Xem mẫu
- NHỮNGNGƯỜI ĐỌ CÁNH
S ố p h ận của từng con người củng tựa
như những "miếng ghép của cuộc sôhg".
Nó rất đa dạng. Có những "miếng ghép"
có th ể cảm nhận được ngay. Có những
"miếng ghép" tận sau này mới cảm nhận
được. Thậm chí, có những "miếng ghép"
m ãi vẫn là hí ẩn... Và còn biết bao điều
bất ngờ khác nữa...
Phải mất nhiều năm sau chiến tranh tôi mới có
cơ hội để được suy ngẫm một cách thấu đáo những
gì mình từng trăn trở, và cũng là đến lúc đó mới có
cơ hội nắm bắt được những gì mình cần biết qua sự
bùng nổ của thông tin, nhất là qua mạng Internet.
Bao năm rồi, tôi vẫn canh cánh bên lòng về
những trận không chiến ngày 10 tháng 5 năm 1972.
Tôi cho rằng, một khi mình đã từng là người tham
gia chiến đấu trong ngày hôm ấy thì mình phải hiểu
rõ hơn về nó. Dần dà, tôi đã tập hợp lại được các tư liệu,
81
- các sự kiện liên quan đến ngày hôm đó và muốn
trình bày lại một cách tương đối tổng thể, đặc biệt là
về những con người cả hai phía trong ngày hôm ấy.
Đương nhiên, không thể nào lần tìm được cả hàng
trăm con người, nhưng biết được đến đâu cũng là hay
đến đó, rồi dần dần sẽ bổ sung sau vậy. Sau đây, tôi
sẽ cung cấp một số thông tin về các phi công của cả
hai bên trực tiếp tham gia các trận không chiến
trong ngày 10-5-1972 để bạn đọc hiểu rõ thêm, dù là
chưa đầy đủ.
Với 414 lần chiếc xuất kích trong ngày của
Không quân và Hải quân Mỹ gồm hàng trăm máy
bay (22 loại, từ tiêm kích, cường kích, tác chiên
điện tử, trực thăng, trinh sát, tiếp dầu trên
không... ), tức là hàng trăm phi công tham gia thì
quy mô của cuộc không chiến không hề nhỏ. Các
máy bay của Không quân Mỹ chủ yếu cất cánh từ
Thái Lan, trên các sân bay Ubon, Udon, Ta-khơ-li,
Korat và Ưtapao hướng đánh vào Hà Nội, cầu Long
Biên, ga Yên Viên.
Các máy bay của Hải quân Mỹ thì cất cánh từ
bôn tàu sân bay: Kitty Hawk, Constellation, Coral Sea
và Okinawa, hướng đánh vào Hải Phòng, Hải
Dương và các cây cầu ở các khu vực này.
Trên tàu sân bay uss Kitty Hawk (CVA-63) có
22 chiếc F-4J, 21 chiếc A-7E, 12 chiếc A-6A và B,
ba chiếc KA-6D, bôn chiếc RA-5C, bôn chiếc E-2B,
82
- hai chiếc EKA-3B, bốn chiếc SH-3G, năm chiếc
HH-3A,
Tàu sân bay uss Constellation (CVA-64) thì
chở 24 chiếc F-4J, 22 chiếc A-7E, 12 chiếc A-6A,
bôn KA-6D, bốn chiếc RA-5C, hai chiếc EKA-3B,
bốn E-2B, ba chiếc SH-3G.
Tàu sân bay ưss Coral Sea (CVA-43) chỏ 23
chiếc F-4B, 22 chiếc A-7E, 13 chiếc A-6A và B, ba
chiếc KA-6D, ba chiếc EKA-3B, hai chiếc RF-8G,
bốn chiếc SH-3G.
Tàu sân bay uss Okinawa (LPH-3) chở ba
chiếc HH-3A, 14 chiếc CH-46D, sáu chiếc CH-53D
và ba chiếc UH-1E.
Tổng chỉ huy lực lượng Không quân là Đại tướng
Giôn Vốc (John Vogt) - Tư lệnh Tập đoàn Không
quân s ố 7.
Chỉ huy lực lượng của H ải quân là Chuẩn Đô
đốc Uy-li-am M ách ( W illiam Mack).
Tư lệnh Tập đoàn Không quân sô" 7, Đại tướng
Giôn Vốc sinh ngày 18 tháng 3 năm 1920, gia nhập
Không quân Mỹ từ năm 1941, là người trải qua con
đường học vấn rất ấn tượng, tốt nghiệp các trường
đại học nôi tiếng như Yale, Columbia và Harvard.
