Xem mẫu

  1. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 32 NĂNG LỰC VÀ VAI TRÒ ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) NCS.ThS. Bùi Võ Anh Hào Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM (UEF) Email: haobva@uef.edu.vn (Ngày nhận bài: 26/11/2015; Ngày duyệt đăng: 18/12/2015) TÓM TẮT Thời điểm Cộng đồng Kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC) chính thức đi vào hoạt động đã đến rất gần. Tham gia AEC sẽ mở ra rất nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt vị thế của Việt Nam trước vô vàn thách thức. Nhận diện được những cơ hội, thách thức đó mới là điều cốt lõi, nhưng quan trọng hơn nữa là phải tìm ra các biện pháp giúp đất nước tận dụng được những cơ hội, vượt qua những thách thức của vận hội này. Nâng cao năng lực đổi mới của quốc gia và của các doanh nghiệp chính là động lực giúp Việt Nam tham gia AEC thành công. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết này, tôi - tác giả bài viết tập trung luận bàn về các khái niệm đổi mới, năng lực đổi mới và vai trò của đổi mới; Đánh giá năng lực đổi mới của Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị giúp nâng cao năng lực đổi mới. Từ khóa: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), đổi mới, năng lực đổi mới. ABSTRACT It is almost time for the ASEAN Economic Community (AEC) to officially coming into operation . Joining the AEC will open up many opportunities and at the same will allow Vietnam to face many challenge. Identifying opportunities and new challenges is essential but it is also important to find measures to help the country take advantage of opportunities and overcome challenges. Enhancing the ability for the nation and businesses to innovate is the driving force to help Vietnam join the AEC successfully. In the limited scope of this article,I the author of this article, focuses on discussing concepts of changes for good and recommendations to enhance innovation capacity. Keywords: ASEAN Economic Community (AEC), innovate , innovation capacity. GIỚI THIỆU nghiên cứu. Xung quanh khái niệm “Đổi Đúc kết từ quá trình nghiên cứu về kinh tế mới” (Innovation) tồn tại nhiều cách trình học hành vi, phân tích lợi thế cạnh tranh, bày, diễn giải khác nhau. Theo OECD phân tích hệ thống kinh tế quốc gia và chế độ (2005): “đổi mới là một quá trình giới thiệu xã hội... (Greenacre et al., 2012), lý thuyết ra thị trường những sản phẩm, những quy đổi mới (Innovation theory) được khởi xướng trình mới hoặc được cải thiện đáng kể, ngoài bởi Joseph Schumpeter (1911), đã không ra bao gồm cả sự phát triển đổi mới trong tổ ngừng phát triển trong suốt hơn một thế kỷ chức và các kỹ thuật Marketing” (Oslo qua, với nhiều tác giả, nhiều trường phái Manual, 2005, p.15). Theo dự án “Tăng
  2. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 33 cường hệ thống thông tin Khoa học, Công Cùng với sự phát triển của Lý thuyết đổi nghệ và Đổi mới của các nước Bắc-Nam mới, khái niệm “Năng lực đổi mới” Mỹ”, đổi mới là một quy trình của những nỗ (Innovation capacity) cũng dần được hoàn lực để hình thành các mục tiêu tăng trưởng thiện. Theo trường phái “năng lực cốt lõi” kinh tế và duy trì cạnh tranh (Lugones, (Core competences), Gary Hamel và C.K 2012). Theo Fagerberg, đổi mới liên quan Prahalad (1994) cho rằng, năng lực đổi mới đến “sự kết hợp giữa kiến thức, năng