Xem mẫu

  1. 2
  2. LỜI MỞ ĐẦU An ninh tài chính đang ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế - tài chính đang diễn ra nhanh và mạnh như hiện nay. Đảm bảo an ninh tài chính là việc đảm bảo hoạt động của hệ thống tài chính được tiến hành một cách ổn định, an toàn, vững mạnh. Đối với Việt Nam, một nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN, thì việc đảm bảo an ninh tài chính càng có ý nghĩa quan trọng, là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế với tốc độ cao và ổn định (Vũ Đình Anh, 2017). Thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển nhanh chóng và sôi động, song cũng đặt ra những thách thức lớn trong việc đảm bảo an ninh tài chính doanh nghiệp và quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì những bất ổn của thị trường tài chính thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp việc điều hành tỷ giá, lãi suất, nợ quốc gia, đến dòng vốn vào/ra cũng như các những rủi ro của các định chế tài chính Việt Nam trên thị trường tài chính [Nguyễn Thị Mùi, 2015]. Nhiều quốc gia trên thế giới đã chú trọng hơn đến việc thiết kế hệ thống an ninh tài chính. Trong đó, một số yêu cầu đã được đặt ra gồm: (i) Thể chế tài chính lành mạnh có cơ chế phối hợp liên ngành, tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho việc trao đổi thông tin; (ii) Trao quyền can thiệp sớm vào các ngân hàng có vấn đề để ngăn chặn đổ vỡ; (iii) Trao thêm quyền hạn để xử lý, giải quyết dứt điểm các vấn đề có liên quan; (iv) Thiết kế kế hoạch đảm bảo tiền gửi tốt - nơi trú ẩn cuối cùng; (v) Có các chương trình hỗ trợ của chính phủ. Với sự khác nhau về thể chế và đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia dẫn đến việc điều hành chính sách tài chính cũng khác nhau. Sau hơn 30 năm cải cách nền kinh tế, hệ thống tài chính tiền tệ của Việt Nam đã hình thành khá đầy đủ các cấu phần cần thiết, trong đó có các định chế tài chính, công cụ tài chính và mô hình giám sát. Đây là kết quả đáng ghi nhận của thị trường tài chính nói riêng và phát triển nền kinh tế thị trường nói chung. Tuy nhiên, hệ thống tài chính hiện nay ở nước ta vẫn còn tồn tại một số hạn chế như (i) Thị trường tài chính chưa thiết lập được cơ chế vận hành đầy đủ và hiệu 3
  3. quả; (ii) Giám sát hệ thống tài chính ở Việt Nam còn nhiều hạn chế tồn tại; (iii) Khả năng ứng phó với các cú sốc của thị trường và điều tiết nguồn vốn từ bên ngoài vào nền kinh tế còn thấp; (iv) những rủi ro đến ổn định hệ thống tài chính còn tiềm ẩn. Những vấn đề này đe dọa đến tình hình an ninh tài chính của quốc gia và mặc dù Việt Nam đã và đang thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần nghị quyết số 40/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 một cách nhất quán. Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam có ảnh hưởng nhất định đến đến tình hình an ninh tài chính và tăng trưởng kinh tế trên cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực và điều đó làm cho công tác đảm bảo an ninh tài chính càng trở nên khó khăn hơn. Thông qua việc giá tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện này mà cụ thể phân tích tình hình an ninh tài chính vĩ mô dựa trên các chỉ tiêu đánh giá cụ thể cho giai đoạn 2000 - 2018. Điều này giúp cho cơ quan liên quan có cái nhìn đúng về tình hình an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và có biện pháp ứng phó góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc nội dung An ninh tài chính Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018 và rất mong nhận được những đóng góp ý kiến của Quý độc giả. Mọi trao đổi vui lòng liên hệ: huongltm@hcmute.edu.vn; vangdq@hcmute.edu.vn. Chủ biên TS. Lê Thị Mai Hương TS. Đàng Quang Vắng 4
  4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................ 3 MỤC LỤC................................................................................................. 5 Chương 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH VÀ MỘT SỐ NGHIÊN CỨU.................................................................. 7 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN......................................... 7 1.1.1. Khái niệm an ninh tài chính..................................................... 7 1.1.2. Khái niệm đảm bảo an ninh tài chính....................................... 8 1.2. VAI TRÒ CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI................................................................ 8 1.3. THÁCH THỨC CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0......................................................................................... 10 1.4. ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ YÊU CẦU AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ ĐỊNH HƯỚNG THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...................................................................................... 