Giôn VỐC đã lấy bằng thạc sĩ tại Đại học Columbia,
sau đó theo học chuyên ngành Quan hệ Quốc tế tại
Đại học Harvard.
83
- Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1942, Vốc phục vụ
như là một phi công chiến đấu tại Phi đội không
quân tiêm kích 63 (Fighter Squadron), thuộc Liên
đoàn 56 (Fighter Group). Tháng 1 năm 1943, Vốc đã
cùng phi đội của mình đến Anh và hoàn thành
nhiệm vụ chiến đấu vối tư cách chỉ huy đội bay.
Tháng 5 năm 1944, Vốc trở thành Phi đội trưởng Phi
đội 360 (Fighter Squadron), thuộc Liên đoàn 356
(Fighter Group) và thực hiện nhiệm vụ chiên đấu
thứ hai; tham gia trong các chiến dịch Air Offensive,
Europe, Rhineland và Normandy Invasion, vốc đã
bắn rơi tám máy bay đối phương trong chiến đấu
trên không.
Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 7-1946, Vôc
giữ chức Chỉ huy trưởng căn cứ Không quân thứ
nhất và căn cứ lục quân Ibura tại Recife, Bra-xin
cho đến khi trở về Hoa Kỳ.
Giôn VỐC phục vụ nhiều năm tại Phân ban tác
chiến và kế hoạch, Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ.
Chính Kít-xinh-giơ, người lần đầu tiên gặp
tướng Vôc tại Đại học Harvard vào những năm 50
của thê kỷ trưóc đã tiến cử ông ta với Ních-Xơn.
Ngay từ năm 1954, khi Pháp có nguy cơ thất
thủ tại Điện Biên Phủ, vốc đã được Bộ Tư lệnh
Không quân Mỹ cử sang Pa-ri để bàn bạc với Bộ
chỉ huy Không quân Pháp về các kế hoạch can dự
của Không quân Mỹ vào Đông Dương.
84
- Năm 1965, khi bắt đầu "Chiến dịch Sấm Rền",
tướng Vốc lúc đó làm việc trong văn phòng Bộ Quốc
phòng, trực tiếp giúp Mắc Na-ma-ra và Pôn Nít-dơ
(Paul Nitze) (khi đó là Bộ trưởng Hải quân và Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ) khởi thảo danh mục các
mục tiêu đánh phá cho Không quân Mỹ, sau đó
một thời gian dài là Phó Tư lệnh Không quân Thái
Bình Dương.
Năm 1972, Tổng thống Ních-Xơn đã bổ nhiệm
tướng Giôn Vốc làm Tư lệnh Tập đoàn Không quân sô" 7,
nơi Vốc trực tiếp chỉ huy "Chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1
và 2", những chiến dịch cuối cùng của Không quân
Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Trước khi lên đường sang Sài Gòn nhận nhiệm
vụ, tướng Vốc đã gặp Tổng thông Ních-Xơn và Cô"
vấn an ninh Hen-ri Kít-xinh-giơ tại tòa nhà điều
hành cạnh Nhà Trắng. Tại cuộc gặp này, Ních-Xơn
nhắc lại quyết tâm rút bộ binh Mỹ khỏi Việt Nam
như đã hứa với cử tri Mỹ, nhưng yêu cầu tướng
Giôn Vô"c phải tiến hành mọi biện pháp để giữ được
miền Nam Việt Nam. Tưống Vốc hứa sau khi tiếp
thu công việc và nắm vững tình hình các đơn vị thì
sẽ hành động quyết liệt.
Sau chiến tranh Việt Nam, vào tháng 10 năm
1973, tướng Vô"c được bổ nhiệm làm Tư lệnh Không
quân Thái Bình Dương.
Tháng 6 năm 1974, tướng Giôn Vốc được bổ
nhiệm là Tư lệnh Không quân Mỹ ở châu Ẩu.
85
- Tướng Giôn Vốc về nghỉ hưu năm 1975 và mất
ngày 16 tháng 4 năm 2010.
Chuẩn Đô đốc Uy-li-am Pết-đơn Mách (William
Paden Mack) sinh ngày 6 tháng 8 năm 1915, từng
tốt nghiệp Học viện Hải quân vào năm 1937 và là
Chỉ huy trưởng của Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở
Annapolis, Maryland từ 16 tháng 6 năm 1972 cho
đến khi nghỉ hưu vào tháng 8 năm 1975.
Sau này, Uy-li-am Mách đã trở thành một nhà
văn và mất ngày 15 tháng 1 năm 2003.