lực, kỹ được thể hiện ở 3 khía cạnh: Giá trị mang lại năng và nguồn lực” (Fagerberg, 2003) trong cho khách hàng cuối cùng; Tương đối độc việc tìm kiếm lợi thế cạnh tranh thông qua đáo trong ý tưởng mà đối thủ cạnh tranh việc giảm chi phí sản xuất hoặc phát triển sản không dễ dàng nắm bắt được và khó có khả phẩm mới hoặc thay đổi những sản phẩm năng sao chép và tạo rào cản gia nhập ngành. hiện có… Nội hàm của Đổi mới cũng dần Còn theo trường phái “năng lực động” thay đổi. Theo hệ thống phân loại của (Dynamic capabilities), Teece and Pisano Schumpeter (1934, 1939), có 5 loại hình đổi (1994) định nghĩa: “năng lực đổi mới của mới: sản phẩm mới, phương pháp sản xuất một tổ chức là khả năng tích hợp, xây dựng mới, nguồn cung ứng mới, khai thác thị và định dạng lại những tiềm năng thuộc về trường mới hoặc cách thức mới để tổ chức nội lực và ngoại lực của doanh nghiệp để đáp kinh doanh. Theo Lugones (2012), đổi mới ứng với những thay đổi của môi trường kinh bao gồm: đổi mới sản phẩm (Product doanh”. Szeto (2000) định nghĩa năng lực đổi innovation), đổi mới quy trình (Process mới là sự cải tiến liên tục về khả năng innovation), đổi mới trong tổ chức (Capabilities) và nguồn lực (Resources) mà (Innovation in organisation) và đổi mới trong doanh nghiệp sở hữu để khám phá và khai thương mại (Innovation in thác nhiều cơ hội cho sự phát triển sản phẩm commercialisation). Còn theo OECD (2005), mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Vượt ra có 4 loại đổi mới cần phân biệt: đổi mới sản ngoài phạm vi của một tổ chức, Kühne và phẩm (Product innovation), đổi mới quy trình các cộng sự (2013) định nghĩa năng lực đổi (Process innovation), đổi mới Marketing mới trong sự liên kết giữa các tác nhân của (Marketing innovation) và đổi mới tổ chức một chuỗi giá trị. Định nghĩa được phát biểu (Organisational innovation)… Dù trình bày như sau: “Trong phạm vi chuỗi, năng lực đổi theo cách nào chăng nữa, thì tất cả các tác mới bao gồm toàn bộ quá trình đổi mới xảy giả, các trường phái đều có cùng chung nhận ra trong và giữa các thành viên của chuỗi. định, đổi mới giữ một vị trí đặc biệt quan Quá trình này được mô tả bằng cách sử dụng trọng trong nền kinh tế hiện đại, vì nó góp hai chỉ số nguyên nhân của năng lực đổi mới: phần cải thiện vị thế cạnh tranh của doanh nỗ lực, các hoạt động và một chỉ số kết quả. nghiệp, của ngành và quốc gia. Đổi mới Chỉ số nỗ lực nhằm phản ảnh những đầu tư thành công được xem là một nỗ lực chiến vào nguồn nhân lực, tài chính, thông tin. Chỉ lược nhằm tạo nên sự khác biệt của tổ chức số hoạt động thể hiện những nỗ lực được ứng và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững dụng nhằm nâng cao xác suất hoặc xu hướng (Huizenga, 2000). đổi mới đối với sản phẩm, thị trường... Cuối cùng, chỉ số kết quả đo lường dưới dạng vô
  3. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 34 hình hoặc hữu hình. Kết quả hữu hình thể toán dựa trên sự đánh giá của các tổ chức uy hiện tốc độ tăng trưởng của thị phần và lợi tín, như: Ngân hàng thế giới (World Bank), nhuận, trong khi đó kết quả vô hình đề cập UNESCO, OECD, Tổ chức quốc tế về tiêu đến sự tăng cường ổn định, hiệu quả và danh chuẩn hóa (ISO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tiếng của doanh nghiệp...”