11 1.4.1. Đặc trưng của nền tài chính Việt Nam................................... 11 1.4.2. Yêu cầu an ninh tài chính đối với nền kinh tế định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam........................................... 14 1.5. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN................. 20 1.5.1. Các nghiên cứu ngoài nước.................................................... 20 1.5.2. Các nghiên cứu trong nước.................................................... 23 1.6. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH AN NINH TÀI CHÍNH VĨ MÔ CỦA MỘT QUỐC GIA......................................... 24 Chương 2: BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH............................................................................................ 26 2.1. KINH NGHIỆM ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH CỦA MỘT QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI............................................... 26 2.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH CHO VIỆT NAM.............................................................. 39 5
  5. Chương 3: MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH PHỔ BIẾN TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM................................................... 41 3.1. MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH PHỔ BIẾN TRÊN THẾ GIỚI......................................................................................... 41 3.1.1. Mô hình giám sát thể chế....................................................... 41 3.1.2. Mô hình giám sát chức năng.................................................. 43 3.1.3. Mô hình giám sát lưỡng đỉnh................................................. 46 3.1.4. Mô hình giám sát hợp nhất..................................................... 48 3.2. MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM....................... 51 Chương 4: THỰC TRẠNG AN NINH TÀI CHÍNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2018....................................................................... 54 4.1. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH AN NINH TÀI CHÍNH VĨ MÔ Ở VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ TIÊU.................................................. 54 4.1.1. Sức mạnh và hoạt động kinh tế.............................................. 54 4.1.2. Năng lực hành chính và hiệu quả chính sách......................... 67 4.1.3. Cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng đến bên ngoài.......... 75 4.1.4. Hoạt động phát triển tài chính................................................ 80 4.2. MÔ HÌNH GIÁM SÁT TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ................................................................................ 84 4.3. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH....................... 91 4.3.1. Thuận lợi................................................................................ 91 4.3.2. Khó khăn................................................................................ 92 Chương 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM........................................................................... 95 5.1. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG AN NINH TÀI CHÍNH........................................................................... 95 5.2. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM......... 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 106 6
  6. Chương 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH VÀ MỘT SỐ NGHIÊN CỨU 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN 1.1.1. Khái niệm an ninh tài chính Theo Koval (2013), an ninh tài chính là một thành phần của an ninh kinh tế và bao hàm các mối quan hệ tài chính của các thực thể kinh tế (hộ gia đình, công ty, Nhà nước, vùng, khu vực) và phản ánh sự vắng mặt của các mối đe dọa thực sự (khả năng chống lại các mối đe dọa tiềm ẩn) trong quá trình phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước ở các mức độ khác nhau: vi mô, trung gian và vĩ mô. Pochenchuk (2014) cho rằng về bản chất, an ninh tài chính không chỉ bao gồm ổn định tài chính bởi vì khái niệm này chưa bao hàm tình trạng tài chính công của chính phủ. Tác giả kết luận khi xem xét an ninh tài chính của một quốc gia cần phải xét đến ổn định tài chính, ổn định tiền tệ và tính bền vững của nền tài chính công. Còn theo Trần Thọ Đạt (2015), an ninh tài chính trong bài viết được hiểu là trạng thái ổn định tài chính và khả năng nhận diện/kiểm soát hữu hiệu các cú sốc. Đây là trạng thái mà hệ thống tài chính có thể thực hiện được các chức năng của mình một cách có hiệu quả, an toàn và bền vững. Trong trường hợp có những cú sốc thì hệ thống tài chính vẫn có khả năng hấp thụ, phản ứng, và phục hồi để vẫn có thể thực hiện chức năng của mình mà không bị gián đoạn. Vũ Đình Anh (2017) cho an ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn định, an toàn và vững mạnh. Như vậy an ninh tài chính được hiểu là tình trạng nền kinh tế nói chung ổn định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng. 7