Đ ể đánh sập cây cầu Long Biên vào ngày này,
Mỹ đ ã sử dụng 20 chiếc F-4, năm chiếc F-105 và
Đại tá Không đoàn trưởng Các Min-lơ cùng Đại tá
Không đoàn phó Ri-sác Hon trực tiếp bay dẫn đội,
chỉ huy việc đánh cầu. .
Đại tá Không đoàn trưởng Các Min-lơ sinh
năm 1930 ở Bớc-minh-ham, Alabama, tốt nghiệp
trung học vào năm 1948 và tôt nghiệp trường Đại
học Alabama năm 1951 vối bằng cử nhân quản trị
kinh doanh. Các Min-lơ tiếp tục lấy bằng tiến sĩ
Luật năm 1961 từ Đại học Saint Mary ỏ San
Antonio, Tếch-dát. Các Min-lơ cũng đã tôt nghiệp
Đại học chỉ huy Không quân và Tham mưu cao cấp
vào năm 1962 và trường Cao đẳng công nghiệp của
cốc lực lượng trang bị năm 1970.
Các Min-lơ gia nhập Không quân Hoa Kỳ
tháng 6 năm 1951. Sau khi hoàn thành khóa đào
86
- tạo cơ bản, Min-lơ tham dự lớp huấn luyện phi
công tại Bartow Air Base, Phờ-lo-ri-đa. Tháng 9
năm 1952 tốt nghiệp, nhận quân hàm Trung úy,
sau đó tiếp tục hoàn thành lớp đào tạo phi hành
đoàn chiến đấu F-84 tại căn cứ Không quân Luke,
Arizona.
Tháng 1 năm 1953, Các Min-lơ được điều về
chỉ huy Không đoàn 474 (Tactical Fighter Wing)
tại căn cứ Không quân Kunsan, Hàn Quốc và trỏ
thành sĩ quan hoạt động của Không đoàn 430
(Tactical Fighter Wing) tháng 5 năm 1953. Các
Min-lơ tham gia chiến tranh Triều Tiên với 57 phi
vụ, trưốc khi tham gia chiến tranh ở Việt Nam.
Tháng 12 năm 1953, Min-lơ được giao nhiệm vụ
chỉ huy đào tạo Không quân và phục vụ tại Phi
đoàn đào tạo chiến đấu 3645 tại căn cứ Không quân
Laughlin, Tếch-dát. Tháng 2 năm 1957, được điều
đến căn cứ Hondo, Tếch-dát, một trường đào tạo phi
hợp đồng dân sự và là sĩ quan huấn luyện quân sự
cho một phi đội Hàng không thiếu sinh quân.
Tháng 3 năm 1958, Min-lơ được chuyển đến
căn cứ Randolph, Tếch-dát làm Giám đốc của đoàn
Tiêu chuẩn T-33. Tháng 8 năm 1961, Min-lơ theo
học Đại học Khống quân và Tham mưu cao cấp tại
căn cứ Maxwell, Alabama.
Sau khi hoàn thành việc học của mình, Min-lơ
tham gia Bộ Tham mưu Không quân đồng minh
87
- chiến thuật thứ tư, một tổ chức quân sự của NATO
tại căn cứ Ramstein, Đức vào tháng 6 năm 1962,
từng là sĩ quan điều hành các hoạt động cho Phó
Tham mưu trưởng.
Tháng 7 năm 1966, Min-lơ được điều đến
Không đoàn chiến thuật 31 tại căn cứ Homestead,
Phờ-lo-ri-đa. Không đoàn 31 được triển khai tới căn
cứ Không quân Tuy Hòa của quân đội Sài Gòn vào
tháng 10 năm 1966. Khi đó, Min-lơ là Giám đôc
của các hoạt động và đào tạo.
Tháng 1 năm 1968, Min-lơ được điểu trở lại
Ramstein vối tư cách là trợ lí Giám đôc đánh giá
chiên thuật và sau đó là trợ lí Giám đốc của không
lưu tại Bộ chỉ huy Không quân 17.
Tháng 7 năm 1969, Min-lơ tham gia trường
Đại học công nghiệp của các lực lượng trang bị ở
Oa-sinh-tơn. Tháng 7 năm 1970, được bổ nhiệm
làm Giám đốc điều hành của Không đoàn Vũ khí 57
và là chỉ huy của Trường Vũ khí chiến thuật tại
căn cứ Nellis, Nê-va-đa.
Năm 1971, Min-lơ trỏ lại Tây Nam Á vối cương
vị là Phó chỉ huy của Không đoàn chiến thuật sô 8
tại căn cứ Không quân Hoàng gia Udon, Thái Lan
và trở thành Chỉ huy trưởng vào tháng 2 năm 1972.