. Như vậy, có thể Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngân hiểu năng lực đổi mới chính là mức độ hoặc hàng phát triển Châu Á (Asian Development khả năng mà một doanh nghiệp, một ngành Bank - ADB), đại học Yale, đại học hoặc một quốc gia sử dụng các nguồn lực để Columbia (Hoa Kỳ)... tiến hành các hoạt động đổi mới của mình Nâng cao năng lực đổi mới là biện pháp quan như thế nào, năng lực đó có thể hướng đến trọng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới doanh nghiệp, sản phẩm và quốc gia, là giải tổ chức hoặc đổi mới Marketing. Về tầm pháp “cứu cánh” giúp Việt Nam vượt qua quan trọng của năng lực đổi mới, các nhà thách thức cam go nhất khi tham gia AEC – nghiên cứu cùng chung nhận định với cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu không Higgins, khi cho rằng: “Một tổ chức chỉ có vượt qua được các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thể tồn tại và phát triển thịnh vượng trong thế bị thua ngay trên sân nhà! kỷ 21 nếu như họ biết đánh giá năng lực đổi Vậy, năng lực đổi mới của Việt Nam đang ở mới và có hành động chiến lược để nâng cao đâu trong bảng tổng sắp của ASEAN, chúng năng lực đó” (Higgins, 1995, pp 34-35). ta thực sự có những điểm mạnh, điểm yếu gì Kể từ khi lý thuyết đổi mới ra đời, phương trong lĩnh vực này? pháp đo lường năng lực đổi mới luôn được quan tâm nghiên cứu (Tidd et al., 1993). Trải THỰC TRẠNG “NĂNG LỰC ĐỔI MỚI” qua quá trình sàng lọc, các chỉ số chi tiêu CỦA VIỆT NAM SO VỚI CÁC QUỐC R&D (R&D expenditures), số lượng bằng GIA ASEAN sáng chế (Patent counts) và chất lượng nguồn Theo báo cáo GII trong 2 năm 2013 và 2014, nhân lực… được xem là những chỉ tiêu cơ Việt Nam chỉ ở vị trí “trung bình” trong bảng bản để đo lường năng lực đổi mới. Kết quả tổng sắp. Nếu năm 2013 có 142 quốc gia và của quá trình cộng tác giữa Tổ chức Sở hữu vùng lãnh thổ tham gia xếp hạng thì Việt Trí tuệ Thế giới (WIPO) và Mạng lưới kinh Nam ở vị trí thứ 76; năm 2014 trong danh tế INSEAD đã hình thành bảng phân tích sách 143 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt “Chỉ số đổi mới toàn cầu” (Global Nam đứng thứ 71. Trong các nước ASEAN, Innovation Index - GII). Bộ chỉ số GII gồm Việt Nam cũng giữ vị trí tương tự (xem bảng hơn 60 chỉ tiêu, trong đó ba chỉ số vừa nêu 1) được xem là cốt lõi. Giá trị của GII được tính
  4. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 35 Bảng 1. Chỉ số đổi mới toàn cầu của các quốc gia ASEAN năm 2013-2014 Quốc gia 2013 2014 Xếp hạng (142 quốc gia) Điểm số Xếp hạng (143 quốc gia) Điểm số Singapore 8 59,4 7 59,2 Malaysia 32 46,9 33 45,6 Thái Lan 57 37,6 48 39,3 Việt Nam 76 34,8 71 34,9 Indonesia 85 32,0 87 34,9 Brunei 74 35,5 88 31,7 Philippine 90 31,2 100 29,9 Campuchia 110 28,1 106 28,7 Myanmar - - 140 19,6 Bảng 1 cho thấy, trong bảng xếp hạng năng Chỉ số nghiên cứu - phát triển (R&D) lực đổi mới của ASEAN, Việt Nam luôn ở vị R&D (Research and Development) được trí “tầm tầm bậc trung”, tồn tại một khoảng định nghĩa là những hoạt động nghiên cứu, cách khá xa giữa chúng ta với các nước phát sáng tạo nhằm gia tăng nguồn tri thức, bao triển trong khối, cụ thể: nếu Singapore nằm gồm nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và thử trong tốp 10, Malaysia trong tốp 30, Thailand nghiệm để tạo ra sản phẩm/quá trình/thiết bị đã “chen chân” vào được tốp 40, thì chúng ta mới. Chi tiêu R&D là chi phí đầu tư cho vẫn quẩn quanh ở tốp 70. Trừ Lào, chưa những