  7. 1.1.2. Khái niệm đảm bảo an ninh tài chính Theo Lê Thị Thùy Vân (2017), đảm bảo an ninh tài chính của thị trường tài chính được hiểu là việc duy trì được sự ổn định và lành mạnh tài chính trong quá trình vận hành của thị trường và hoạt động của các định chế tài chính, trên cơ sở đó, giảm thiểu và hạn chế được rủi ro trên thị trường và hệ thống tài chính. Vũ Đình Anh (2017) cho rằng đảm bảo an ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và của các ngân hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của chúng luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không lâm vào khủng hoảng. Như vậy, đảm bảo an ninh tài chính là việc sử dụng các biện pháp giúp cho hệ thống tài chính luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không rơi vào khủng hoảng. 1.2. VAI TRÒ CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Hệ thống tài chính được ổn định, an toàn và vững mạnh sẽ có những đóng góp cụ thể cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung như sau: An ninh tài chính có vai trò quan trọng trong việc ổn định giá cả: đây là mục tiêu chính của ngân hàng trung ương. Ổn định giá cả giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội. An ninh tài chính có vai trò quan trọng trong việc ổn định tài chính: Ổn định tài chính tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho cả nhà đầu tư và người gửi tiền, tăng hiệu quả của hoạt động trung gian tài chính, tăng các chức năng của các thị trường tài chính và cải thiện phân phối nguồn lực để phát triển hệ thống tài chính lành mạnh và minh bạch, giảm đi các cú sốc và rủi ro hệ thống. Một hệ thống tài chính ổn định là hệ thống hoạt 8
  8. động lành mạnh, tin cậy và hiệu quả, ít biến động và có khả năng hấp thụ các cú sốc, góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững vì sự ổn định đó tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho cả nhà đầu tư và người gửi tiền, tăng hiệu quả của hoạt động trung gian tài chính, tăng các chức năng của các thị trường tài chính và cải thiện phân phối nguồn lực để phát triển hệ thống tài chính lành mạnh và minh bạch, giảm đi các cú sốc và rủi ro hệ thống. Ngoài ra, ổn định tài chính đóng vai trò quan trọng bởi nó phản ánh một hệ thống tài chính lành mạnh, từ đó tạo niềm tin vào hệ thống tài chính và giúp ngăn ngừa các hiện tượng hỗn loạn của thị trường (tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản hay vỡ nợ của các ngân hàng và các định chế tài chính khác), qua đó giảm thiểu những tác động tiêu cực đến an toàn vĩ mô của nền kinh tế. An ninh tài chính góp phần lành mạnh hóa các định chế tài chính:điều này được thể hiện thông qua hoạt động lành mạnh của 3 thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm đều có mức tăng trưởng khá và lành mạnh hơn. Lành mạnh các thị trường tài chính góp phần (1) Giảm thiểu chi phí các giao dịch thông qua các định chế tài chính, một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính, đã giúp những người tiết kiệm và những người đầu tư giảm các chi phí giao dịch như: chi phí tìm kiếm, chi phí thực hiện giao dịch, chi phí do quy mô, chi phí hiểu biết; (2) Giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư, điều này được thể hiện rõ qua các loại hình định chế tài chính rất đa dạng. Các sản phẩm dịch vụ mà các định chế tài chính cung ứng cũng rất phong phú và đa dạng. Chính điều đó giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư nhờ đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngoài ra, các định chế tài chính còn giúp giảm thiểu rủi ro do thiếu hiểu biết của các nhà đầu tư nhờ tính chuyên nghiệp cao của các định chế tài chính; (3) Tạo lập cơ chế thanh toán: Một số định chế tài chính đảm nhiệm vai trò cung cấp những phương thức và phương tiện thanh toán, điển hình như là ngân hàng thương mại. Sự phát triển của các phương thức thanh toán, đặc biệt là thanh toán không dùng tiền mặt là vô cùng quan trọng, giúp cho thị trường vận hành nhanh chóng và hiệu quả hơn An ninh tài chính góp phần đảm bảo sự vận hành thông suốt của thị trường tài chính: Thị trường tài chính lành mạnh sẽ góp phần quan trọng 9
  9. đối với tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ thông qua việc luân chuyển vốn thông suốt của khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực phân bổ vốn hiệu quả vào các lĩnh vực, ngành nghề ưu tiên, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, hỗ trợ khu vực tư nhân - động lực chính của tăng trưởng. Góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững: khi hệ thống tài chính ổn định, đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường bảo hiểm sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc huy động tiết kiệm và phân bổ các nguồn vốn. Hệ thống tài chính phát triển lành mạnh là nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững, góp phần thực hiện tốt các chiến lược, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, tăng năng suất, hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế, sẽ góp phần hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững . 1.3. THÁCH THỨC CỦA AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI TRƯỚC CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHỆ 4.0 Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 dự kiến sẽ đem lại nhiều lợi ích làm thay đổi đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại toàn cầu thông qua việc sử dụng công nghệ để dần thay thế con người. Đây là công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại sẽ chuyển đổi toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị của các quốc gia trong khu vực và thế giới. Đối với ngành ngân hàng cũng không loại trừ, sự phát triển của cách mạng công nghệ 4.0 sẽ tạo điều kiện cho ngành phát triển mạnh trong tương lai thông qua sử dụng công nghệ tài chính (Fintech) thông qua việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính ngày một đa dạng, hiện đại và linh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng đa dạng và hiện đại của các doanh nghiệp và của toàn xã hội. Từ đó, góp phần tăng cường hội nhập tài chính giữa các quốc gia trong khu vực và thế giới, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế vĩ mô của các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 được kỳ vọng sẽ đem lại nhiều cơ hội và lợi ích đối với sự phát triển của hệ thống tài chính quốc gia, khu vực và thế giới, song hệ thống tài chính của khu vực và thế giới sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức, cụ thể là tính ổn định hay an ninh 10
  10. của toàn hệ thống tài chính. An ninh của hệ thống tài chính toàn thế giới đang đứng trước nhiều thách thức trước cuộc cách mạng công nghệ 4.0 mà cụ thể là cuộc cách mạng công nghệ tài chính đã và đang diễn ra như hiện nay. Thách thức của an ninh tài chính ngày càng to lớn đối với khu vực và toàn cầu. Bởi lẽ (i) Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì những bất ổn của thị trường tài chính thế giới như khủng hoảng tài chính, bất ổn giá cả, bất ổn tỷ giá đều ảnh hưởng đến việc điều hành của hệ thống tài chính toàn cầu như việc điều hành tỷ giá, lãi suất, nợ quốc gia, quản lý dòng vốn vào, dòng vốn ra, quản lý nợ… đều gây tác động tiêu cực và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với tình hình an ninh tài chính; (ii) Khi công nghệ tài chính phát triển mạnh thì an ninh dữ liệu là vấn đề được quan tâm nhất hiện nay. Điều này được thể hiện thông qua việc các công ty Fintech và các tổ chức tài chính chia sẻ dữ liệu và thông tin, điều này sẽ tạo rủi ro về tính bảo mật về quyền riêng tư và sở hữu dữ liệu của khách hàng. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của các quốc gia và khu vực chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển nhanh của công nghệ tài chính, nhất là công nghệ bảo mật thông tin và dữ liệu; (iii) Khi cách mạng công nghệ phát triển, công nghệ tài chính phát triển sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm mới, giải pháp tài chính công nghệ mới. Điều này sẽ tạo nên sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các công ty Fintech và các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính; (iv) Các quốc gia và khu vực chưa có hệ thống pháp luật đầy đủ và toàn diện để đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày càng nhanh của các sản phẩm, dịch vụ và công nghệ tài chính. Việc giám sát hệ thống tài chính chưa được chuẩn bị một cách kịp thời, đầy đủ trong bối cảnh công nghệ tài chính phát triển mạnh. 1.4. ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ YÊU CẦU AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ ĐỊNH HƯỚNG THỊ TRƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.4.1. Đặc trưng của nền tài chính Việt Nam Trước năm 1986 hệ thống tài chính Việt Nam mà đặc trưng chủ yếu là hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng một cấp thực hiện cả chức năng của NHTW và NHTM. Hệ thống NHNN Việt Nam thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, hoạt động như một công cụ ngân 11
  11. sách, chưa thực việc hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc của thị trường. Kể từ khi Việt Nam thực hiện đổi mới nền kinh tế vào năm 1986 từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, hệ thống tài chính Việt Nam cũng được đặt ra yêu cầu cải cách và có sự đổi mới tương thích cùng với quá trình cải cách của nền kinh tế. Cụ thể là hệ thống tài chính Việt Nam thực hiện việc tái cơ cấu mà trọng tâm là hệ thống ngân hàng. Ngân hàng hai cấp đã được hình thành và có sự tách bạch rõ chức năng của NHTW và NHTM. Kể từ đây, các tổ chức tín dụng có điều kiện và phát triển nhanh về số lượng. Theo số liệu công bố của ngân hàng nhà nước tính đến 30/6/2019 cả nước có 49 ngân hàng, 26 tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 4 tổ chức tài chính vi mô, 1183 quỹ tín dụng nhân dân, 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và 50 văn phòng đại diện các tổ chức tín dụng nước ngoài. Trong đó, các điểm giao dịch ngân hàng vẫn được mở rộng trong những năm vừa qua nhằm đáp ứng yêu cầu giao dịch của khách hàng. Các tổ chức tín dụng Việt Nam chi phối 90,7% thị phần tín dụng của toàn hệ thống và tài sản có chiếm 88,92% toàn hệ thống. Với nhiều loại hình tổ chức tín dụng với nhiều quy mô đã đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu, nhiều ngành nghề và nhiều đối tượng phục vụ khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và kém hiệu quả, mức độ an toàn thấp. Điều này có thể kể đến như việc mở rộng phạm vi hoạt động vượt quá khả năng tài chính và khả năng quản lý của các ngân hàng, tốc độ tăng trưởng nhanh, thiếu sự an toàn và bền vững, cơ cấu nguồn vốn không ổn định. Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam còn được đặc trưng bởi sự phát triển của thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Đối với thị trường chứng khoán nếu không tính đến giai đoạn chuẩn bị thì sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu kể từ khi chính thức khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2000, góp phần vào sự phát triển chung của hệ thống tài chính Việt Nam trong việc huy động vốn trung và dài hạn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và là kênh đầu tư tài chính cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện việc điều hành chính sách tài chính 12
  12. quốc gia thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể thực hiện việc cân đối ngân sách nhà nước bằng cách phát hành các loại hình trái phiếu chính phủ. Nhìn chung, sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam dưới sự quản lý và điều phối trực tiếp của Nhà nước thông qua việc hình thành Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trực tiếp quản lý và điều hành thị trường chứng khoán Việt Nam, trung tâm giao dịch chứng khoán thuộc sở hữu của Nhà nước. Điều này phản ánh nét đặc trưng và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đối với thị trường bảo hiểm: trước năm 1986, thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất doanh nghiệp bảo hiểm Bảo Việt thuộc sở hữu Nhà nước. Đến năm 1993 Chính phủ ban hành nghị định số 100/NĐ-CP ngày 18/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm. Việc ra đời của nghị định này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành và phát triển thị trường bảo hiểm ở Việt Nam theo hướng đa dạng với nhiều chủ thể tham gia và phạm vi hoạt động được mở rộng, thực hiện cho tất cả 7 nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, 11 nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ và nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe. Đến hết năm 2018, tổng số sản phẩm bảo hiểm trên thị trường lên tới gần 1.300 sản phẩm; trong đó có trên 850 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, 450 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức, cá nhân, góp phần cho chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn còn những tồn tại, hạn chế và cần được khắc phục để đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế. Những hạn chế có thể kể đến là (i) Quy mô của thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhỏ so với thị trường bảo hiểm các nước và chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Cụ thể doanh thu phí bảo hiểm trên GDP của thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2018 đạt 2,9% trong khi đó doanh thu phí bảo hiểm trung bình của khu vực ASEAN là 3,55%, của châu Á là 5,37% và của thể giới là 6,3%; (ii) Sự cạnh tranh kém lành mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Trong thời gian vừa qua, số lượng và các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm gia tăng khá nhanh, dẫn đến tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, làm gia tăng nguy cơ đối với thị trường bảo hiểm và toàn hệ thống tài chính nói chung; (iii) Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm 13
  13. chưa được hoàn thiện đầy đủ. Luật kinh doanh bảo hiểm được ban hành năm 2000 chưa đáp ứng đầy đủ những thay đổi của thị trường bảo hiểm hiện nay, một số quy định về kinh doanh bảo hiểm chưa đồng bộ; (iv) Cơ chế quản lý và giám sát hoạt động bảo hiểm chưa theo kịp và chưa đáp ứng được xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm hiện nay. Nhìn chung, hệ thống tài chính Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có sự phát triển nhanh và có nhiều kết quả đáng ghi nhận trên cả ba lĩnh vực chính: thị trường tiền tệ cụ thể là sự phát triển của hệ thống ngân, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Nhà nước thể hiện vai trò quản lý chủ đạo, là cơ quan chủ quản của hệ thống tài chính nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó hệ thống tài chính nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, đó là sự bất hợp lý về cấu trúc và quy mô thể hiện thông qua việc hình thành quá nhiều các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm có quy mô nhỏ, doanh thu thấp, việc phân bổ các định chế tài chính không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các khu vực đô thị dẫn đến việc mất cân đối nguồn vốn thu hút và phân bổ giữa các khu vực, các địa phương. Ngoài ra cơ sở hạ tầng tài chính của hệ thống tài chính Việt Nam còn hạn hẹp, chưa hỗ trợ hiệu quả cho sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính; Môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống tài chính phát triển. 