Khi chỉ huy Không đoàn chiến thuật sô' 8, Min-lơ
đã lái máy bay F-4 vói nhiệm vụ tấn công trong
chiến dịch Lai-riơ-bếch-cơ vào miền Bắc Việt Nam.
88
- Min-lơ gia nhập Đồng minh không lực miền
Nam châu Âu (AIRSOUTH), một trụ sở quân sự
NATO ở Naples, Ý vào tháng 1 năm 1973.
Tháng 11 năm 1973, Min-lơ được điều đến
Hancock Field làm chỉ huy của vùng NORAD 21
với trách nhiệm bổ sung là chỉ huy Sư đoàn Không
quân 21. Cũng trong năm 1973 này, Min-lơ được
phong quân hàm Thiếu tướng.
Tháng 1 năm 1974, tướng Min-lơ là Tư lệnh
phó Không đoàn chiến thuật đồng minh của NATO
ở Vicenza, Ý.
Tổng cộng, Các Min-lơ đã tham gia 524 trận.
Riêng ỏ chiến tranh Việt Nam là 189 trận bay trên
F-4 và 278 trận bay trên F-100.
Đại tá Không đoàn phó Ri-sác Hon sinh ngày
2 tháng 3 năm 1931, quê ỏ thành phô' Portland,
tiểu bang Oregon.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Oregon, Ri-sác Hon
gia nhập Không quân vào năm 1952.
Vào ngày 27 tháng 4 năm 1972, trong cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hon đã dẫn đầu
cuộc oanh kích đánh sập cây cầu Hàm Rồng - cây
cầu từng gây tổn thất cho 36 phi công Mỹ trong
suô't bốn năm với những cuộc tấn công thất bại.
Trong 30 năm cuộc đòi binh nghiệp của mình,
Hon từng thực hiện 335 phi vụ với máy bay F-4,
89
- đã được tặng thưởng bôn huy chương cao quý, mười
huy chương Dũng cảm, huân chương ưu tú, huy
chương đồng, 23 huy chương Không quân và bảy
huy chương đồng khác, trong đó có cả huy chương
của quân đội Sài Gòn và Nam Hàn.
Trong đợt nhiệm vụ thứ hai của mình tại Việt
Nam, Đại tá Hon được bổ nhiệm làm Tư lệnh phó
của Không đoàn Không kích Chiến thuật số’ 8 tại
Udon, căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan.
Năm 1982, Đại tá Hon hoàn thành sự nghiệp
của mình với tư cách là Phó Tư lệnh thứ ba của
Không quân.
Đại tá Ri-sác Hon về nghỉ hưu tại Reno,
Nê-va-đa và qua đời ngày 3 tháng 1 năm 2015.
Vào lúc 8 giờ 52 phú t ngày 10 tháng 5 năm
1972, khi biên đội hai chiếc MiG-21 của Đặng Ngọc
Ngự và Nguyễn Văn Ngãi thuộc Trung đoàn Không
quản tiêm kích 921 cất cánh từ sân bay Kép lên thì
bị biên đội hai chiếc F - 4 J (Silver Kite) của Đại úy
Ot-xtin H ao-kin (Austin H aw kins) và Đại úy
Cơ-títx Đô (Curtis Dose) thuộc Phi đoàn VF-92, tàu
sân bay uss Constellation đang làm nhiệm vụ bay
tuần tiễu ngang săn bay Kép ở độ cao 5.000 mét
p h á t hiện, lao xuôhg tấn công.
Chiếc F-4 bay sô' 2 của Đ ại úy Cơ-títx Đô và
Thiếu tá Giêm M ắc Đê-vít (Jam es Mc Devitt) điều
khiển đã bám theo máy bay của Nguyễn Văn Ngãi,
90
- p h ón g h ai quả tên lửa AIM-9G. Quả tên lửa thứ
h a i đ ã lao trúng máy bay của Nguyễn Văn Ngãi
k h i an h mới lên đến độ cao 15-20 mét ị
Nguyễn Văn Ngãi không kịp nhảy dù, máy bay
rơi xuôhg p h ía đầu đường băng và đã hy sinh.
Sau này,' tôi được biết, Đại úy ôt-xtin Hao-kin
sinh ngày 8 tháng 8 năm 1942, ở Phờ-lo-ri-đa là
một phi công phản lực kỳ cựu, phục vụ trong lực
lượng Hải quân Hoa Kỳ 21 năm.
Vào ngày 21 tháng 4 năm 1985, Ot-xtin Hao-kin
là sĩ quan điều hành của đơn vị trù bị Không quân
của Hải quân tại trạm Point Mugu đã bị thiệt mạng
khi chiếc máy bay hạng nhẹ của Ôt-xtin Hao-kin bị
rơi ở miền Bắc Xan Đi-ê-gô. Chiếc máy bay một động
cơ này bị tai nạn trong lúc trời mưa.
