều đảm bảo quy định và trong mức ngưỡng cho phép. Tuy nhiên, xét theo quy mô thì nợ nước ngoài của nước ta có xu hướng gia tăng, trong đó chủ yếu nợ nước ngoài của doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng theo hình thức tự vay tự trả (chiếm 48,4%). Điều này sẽ tác động đến khả năng trả nợ ngoài của quốc gia. Bảng 4.3: Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2006-2018 Dư nợ Nghĩa vụ Nghĩa vụ Nợ chính Nợ nước trả nợ của trả nợ công/ Năm phủ so ngoài/ Chính phủ nước ngoài/ GDP với GDP GDP (%) so với thu kim ngạch (%) NSNN (%) XNK (%) (%) 2006 26,7 31,4 15,1 3,7 42,9 2007 28,2 32.5 16,4 3,6 45,6 2008 25,1 29,8 16,8 3,5 43,9 2009 29,3 39 17,2 5,1 49 2010 44,6 42,2 17,6 3,4 56,3 2011 43,2 41,5 15,6 3,5 54,9 68
  16. Dư nợ Nghĩa vụ Nghĩa vụ Nợ chính Nợ nước trả nợ của trả nợ công/ Năm phủ so ngoài/ Chính phủ nước ngoài/ GDP với GDP GDP (%) so với thu kim ngạch (%) NSNN (%) XNK (%) (%) 2012 39,4 37,4 14,6 3,5 50,8 2013 42,6 37,3 12,6 4,3 54,5 2014 46,4 38,3 13,8 4,1 58 2015 49,2 42 14,9 4 61 2016 52,7 44,8 20,5 3,9 63,7 2017 51,7 48,9 18,3 6,1 61,4 2018 50 46 17,1 7 58,4 Nguồn: Niên giám thống kê tài chính 2018, Bộ Tài chính Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí nợ công/GDP được sử dụng phổ biến để đánh giá tình hình nợ công của một quốc gia, đánh giá mức độ an toàn của nợ công. Theo tác giả Trần Thọ Đạt (2015) để đảm bảo an toàn của nợ công, các quốc gia thường sử dụng các chỉ tiêu sau làm giới hạn vay và trả nợ: (1) Giới hạn nợ công < 50%-60% GDP < 150% - 200% kim ngạch xuất khẩu < 300% giá trị tổng thu NSNN (2) Giá trị trả lãi phục vụ nợ 1 nhằm đảm bảo quốc gia không rơi 69
  17. vào tình trạng “bẫy nợ” và giảm được mức gánh nặng nợ cho ngân sách. Tuy nhiên, trên thực tế các nền kinh tế có các đặc điểm khác nhau nên không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế mà mức độ an toàn của nợ công phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế vĩ mô (mạnh hay yếu). Chính vì vậy, ngoài chỉ tiêu nợ công/GDP thì để xác định đúng mức an toàn của nợ công cần phải xem xét nợ công một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế như tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư an toàn xã hội. Ở Việt Nam theo Luật quản lý nợ công (khoản 2, điều 21) số 20/2017/QH14 ngày 23 tháng 11 năm 2017 và Quyết định số 958/ QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2012 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đã quy định chi tiết các chỉ tiêu để đánh giá an toàn nợ công bao gồm: (1) Nợ công < 65% GDP (2) Dư nợ chính phủ < 55% GDP (3) Nợ nước ngoài của quốc gia < 50% GDP (4) Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể cho vay lại)/ Tổng thu NSNN < 25% GDP (5) Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia/Giá trị xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ < 25% GDP Theo Luật Quản lý nợ công (khoản 2, điều 1) của Việt Nam năm 1999, nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo số liệu công bố của Bộ Tài chính, cơ cấu nợ công của Chính phủ tính đến ngày 31/12/2018 như sau: nợ chính phủ chiếm 80%, nợ được Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1%. Về tình hình nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2018 theo số liệu công bố từ Niên giám thống kê của Bộ Tài chính cho thấy tỷ lệ nợ công/ GDP có xu hướng tăng qua các năm và duy trì ít nhất từ mức 30%/GDP trở lên. Cụ thể, năm 2000 nợ công của Việt Nam đạt 11,5 tỷ USD tương đương 36% GDP, đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 56,6% GDP. Đến năm 2018, mức nợ công của Việt Nam đạt 149,58 tỷ USD, 70
  18. tương đương mức 58,4%/GDP và Việt Nam có nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 2000 đến năm 2010 quy mô nợ công đã tăng gấp 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ tăng 15% mỗi năm. Từ năm 2010 đến 2018, quy mô nợ công đã tăng 1,79 lần với tốc độ tăng trưởng nợ công đạt 12,2%/năm. Mặc dù tỷ lệ nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho phép ( < 50%-60% GDP) nhưng đây là vấn đề đáng lo ngại vì Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP tăng nhanh nhất (tăng trên 10%/năm) cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao. Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Tài chính, mức nợ của Chính phủ cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2000-2018, từ mức 23,1%/GDP năm 2000 tăng lên mức 52,1%/GDP ở năm 2018, trong khi mức trần là 55%/GDP. Như vậy, Chính phủ đã không giữ được mục tiêu duy trì nợ Chính phủ ở mức dưới 50% GDP và nguồn gốc chủ yếu làm phát sinh nợ Chính phủ chính là do bội chi ngân sách. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc trả nợ nước ngoài của chính phủ và ảnh hưởng đến tình hình an ninh tài chính nói chung. Ngoài ra, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cho thấy Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có mức nợ công trung bình trong khu vực và thế giới. Tổng mức nợ công của Việt Nam đạt 149,58 tỷ USD, tăng 12,7% so với năm trước. Mức nợ công bình quân đầu người của Việt Nam là 798,92 USD. Tuy nhiên, khi xét theo mức tương đối thì tỷ nợ nợ công/GDP của Việt Nam khá cao, xếp vị trí thứ 2 sau Singapore. Tuy nhiên, để đánh giá mức độ an toàn nợ công của một quốc gia không chỉ dựa vào chỉ tiêu nợ công/GDP mà còn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế vĩ mô khác như tốc độ tăng GDP, lạm phát, lãi suất, mức thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia… Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam không nằm trong nhóm các nước có mức gánh nặng về nợ công cao nhưng hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công vẫn chưa thực sự hiệu quả. Để việc quản lý và sử dụng hiệu quả nợ công thì chính phủ cần có chiến lược kiểm soát đầu tư trong khu vực công, giảm thâm hụt ngân sách để có thế kiểm soát được nợ vay nước ngoài. Bên cạnh đó, quản lý nợ công phải gắn chặt với quản lý kinh tế vĩ mô, quản lý được các yếu tố kinh tế vĩ mô như lãi suất và tỷ giá, lạm phát, lãi suất, thâm hụt ngân sách, mức thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia nhằm giảm thiểu rủi ro về nợ công. 71
  19. Đồ thị 4.6: Nợ công/GDP của Việt Nam và một số quốc gia khu vực Đông Nam Á năm 2018 Nguồn:https://www.imf.org/external/datamapper/CG_DEBT_GDP@ GDD/PHL/VNM (2) Thâm hụt ngân sách Đồ thị 4.7: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách ở Việt Nam giai đoạn 2000-2018 Nguồn: Niên giám thống kê tài chính - Bộ Tài chính 72
  20. Đây cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả điều hành chính sách tài khóa. Theo Grib (2015) khi đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tài khóa cần xem xét mức thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách để cho thấy mức độ tự hoạt động trong khả năng của nền kinh tế và sự thận trọng của các nhà điều hành chính sách. Tác giả cũng đưa ra mức thâm hụt ngân sách < 15% tổng thu ngân sách. Nếu vượt qua mức này thì nguồn thu ngân sách là không bền vững và quốc gia có thể lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính, điều này làm cho nền kinh tế dễ dẫn đến mất ổn định. Trong những năm gần đây, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã và đang theo đuổi những chính sách thâm hụt ngân sách có định hướng. mặc dù thu NSNN liên tục tăng, nhưng chi luôn vượt thu, điều này dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và có mức độ ngày càng gia tăng. Thâm hụt ngân sách (theo cách tính của Việt Nam) đã tăng từ mức trung bình là 4,9% GDP giai đoạn 2000 - 2005 lên 5,53% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Giai đoạn 2011 - 2013 tuy có giảm so với giai đoạn trước, song vẫn ở mức cao (trung bình 4,85% GDP), giai đoạn 2014-2018 mức thâm hụt bình quân là 4,82% GDP. Xét theo tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách nhà nước thì phần lớn các năm chỉ tiêu này của Việt Nam lớn hơn 15%. Cụ thể, năm 2000 tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức 15% và đạt 21,7%, đặc biệt giai đoạn 2012-2016 tỷ lệ này khá cao và đạt mức 23,3% vào năm 2014. Kể từ năm 2017, mức thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách nhà nước đã giảm xuống đáng kể và đạt mức 13,44% vào năm 2018. Với mức thâm hụt ngân sách lớn sẽ gây khó khăn cho việc đảm bảo cân đối thu chi và tạo ra gánh nặng nợ cho chính phủ. Với mức thâm hụt ngân sách cao sẽ dẫn đến tình trạng nguồn thu ngân sách nhà nước không bền vững và quốc gia có thể lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính khiến nền kinh tế mất ổn định. Đây là điều cảnh báo đến an ninh ngân sách nói riêng và an ninh tài chính nói chung. (3) Lạm phát và ổn định giá tiền tệ Đây cũng là chỉ tiêu đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả của chính sách. Theo tác giả Trần Thọ Đạt (2015) thì tỷ lệ lạm phát của nền 73
nguon tai.lieu . vn