1.4.2. Yêu cầu an ninh tài chính đối với nền kinh tế định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam An ninh tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam được thể hiện trên ba lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế: thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm và thị trường tiền tệ. Đối với thị trường chứng khoán Theo số liệu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đến hết năm 2018, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam hoạt động bao gồm 697 doanh nghiệp niêm yết; 374 công ty giao dịch trên UPCoM, giá trị vốn hóa đạt 3,87 triệu tỷ đồng, tương đương 42,3% GDP của năm. Riêng thị trường trái phiếu Việt Nam, dư nợ trái phiếu đạt 24% GDP. Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là có mức tăng trưởng dẫn đầu các nền 14
  14. kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Nam Á và ngày càng khẳng định là kênh huy động vốn quan trọng của Chính phủ. Các tổ chức tham gia thị trường tăng nhanh về số lượng, đặc biệt là các công ty chứng khoán, chất lượng, tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, khung pháp lý cho TTCK vẫn chưa bao quát mọi hoạt động của thị trường, một số cơ chế chính sách chưa theo kịp diễn biến của các giao dịch, cung cầu về hàng hóa luôn mất cân đối, ảnh hưởng đến tính thanh khoản của chứng khoán. Mặt khác, TTCK là thị trường bậc cao, hoạt động theo nguyên tắc thị trường, nhưng không ít các hoạt động có liên quan đến giao dịch, phát hành chứng khoán, lãi suất, cơ chế xác định giá, cơ chế đấu thầu... lại chưa tuân theo nguyên tắc thị trường. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của TTCK, mà còn tạo ra một số rủi ro tiềm ẩn đáng lo ngại. Ngoài ra, sự phát triển của loại hình trái phiếu doanh nghiệp chưa lớn mạnh, chưa cung ứng đủ nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Do đó, nguồn vốn này chủ yếu vẫn còn do các NHTM cung ứng (chiếm 86%).Trong khi đó, trên 80% vốn huy động của các NHTM là không kỳ hạn và ngắn hạn. Các NHTM sử dụng sử dụng 60% vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (đến hết ngày 31/12/2016, sau đó điều chỉnh giảm theo lộ trình) và tăng tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ so với nguồn vốn ngắn hạn của chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ 15% lên 35%, của NHTM nhà nước từ 15% lên 25%. Hoạt động này không chỉ gây rủi ro lớn cho nền kinh tế và cho hệ thống tài chính nói chung mà còn rủi ro cho cả TTCK và các NHTM. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong việc quản lý, định hướng, giám sát thị trường chứng khoán chưa hiệu quả.Thị trường tài chính bị phân khúc, thiếu sự minh bạch trong quản trị điều hành và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý, giám sát ở tầm vĩ mô, cũng như các thông tin thị trường chưa được truyền thông một cách chuẩn xác, kịp thời, đầy đủ đến các nhà đầu tư, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn... Đối với thị trường bảo hiểm Mức độ thâm nhập của bảo hiểm hiện nay ở nước ta mới chỉ đạt 2,44% so với GDP, thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và mức trung bình thế giới (6,3%). Đặc biệt, 15
  15. một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe... tiềm năng của thị trường vẫn chưa được khai thác hết [Phùng Ngọc Khánh, 2018]. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao nhưng quy mô của thị trường bảo hiểm vẫn còn nhỏ. Nguyên nhân có thể kể đến đó là hệ thống pháp luật kinh doanh bảo hiểm vẫn còn chưa phù hợp với pháp luật liên quan như: Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng…; Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Phòng cháy, chữa cháy chưa tạo điều kiện cho các DNBH tiếp cận thông tin nhằm kiểm soát tình trạng trục lợi bảo hiểm. Ngoài ra, một số chính sách về quản lý tài chính, thuế, đầu tư vẫn chưa thực sự khuyến khích doanh nghiệp mua bảo hiểm nhóm, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí cho người lao động; chưa có ưu đãi doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng kinh doanh tại các vùng sâu, vùng xa hoặc đầu tư vào các sản phẩm bảo hiểm an sinh - xã hội; Thị trường bảo hiểm vẫn còn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong chia sẻ thông tin phòng chống trục lợi bảo hiểm, làm giảm năng lực cạnh tranh và gây rủi ro cho thị trường. Đối với thị trường tiền tệ - ngân hàng Thị trường tiền tệ - ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển mạnh về quy mô, ngày càng phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc điều hòa vốn của hệ thống ngân hàng; thị trường tín dụng - ngân hàng có sự tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô, với tỷ lệ dư nợ tín dụng