Cơ-títx Đô hiện đã về hưu với quân hàm Trung
tá Hải quân, từng nhận Huân chương Danh dự và
13 Huy chương khác trong Không quân Hải quân
Hoa Kỳ.
Trung tá Cơ-títx Đô cùng với cha của mình là
Đại úy Rô-bớc Đô (Robert G. Dose) là cặp cha con
duy nhất ghi được chiến công bắn rơi máy bay
đốì phương.
Riêng về phi công Thiếu tá Giêm Mắc Đê-vít
thì tôi hoàn toàn không có thông tin.
Lúc 9 giờ 36 phút ngày 10 tháng 5 năm 1972,
biên đội bốn chiếc tiêm kích MiG-19 của Phạm
Ngọc Tâm, P hạm Hùng Sơn (C), Nguyễn Văn Phúc,
91
- Lê Đức Oánh thuộc Trung đoàn K hông quăn tiêm
kích 925 trực ở đầu nam sân bay Yên B ái đã xuất
kích chiến đấu và 20 phú t sau, biên đội bốn chiếc
tiêm kích MiG-19 của H oàng Cao Bổng, Phạm Cao
Hà, Nguyễn Văn Cương, L ê Văn Tưởng trực ở đầu
bắc sân bay Yên B ái củng xuât kích. Cả hai biên
đội cùng vòng trực trên đỉnh sân bay.
Hai biên đội MiG-19 đ ã g ặp lực lượng 32 chiếc
máy bay F-4 của Không đoàn tiêm kích chiến thuật
s ố 432 của Mỹ do Thiếu tá Rô-bớc An-phơ-rết Lót
(Robert Alfred Lodge) và Đ ại úy Râu-gơ Lót-trơ
Roger c. Locher) dẫn đầu.
Các trận tao ngộ chiến đã; xảy ra.
Phi công tiêm kích Nguyễn Văn Phúc đã bám
được chiếc F-4D của Thiếu tá Rô-bớc An-phơ-rết
Lót, nô liên tiếp h a i loạt đạn. Chiếc F-4D trúng
đạn, khựng lại rồi đ ổ vào xoáy ốc. Nó tiếp tục nhận
được loạt đạn thứ ba, bị gãy đôi và bốc cháy.
Thiếu tá Rô-bóc An-phơ-rết Lót thiệt mạng,
còn Đại úy Râu-gơ Lót-trơ kịp nhảy dù.
Tôi không có được thông tin về Thiếu tá Rô-bớc
An-phơ-rết Lót, còn Đại úy Râu-gơ Lót-trơ thì sinh
ngày 13 tháng 9 năm 1946 tại Sabetha, bang
Kan-đát. Lót-trơ gia nhập lực lượng Không quân
năm 1969, tốt nghiệp Trường đào tạo phi công -
hoa tiêu, bay trên loại máy bay F-4 tại căn cứ
Davis Monthan ỏ Arizona, sau đo được điều đến
Phi đội 555, Không đoàn 432 TFW. Lót và Lót-trơ
92
- là những phi công giàu kinh nghiệm trong khu vực
Đông Nam Á. Khi máy bay bị bắn, Lót-trơ đã báo
cho phi công chính rằng động cơ bên phải của máy
bay đã phát nổ. Lót và Lót-trơ đã thảo luận các lựa
chọn của họ. Áp suất thủy lực tụt dần. Khi Lót để
chế độ lái tự động, máy bay không đáp ứng. Phía
sau của máy bay đang bốc cháy, máy bay thì gầm
rú, quay cuồng và khói ùa vào đầy buồng lái.
Lót-trơ nói với Lót rằng máy bay càng lúc càng
nóng và tốt hơn hết là nhảy dù. Lót nhìn qua vai
phải của Lót-trơ và nói: "Tại sao không bung dù đi?".
Khoảng thời gian ba tuần trước đó, Rô-bớc Lót đã
từng nói với các đồng nghiệp trong phi đoàn giống
như nhiều lần đã nói trước đây rằpg sẽ không cho
phép mình bị bắt vì biết quá nhiều về thông tin
mật và nhạy cảm. Lót-trơ đã nhảy dù thành công
nhưng không bao giờ nhìn thấy chiếc dù của
Thiếu tá Rô-bốc Lót. Chiếc dù của Lót-trơ bị mắc
kẹt vào cây nên Lót-trơ không thể giấu dù của
mình được. Sau khi lấy ra vài vật dụng cần thiết từ
gói trang bị sổng còn, cho vào áo cứu hộ (gồm súng
ngắn, hai lít nưốc, hộp cứu thương, thuốc chông côn
trùng, màn chống muỗi và một con dao) và ngụy
trang đường mình đi rồi leo lên phía đông của đỉnh
núi và rồi lại trốn trong bụi cây bên sưòn phía Tây.