hoạt động trên và được tính toán theo tham gia xếp hạng, năng lực cạnh tranh của tỷ lệ phần trăm so với GDP (World Bank, Việt Nam gần tương đương với Indonesia và WDI, 2013). Chi tiêu R&D là chỉ số quan Brunei; chúng ta chỉ đứng trên Philippine, trọng nhất để đánh giá năng lực đổi mới. Một Campuchia và Myanmar. Điều này cho thấy, số quốc gia trên thế giới xem R&D như khi tham gia AEC, nếu không tạo ra được sự nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh; Trong khu “bứt phá” về năng lực đổi mới, chúng ta sẽ vực Châu Á, năm 2014 Hàn Quốc là quốc gia gặp rất nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh chi ngân sách cho R&D cao nhất – chiếm đến với các nước trong khối. 4,36% GDP, tiếp theo là Nhật Bản – 3,34%, Để có thể đánh giá chính xác hơn năng lực Singapore – 2,23%, Trung Quốc – 1,98 đổi mới của đất nước, dưới đây sẽ đi sâu Trong khi đó, tỷ lệ này ở Việt Nam chỉ dừng phân tích một số chỉ số cơ bản, cụ thể: ở con số xấp xỉ 0,2% GDP (xem bảng 2). Bảng 2. Chi tiêu R&D của Việt Nam so với các quốc gia Châu Á giai đoạn 2011-2014 Quốc gia 2011 2012 2013 2014 Giá trị Xếp hạng Giá Xếp Giá trị Xếp Giá trị Xếp hạng trị hạng hạng Hàn Quốc 3.21 5 3.36 5 3.74 3 4.36 1 Nhật Bản 3.44 4 3.45 4 3.26 5 3.34 5 Singapore 2.52 12 2.66 11 2.09 16 2.23 16 Trung Quốc 1.44 24 1.47 25 1.76 21 1.98 19 Malaysia 0.64 46 0.63 49 0.63 49 1.07 34 Thái Lan 0.25 65 0.21 82 0.21 81 0.25 81 Việt Nam 0.19 73 0.19 87 0.2 85 0.21 87 Nguồn: Tổng hợp báo cáo GII từ năm 2011-2014 của WIPO và INSEAN
  5. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 36 Số liệu bảng 2 cho thấy, so với các nước Điểm yếu đặc biệt của hoạt động R&D của trong khu vực, chi tiêu cho hoạt động R&D Việt Nam là chuỗi hoạt động R&D bị đứt của Việt Nam rất thấp. Chi từ ngân sách Nhà gãy. Việt Nam không thiếu những người có nước đã rất hạn chế, ít ỏi, còn nếu xét dưới khả năng nghiên cứu sáng tạo, nhưng tại sao góc độ doanh nghiệp, thì mức chi tiêu này lại một bộ phận không nhỏ lại cống hiến ở nước càng ít hơn, chỉ khoảng 0,01% doanh thu. ngoài hoặc lui về ở ẩn? Có lẽ là do cơ chế và Một điển hình là 28 tổng công ty 90 - 91, cách sử dụng, đãi ngộ các nhà nghiên cứu. mặc dầu chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư khoa Sau khi được đào tạo ở trong và ngoài nước, học công nghệ của các doanh nghiệp cả đội ngũ nghiên cứu của Việt Nam phần lớn nước, nhưng tỷ lệ đầu tư cho R&D chỉ chiếm được tập trung ở các trường, viện. Do hoàn 0,05-0,1% doanh thu (Trần Văn Tùng, 2011). cảnh lịch sử, các trường, viện rất ít gắn kết Năng lực đổi mới không tự nhiên có được, với các cơ quan thực tế, các viện nghiên cứu mà là kết quả của quá trình đầu tư, tích lũy chủ yếu để làm công tác “đối ngoại”, các dài lâu, chỉ khi nào các nhà lãnh đạo (quốc trường tập trung làm nhiệm vụ đào tạo (các gia, địa phương, ngành, doanh nghiệp) nhận trường đại học của Việt Nam đều là trường thức được vai trò đặc biệt quan trọng của đào tạo, gần đây mới có một số trường R&D, nỗ lực tìm kiếm và khai phá các tri chuyển sang định hướng nghiên cứu, trong thức mới thì quá trình đổi mới mới có thể tương lai mới có trường đại học nghiên cứu). thành công, hy vọng nâng cao năng lực cạnh Nghiên cứu chay, không gắn với thực tế, kết tranh để tham gia vào các chuỗi sản quả nghiên cứu được xếp trong tủ kính chỉ để xuất/chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu tính điểm công trình, làm cho chất lượng các mới có thể trở thành hiện thực. Nhưng đáng cơ sở nghiên cứu ngày càng mai một. Việt tiếc, hiện nay phần lớn các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện có 2.200 cơ sở thực hiện chức Nam vẫn chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ năng R&D cùng với hơn 200 trường đại học về vai trò của R&D, nên chưa quan tâm đúng có khả năng nghiên cứu khoa học, được Nhà mức đến hoạt động này. nước cấp kinh phí. Từ nhiều năm nay năng Mức chi tiêu cho nghiên cứu khoa học quá ít lực R&D, đổi mới công nghệ của các cơ sở ỏi, cách cấp vốn mang nặng tính bao cấp, dàn này còn hạn chế và phân tán, dẫn đến tình trải, manh mún (mỗi đề tài cấp cơ sở trung trạng hiệu quả đầu tư của nhà nước thấp, bình được cấp 1 – 1,5 nghìn USD, đề tài cấp không đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo Bộ, tỉnh trung bình được cấp 7 – 15 nghìn đánh giá của WIPO và INSEAD, trong giai USD, chỉ đủ để thu thập số liệu, điều tra khảo đoạn 2011-2014, chất lượng của các tổ chức sát theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện nghiên cứu khoa học ở nước ta chỉ đạt mức hoặc tiến hành thí nghiệm, không đủ kinh phí trên trung bình trong thang đo 7 cấp độ (từ 1: để triển khai ứng dụng, kiểm chứng… Dẫn rất nghèo nàn đến 7: rất tốt) trong lĩnh vực đến chất lượng bị hạn chế), cộng thêm quy nghiên cứu và được quốc tế công nhận (xem trình chọn, phê duyệt đề tài, cấp vốn nặng nề, bảng 3). Bảng 3 cung cấp những số liệu rất phức tạp, chậm chạp và cách quản lý tài đáng báo động về chất lượng các tổ chức chính máy móc, làm không ít nhà nghiên cứu nghiên cứu khoa học của nước nhà. Nếu tâm huyết nản lòng. trong 4 năm gần đây, chất lượng các tổ chức
  6. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 37 nghiên cứu khoa học của Nhật Bản không trụ vững hoặc tụt hạng đôi chút, nhưng điểm ngừng được cải thiện cả về thứ hạng lẫn điểm đánh giá tăng; Riêng chất lượng các tổ chức đánh giá – năm 2011 xếp hạng 15 với điểm nghiên cứu khoa học của Việt Nam vốn đã bị đánh giá là 5,32; năm 2014 tăng 5 hạng, xếp đánh giá thấp - năm 2011 xếp hạng 59 với hạng 10 với điểm đánh giá là 5,59. Tình hình điểm đánh giá 3,77 - những năm gần đây lại của Malaysia và Hàn Quốc cũng tương tự, bị tụt hạng khá xa với điểm đánh giá cũng bị đặc biệt Malaysia trong 4 năm tăng 10 bậc. suy giảm. Các nước Singapore, Trung Quốc, Thái Lan Bảng 3. Chất lượng tổ chức nghiên cứu khoa học của Việt Nam so với các quốc gia châu Á giai đoạn 2011-2014 Quốc gia 2011 2012 2013 2014 Giá trị Xếp Giá trị Xếp Giá trị Xếp Giá trị Xếp hạng hạng hạng hạng Nhật Bản 5.32 15 5.54 11 5.58 11 5.59 10 Singapore 5.54 11 5.53 12 5.56 13 5.56 13 Malaysia 4.67 31 4.86 23 4.87 21 4.86 21 Hàn Quốc 4.82 24 4.82 24 4.86 22 4.85 22 Trung Quốc 4.32 36 4.31 36 4.34 36 4.34 36 Thái Lan 3.83 55 3.86 56 3.87 57 3.88 55 Việt Nam 3.77 59 3.55 71 3.54 71 3.54 71 Nguồn: tổng hợp báo cáo GII từ năm 2011-2014 của WIPO và INSEAD Năng lực R&D không chỉ chịu ảnh hưởng Mata (2010) sử dụng thang đo 7 cấp độ (từ 1: của chất lượng các tổ chức nghiên cứu khoa không liên kết cho đến 7: cộng tác chuyên học, mà còn chịu tác động của mức độ hợp sâu) để đánh giá hoạt động trao đổi và ứng tác giữa các tổ chức nghiên cứu và ứng dụng. dụng tri thức khoa học của các nước. Cường Để đo lường mức độ cộng tác