ngân hàng/GDP tăng vượt mức trên 110% GDP vào năm 2016 và tiếp tục là thị trường chủ đạo trong một hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng như Việt Nam. Dư nợ tín dụng ngân hàng khu vực tư nhân tăng trên 7 lần trong giai đoạn 2007-2016 và là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Điểm nổi bật của hệ thống TCTD Việt Nam là 4 NHTM lớn (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank) chiếm trên 50% tổng dư nợ tín dụng, khoảng 45% tổng tài sản và nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống TCTD Việt Nam. Mặc dù vậy, nếu so với các nước trong khu vực, quy mô thị trường tiền tệ - ngân hàng của Việt Nam còn nhỏ. Tỷ lệ tín dụng tư nhân/GDP của Việt thấp hơn Malaysia và Singapore ở mức 20 - 30 điểm phần trăm, cách biệt so với mức chỉ 36,5% của Indonesia. Về chỉ tiêu số lượng máy ATM/100.000 người lớn cho thấy, khả năng tiếp cận thị trường tiền tệ - ngân hàng ở Việt 16
  16. Nam tương đối thấp (24 máy ATM/100.000 người lớn) so với các nước trong khu vực (59 ở Singapore; 52 ở Malaysia và 50 ở Indonesia). Cụ thể được trình bày ở biểu đồ sau: Biểu đồ 1.1: Quy mô thị trường tiền tệ ngân hàng Việt Nam so với các nước trong khu vực (Nguồn: Cơ sở dữ liệu WB) Tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam vẫn còn khá cao so với các nước trong khu vực. Cách tính nợ xấu của Việt Nam chưa theo đúng chuẩn mực quốc tế để nhận diện đúng mức độ rủi ro đối với thị trường tiền tệ - ngân hàng. Với cách tính thông thường luôn cho thấy số nợ báo cáo của các NHTM thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đặt ra thách thức trong việc hoàn thiện cách tính nợ xấu của Việt Nam theo đúng chuẩn mực quốc tế để nhận diện đúng mức độ rủi ro đối với an toàn tín dụng. Bảng 1.1: Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của Việt Nam so với các nước (%) Việt Thái Trung Nhật Năm Singapore Malaysia Philippin Indonesia Nam Lan Quốc Bản 2010 2,1 1,4 3,4 3,9 3,4 2,5 1,1 2,5 2011 2,8 1,1 2,7 2,9 2,6 2,1 1,0 2,4 17
  17. Việt Thái Trung Nhật Năm Singapore Malaysia Philippin Indonesia Nam Lan Quốc Bản 2012 3,4 1,0 2,0 2,4 2,2 1,8 1,0 2,4 2013 3,1 0,9 1,8 2,3 2,4 1,7 1,0 2,3 2014 2,9 0,8 1,6 2,3 2,0 2,1 1,1 1,9 2015 2,52 0,9 1,6 2,7 1,9 2,4 1,7 1,6 2016 2,58 1,1 1,7 2,9 2,0 3,0 1,7 1,5 (Nguồn: Cơ sở dữ liệu FSIs, tháng 9/2016) trích theo Lê Thị Thùy Vân Ngoài ra, thị trường tiền tệ ngân hàng còn nhiều bất ổn phải kể đến như hoạt động giám sát hiện nay vẫn chủ yếu thiên về giám sát tuân thủ, nội dung giám sát chưa toàn diện, còn thiếu các công cụ hữu hiệu phục vụ cho giám sát dựa trên rủi ro. Các tổ chức tín dụng và toàn hệ thống chưa chú trọng vận dụng các mô hình phân tích định lượng, cảnh báo, kiểm định rủi ro nên hiệu quả của công tác đánh giá và cảnh báo rủi chưa cao, chưa phát hiện kịp thời các rủi ro trọng yếu và chưa thực sự đóng góp tích cực trong việc củng cố chất lượng cho hoạt động của hệ thống. Từ tình hình thực trạng an ninh tài chính trên ba lĩnh vực thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính nêu trên cho thấy tình hình an ninh tài chính nói chung ở Việt Nam vẫn chưa được đảm bảo. Đối với thị trường chứng khoán, nhiều hoạt động chưa tuân thủ theo nguyên tắc của thị trường nên dẫn đến hoạt động của thị trường này còn tồn tại nhiều rủi ro tiềm ẩn. Đối với thị trường bảo hiểm vẫn còn tồn tại rủi ro do sự cạnh tranh thiếu lành mạnh của các đơn vị tham gia thị trường. Riêng thị trường tiền tệ - ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là trong các hoạt động tín dụng, mà cụ thể là tỷ lệ nợ xấu vẫn còn cao, hoạt động giám sát tài chính tiền tệ chưa hiệu quả nên chưa đóng góp nhiều cho công tác đảm bảo an ninh, an toàn tài chính của toàn hệ thống. Nhìn chung, Việt Nam đã hoạch định chiến lược tài chính đến năm 2020 với các chỉ tiêu đảm bảo an ninh, an toàn tài chính đến năm 2020 và 18
  18. sau 2020 đã được nêu cụ thể trong Chiến lược và một số chỉ tiêu đã được lược trích qua bảng 1. Tuy nhiên, thực tế qua giai đoạn 2011-2015 cho thấy các chỉ tiêu về phát triển, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính ở Việt Nam vẫn chưa đạt được như kế hoạch đã nêu. Cụ thể thu ngân sách từ phí, lệ phí đạt 21%; Tỷ lệ thu nội địa đạt 68% và tỷ lệ bội chi ngân sách đạt 5% GDP, cao hơn mức kế hoạch đã đề ra là dưới 4,5% GDP. Bảng 1.2: Một số chỉ tiêu phát triển, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 TT Chỉ tiêu 2011-2015 2016-2020 Sau 2020 1 Thu ngân sách từ phí, lệ phí 22-23%GDP 21-22% GDP Tỷ lệ thu nội địa (không kể 2 dầu thô) trong tổng thu ngân >70% (2015) >80% (2020) sách Dưới 4,5% Bình quân giai Khoảng 4% 3 Tỷ lệ bội chi ngân sách GDP (2015, đoạn khoảng 3% GDP tính cả TPCP) GDP < 65% 4 Dư nợ công < 65% (2015) < 60% (2030) (2020) < 55% 5 Dư nợ chính phủ < 55% (2015) < 50% (2030) (2020) < 50% 6 Dư nợ nước ngoài quốc gia < 55% (2015) < 45% (2030) (2020) (Nguồn: Chiến lược tài chính đến năm 2020, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược nợ công, nợ nước ngoài đến năm 2020, tầm nhìn 2030) Như vậy, tình hình an ninh tài chính ở nước ta vẫn chưa được đảm bảo, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống tài chính nói chung. Nguyên nhân có thể kể đến như sau: Trong thời gian qua sự bất ổn chính trị và kinh tế trên thế giới cũng như tác động của chu kỳ kinh tế và khủng hoảng trên thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế quốc tế tác động rất mạnh và gây tiềm ẩn, rủi ro rất lớn 19