Trong ba ngày, Lót-trơ nghe chừng như có một đội
tìm kiếm của người địa phương đang đập vào các
bụi rậm ở phía đông sườn núi. Lót-trơ chui ấn vào
93
- bụi cây và rồi lại quay trở lại đỉnh núi... Lót-trơ
quyết định cơ hội tốt nhất cho mình đê được cứu hộ
là băng qua rừng, địa hình đồi núi và vùng trồng
trọt ở thung lũng sông Hồng, bơi qua sông, tìm
cách đến vùng núi thưa thốt dân cư ở phía Nam.
Lót-trơ đã lang thang trong rừng 23 ngày. Lót-trơ
không dám sử dụng thiết bị cứu hộ phát thanh
URC-64 của mình, chỉ dám di chuyên trong khoảng
19 kilômét mỗi ngày vào thời điểm ban đêm và
rạng sáng, tránh người địa phương và tránh xa
đất liền. Có lần, Lót-trơ suýt chạm trán với một
người dân Việt Nam vào buổi sáng tinh mơ, nhưng
đã kịp lẩn tránh. Lót-trơ dã phải trôn ngoài cánh
đồng,'lấy lá cây và rơm rạ phủ kín người, nằm im
ở đó cả ngày.
Suốt 23 ngày lang thang trong rừng, Lót-trơ
phải tự tìm lá cây, củ rừng và những thứ có thê ăn
được, uống được để nuôi sông mình. Cũng trong 23
ngày ấy, Lót-trơ đã sút 14 kilôgam.
Ngày 1 tháng 6, Lót-trơ đã liên lạc được với một
chiếc F-4 đang bay trên tròi, kịp báo vị trí của mình.
Một nhiệm vụ cứu nạn được đặt ra cho một số máy
bay A-1E HH-53, F-4 và F-105 để giải cứu Lót-trơ
nhưng đã bị lực lượng Phòng không và MiG đánh bạt.
Sang ngày 2 tháng 6, tướng Giôn Vốc sau khi tham
khảo ý kiến với chỉ huy quân đội MACV là tướng
Phò-rê-đê-rích Uây-an (Frederick c. Weyand), đã hủy
bỏ cuộc tấn công Hà Nội, huy động tất cả các nguồn
94
- lực sẵn có, vối hơn 150 máy bay để giải cứu Đại úy
Lót-trơ. Các lực lượng đặc nhiệm trực tiếp của 119
máy bay bao gồm hai chiếc HH-53 - máy bay trực
thăng cứu hộ, máy bay ném bom và một sô" F-4 hộ
tống, EB-66s, A-lEs, F-105G và máy bay tiếp dầu
KC-135. Đến trưa ngày 2 tháng 6 thì Lót-trơ được
cứu thoát ở vị trí cách Yên Bái năm dặm (tám
kilômét) bằng máy bay trực thăng HH-53 và được
chở về sân bay Udon.
Trưốc đó, tổ bay của Lót-trơ tuyên bố" bắn
trúng ba chiếc máy bay MiG của đối phương và
Lót-trơ trở thành phi công Mỹ có quãng thời gian
từ khi bị bắn rơi cho đến khi được cứu thoát là dài
nhất, với một chiến dịch giải cứu dài nhất.
Đại úy Lót-trơ đã thực hiện phi vụ thứ 407
trong chiến tranh.
Sau khi trở về Mỹ, Lót-trơ đã tham dự khóa
đào tạo phi công và được giao lái F-4 với vị trí phi
công chính. Lót-trơ bay F-4 ở Niu Mê-hi-cô,
Mê-hi-cô, A-lát-xca và Phò-lo-ri-đa trước khi
chuyển sang bay huấn luyện trên loại máy bay F-16,
giữ chức vụ hướng dẫn và chỉ huy bay. Sau đó,
Lót-trơ đóng một vai trò quan trọng trong những
ngày đầu của "Chương trình đen" siêu bí mật sản
xuất ra các máy bay chiến đấu tàng hình Lockheed
F-117 Nighthawk.
Râu-gơ Lót-trơ nghỉ hưu năm 2010 ở Sabetha,
Kan-dát.
95
- Biên đội bốn chiếc của H oàng Cao Bổng, Phạm
Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, L ê Văn Tưởng thì quần
nhau với tốp F-4 của Không quăn Mỹ đang làm
nhiệm vụ yểm hộ tốp cường kích ném bom la-de (mật
danh là Cleveland). S ố 4 L ê Văn Tưởng đ ã cắt một
đường bay siêu gọn, bám ngay sau chiếc F-4 do Đại
úy Giép-phờ-rây Lin-đơn H a-rít (Jeffrey Lyndon
Harris) và Đại úy Đen-nít Ét-uốt Uyn-kin-xơn
(Dennis Edward Wilkinson) điều khiển, nện hai loạt
đạn trúng cánh bên p h ả i của chiếc F-4E này, bắt nó
cắm đầu xuống ph ía tây nam sân bay Yên Bái.
Cả hai p h i công bay trên chiếc F-4 này không
nhảy dù được và đã chết trận.
Giép-phờ-rây Lin-đơn Ha-rít sinh ngày 28 tháng 5
năm 1943 và tử trận ngày 10 tháng 5 năm 1972.
Đen-nít Ét-uốt Uyn-kin-xơn sinh ngày 23 tháng 7
năm 1944, tử trận ngày 10 tháng 5 năm 1972.
Lúc 9 giờ 39 phút, biên đội hai chiếc MiG-21 của
Nguyễn Công Huy và Cao Sơn K hảo thuộc Trung
đoàn Không quân tiêm kích 921 trực ban chiến đâu
trẽn sân bay Đa Phúc nhận lệnh xuất kích chiến đâu,
bay về khu vực Tuyên Quang làm nhiệm vụ nghi
binh và yểm trợ cho lực lượng MiG-19 đang làm
nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu ở Yên Bái, Tuyên
Quang, đã gặp địch và trận không chiến không cân
sức đã xảy ra.
Trong trận không chiêh này, chiếc F-4 do
Trung úy Giôn-Mác-cơ (John D. Markle) và Đại úy
96
- xti-vơn ip-vơ (ỈSteven D. hiaves) thuộc .Phi đội bbb,
Không đoàn 432 TFW điều khiển đã bắn trúng
máy bay của Cao Sơn Khảo.
Tôi hoàn toàn không có thông tin về hai phi
công này.
12 giờ 55 phút, biên đội bốn chiếc tiêm kích
MiG-17 của Nguyễn Văn Thọ, Tạ Đông Trung, Đỗ
Hạng, Trà Văn Kiếm thuộc Trung đoàn Không
quân tiêm kích 923 xuất kích từ sân bay Kép vòng
về p h ía H ải Dương thì gặp lực lượng lớn máy bay
của H ải quân Mỹ gồm A-7 và F-4.
Trong trận không chiến, sau khi ph i công Đỗ
Hạng bị bắn rơi, bị bắn rách dù và hy sinh thì phi
công Trà Vần Kiếm củng quần nhau tơi bời VỚI F-4 do
Đại úy Ran-đờ Cơn-ninh-ham (Randal H. Cunningham)
và Trung úy Uy-li-am Đơ-rítx-côn (William p. Drisscoll)
thuộc Phi đội VF-96, tàu sân bay uss Constellation
điều khiển.
Máy bay của Trà Văn Kiếm bị trúng tên lửa
A1M-9G, bị thương nhẹ, nhưng do thất tốc, lao
xuống đất và Thiếu úy Trà Văn K iếm đ ã hy sinh.
Đại úy Cơn-ninh-ham thì cứ lầm tưởng Trà
Văn Kiếm là p h i cồng huyền thoại Nguyễn Tom 1 vì
các động tác trong không chiến của Trà Văn Kiếm
1. Nỗi ám ảnh về các phi công xuất sắc của Không quân Việt Nam khiến
phi công Mỹ đồn tai nhau về một phi công “át” có tên là Đại tá Toon (có
người gọi là Tom) và gán cho cái họ rất phổ biến ở Việt Nam là họ Nguyễn.
Trên thực tế, Đại tá Nguyễn Tom chỉ là một nhân vật tưởng tượng.
97
- rất điêu luyện. Trên đường trở về tàu sân bay
Cơn-ninh-ham đã bị tên lửa P hòng không SAM
bắn rơi, cả hai p h i công trên chiếc F-4 đều nhảy dù
và được cứu thoát.
Đại úy Cơn-ninh-ham (có biệt danh là Randy
"Duke" Cunningham) sinh ngày 8 tháng 12 năm
1941 tại Lốt Ảng-giơ-lét, bang Ca-li-phoóc-ni-a.