  19. trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Trong khi đó, kinh tế trong nước cũng còn khó khăn và chất lượng kinh tế cũng tăng trưởng chưa cao, nợ công tăng nhanh. Thị trường vốn còn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế nên hệ thống ngân hàng vẫn là kênh tài trợ chủ yếu cho đầu tư và phát triển. Chính vì vậy, rủi ro chính của hệ thống tài chính chính là rủi ro của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, mô hình tăng trưởng của chúng ta trong nhiều năm vẫn phụ thuộc vào đầu tư theo chiều rộng và sử dụng vốn vay nên nợ xấu của nền kinh tế chủ yếu là nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Năng lực quản trị rủi ro của một số tổ chức tín dụng còn hạn chế. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa tốt, tính tuân thủ các quy chế chưa cao, các chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ cận tín dụng ngân hàng chưa được quan tâm, cho nên dẫn đến những rủi ro trong việc cho vay. Công tác thanh tra giám sát của NHNN còn hạn chế và chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của hệ thống tài chính trong tình hình mới. Từ việc phân tích thực trạng an ninh tài chính nêu trên, cho thấy việc đảm bảo an ninh tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thực sự cấp thiết, góp phần giúp hệ thống tài chính phát triển vững mạnh và an toàn. 1.5. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN 1.5.1. Các nghiên cứu ngoài nước IMF (1998) đưa ra chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính vĩ mô của một quốc gia theo 2 khía cạnh, 4 yếu tố chính và 19 chỉ số. Cụ thể 2 khía cạnh là “sức mạnh kinh tế và môi trường chính sách; và đánh giá khu vực tài chính”; 4 yếu tố chính là sức mạnh và hoạt động kinh tế, năng lực hành chính và hiệu quả chính sách, cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng của bên ngoài, hoạt động và phát triển tài chính. 19 chỉ tiêu bao gồm: GDP thực/đầu người, quy mô kinh tế và mức độ phát triển (GDP thực và tốc độ tăng trưởng kinh tế, triển vọng tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng của GDP bình quân đầu người, ổn định kinh tế (biến động của GDP bình quân 20
  20. đầu người và tỷ lệ thất nghiệp), hiệu quả của chính sách tài khóa (tỷ lệ thay đổi nợ chính phủ/GDP), mức nợ chính phủ (gánh nặng nợ của chính phủ/ GDP), chi phí tài chính (chi phí nợ của chính phủ), khả năng chi trả nợ (nghĩa vụ nợ trên kim ngạch xuất khẩu), rủi ro vỡ nợ (tỷ lệ nợ công/GDP), sự phụ thuộc vào nước ngoài (tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP), thu và chi tài khóa (thâm hụt ngân sách/GDP), lạm phát và ổn định giá trị tiền tệ (CPI). Grib (2015) nêu các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính ở Krasnoyarsk Territory (Krai) bao gồm 2 nhóm chỉ tiêu với 12 tiêu chí đo lường cụ thể và đơn vị đo lường cũng như ngưỡng giá trị của từng tiêu chí. Cụ thể (i) nhóm chỉ tiêu các yếu tố quyết định ngân sách và an ninh thuế khu vực bao gồm các chỉ tiêu như: tỷ lệ thâm hụt ngân sách, tỷ lệ nợ công, tỷ lệ tăng trưởng, tổng số tiền thuế, tỷ lệ tiền được hỗ trợ từ tiền thuế quốc gia; (ii) nhóm chỉ tiêu các yếu tố quyết định an ninh tài chính của khu vực bao gồm: tỷ lệ vốn đầu tư trong tổng vốn, tỷ số đổi mới của tài sản cố định, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập với tốc độ tăng trưởng của chi tiêu tiêu dùng, Tỷ lệ giá trị thị trường của tài sản so với thu nhập trung bình hàng năm của gia đình v.v.. Từ các chỉ tiêu này, tác giả làm cơ sở cho đánh giá thực trạng an ninh tài chính ở Krai. Chen.X (2015) đánh giá an ninh tài chính ở Trung Quốc dựa vào phân tích và điều tra sức mạnh và hoạt động kinh tế trong và ngoài nước, cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng bên ngoài, năng lực hành chính của chính phủ, chính sách tài khóa, chính sách tài chính, hoạt động tài chính và mức độ phát triển, khả năng kiểm soát tài chính. IMF (2017) nêu Bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators: FSIs) để đo lường sự lành mạnh tài chính của mỗi quốc gia. Bộ chỉ số này bao gồm 40 chỉ số tài chính, trong đó: (i) 25 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức nhận tiền gửi (12 chỉ số cốt lõi và 13 chỉ số khuyến khích); (ii) 2 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức tài chính khác; (iii) 5 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của khu vực tổ chức phi tài chính; (iv) 2 chỉ số phản ánh tài chính của khu vực hộ gia đình; (v) 2 chỉ số phản ánh tình hình thanh khoản của thị trường; (vi) 4 chỉ số phản ánh tình hình của thị trường bất động sản. 21
nguon tai.lieu . vn