Sau khi nhận bằng cử nhân vào năm 1964 và
thạc sĩ trong ngành giáo dục năm 1965 của trường
Đại học Missouri, bang Missouri, Cơn-ninh-ham băt
đầu sự nghiệp của mình như là một nhà giáo dục và
một huấn luyện viên tại Trung học Hinsdale. Là một
huấn luyện viên bơi lội, Cơn-ninh-ham đã từng đào
tạo được hai vận động viên đoạt Huy chương Vàng và
Bạc Olympic.
Cơn-ninh-ham đã tốt nghiệp khóa huấn luyện
nâng cao TOP GUN trước khi được điều đến Phi
đội VF-96, tàu sân bay uss Constellation, Hải
quân Mỹ. "Duke" Cơn-ninh-ham đã trở thành một
trong những phi công Hải quân Mỹ được vinh danh
trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong chiến tranh, Cơn-ninh-ham xuất kícl
300 phi vụ, được ghi nhận bắn rơi năm chiếc MiG
(bôn chiếc MiG-17 và một chiếc MiG-21), vì vậy
Cơn-ninh-ham cùng với phi công Đò-rítx-côn tr<
thành cặp phi công Aces (át chủ bài) đầu tiên Vỉ
duy nhất của Hải quân Mỹ.
98
- Cơn-ninh-ham đã nhận được Huy chương cao
quý của Hải quân Mỹ là Navy Cross, hai Huân
chương Danh dự, 15 Huy chương Không quân và
Huy chương Dũng cảm.
Sau chiến tranh Việt Nam, "Duke" Cơn-ninh-ham
quay lại làm giáo viên tại Trung tâm huấn luyện
phi công TOP GUN, sau đó là với VF-154. Sau đợt
nhiệm vụ tại Lầu Năm Góc, Cơn-ninh-ham lại trở
về VF-154. Năm 1987, Cơn-ninh-ham được bổ
nhiệm làm Tư lệnh một Không đoàn.
Trong những năm 1990, Cơn-ninh-ham còn nổi
tiếng là một bình luận viên truyền hình trên kênh
lịch sử với chương trình "Các trận không chiến nổi
tiếng nhất". Thậm chí, trong chiến tranh Vùng
Vịnh, Cơn-ninh-ham còn tham gia bình luận trực
tiếp trên máy bay của Hải quân Mỹ tham chiến.
Sự nghiệp chính trị của Cơn-ninh-ham bắt đầu
với việc giành được ghế nghị sĩ của Đảng Cộng hòa
quận 44, một trong bôn quận của thành phô
Xan Đi-ê-gô vào năm 1990, nhưng rồi vào những
năm sau đó không được thuận lợi.
Sau khi nghỉ hưu năm 1987 với quân hàm
trung tá, Cơn-ninh-ham đã trở thành Hiệu trưởng
Trường Quốc gia Hàng không và bắt đầu tiếp thị
công ty Hàng không của riêng mình - Doanh
nghiệp TOP GUN.
99
- Phi công ngồi buồng sau trên máy bay của Cơn-
ninh-ham là Trung úy nhất Uy-li-am Đò-rítx-côn sinh
ngày 5 tháng 3 năm 1947, đã tốt nghiệp ngành
kinh tế của Trường Đại học Stonehill, North
Easton, Ma-sa-chu-sét năm 1966 và lấy bằng thạc
sĩ quản trị tại Đại học Nam Ca-li-phoóc-ni-a.
Đờ-rítx-côn gia nhập lực lượng Hải quân Mỹ
năm 1968 và trở thành phi công dẫn đường (RIO)
trên máy bay F-4. Trong ngày 10-5-1972, sau trận
không chiến với MiG-17 của Không quân Việt Nam,
khi quay trở về căn cứ của mình, máy bay của
Cơn-ninh-ham và Đờ-rítx-côn đã bị bắn rơi trên
biển. Cơn-ninh-ham và Đò-rítx-côn nhảy dù và
được cứu thoát.
Cùng với Cơn-ninh-ham, Đò-rítx-côn đã được
công nhận là hai phi công Aces (át chủ bài) duy
nhất của Hải quân Mỹ.
Uy-li-am Đờ-rítx-côn đã được tặng thưởng Huy
chương của Hải quân Mỹ Navy Cross.
Saù chiến tranh, Uy-li-am Đờ-rítx-côn trở
thành giáo viên bay tại Trường Naval Fighter
Weapons, đào tạo phi công chiến đấu của Hải quân
(TOP GUN), rồi trở thành giáo viên bay trên F-14
Tomcat của Phi đoàn 124 (VF-124), Phi đoàn thay
thế của Hạm đội F-14 cho Hạm đội Thái Bình
Dương tại NAS Miramar (hay là MCAS Miramar),
ở Xan Đi-ê-gô.
100
nguon tai.lieu . vn