nhằm thúc đẩy độ hợp tác càng cao càng thể hiện năng lực nghiên cứu và phát triển giữa các trường đại đổi mới được xây dựng trên nền tảng vững học và doanh nghiệp ứng dụng, Carlos và chắc (Xem bảng 4). Bảng 4. Mức độ hợp tác R&D giữa trường đại học và doanh nghiệp tại một số quốc gia Quốc gia 2011 2012 2013 2014 Singapore 5.44 5.47 5.59 5.62 Malaysia 4.7 4.91 4.98 5.02 Nhật Bản 4.86 5.06 5.03 4.96 Hàn Quốc 4.68 4.66 4.7 4.69 Trung Quốc 4.59 4.53 4.37 4.41 Thái Lan 4.07 4.15 4.01 3.92 Việt Nam 3.66 3.4 3.24 3.34 Nguồn: tổng hợp báo cáo GII từ năm 2011-2014 của WIPO và INSEAD
  7. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 38 Quá trình hợp tác không diễn ra tự nhiên, cạnh tranh của Việt Nam, nhưng nguồn mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực gắn kết và nhân lực với chất lượng không cao đã kéo chia sẻ thông tin giữa các bên tham gia, tạo theo năng suất thấp (thấp hơn Singapore điều kiện cho dòng ý tưởng, tri thức mới gần 15 lần, bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái lan tỏa qua nhiều kênh. Trường đại học Lan). Hiện nay, nguồn nhân lực khoa học hoặc viện nghiên cứu được ví là nơi sản và công nghệ tại các doanh nghiệp Việt sinh tri thức và đội ngũ nhân lực phục vụ Nam chỉ chiếm 7,25% lực lượng lao động; cho công tác R&D, trong khi doanh nghiệp chất lượng nguồn nhân lực cũng còn thấp rất cần nguồn lực đó để khai thác, ứng và có khoảng cách khá lớn so với các nước dụng và thương mại hóa công nghệ. Số trong khu vực. Nếu lấy thang điểm là 10 liệu bảng 4 cho thấy, chỉ số về mức độ hợp thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ tác của Việt Nam rất thấp, chỉ xấp xỉ 3,5 đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á điểm/7 và có hiện tượng suy giảm qua các tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới năm. Hay nói cách khác giữa trường đại (Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 học/viện nghiên cứu và doanh nghiệp chưa điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm...) (Mạc Văn tìm được tiếng nói chung, phản ánh hiện Tiến, 2015). trạng “đào tạo/nghiên cứu một đằng, ứng Để khắc phục tình trạng thiếu hụt lực dụng một nẻo”. Đây chính là điểm yếu cốt lượng nghiên cứu, một số quốc gia đã áp tử của giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa dụng các giải pháp: đẩy mạnh phát triển học nước nhà. giáo dục và đào tạo, tăng cường khuyến Chi tiêu cho R&D hạn hẹp, chưa nhận thức khích học sinh, sinh viên đăng ký theo học được vai trò quan trọng của R&D, cộng các ngành công nghệ. Ở trình độ trên đại thêm khả năng tổ chức còn nhiều yếu kém, học, nhiều nước đang rút ngắn thời gian chuỗi hoạt động R&D bị đứt gãy…, làm nghiên cứu, bổ sung tính hữu ích của cho hiệu quả hoạt động R&D đã kém lại chương trình khi gắn đào tạo với thực tiễn càng kém hơn. sản xuất. Ngoài ra, chính phủ còn có nhiều Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực biện pháp khuyến khích chiêu mộ nhân lực Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực kết hợp R&D tại doanh nghiệp thông qua tạo việc với chỉ số R&D tạo thành cặp chỉ số cơ làm trong các ngành nghề sử dụng nhiều bản để đánh giá năng lực đổi mới. Nguồn nhà nghiên cứu. Bên cạnh đó, để tăng sự nhân lực phục vụ cho đổi mới bao gồm hấp dẫn trong lĩnh vực công nghệ, nhiều những người phục vụ cho công tác R&D, nước đã tăng lương, học bổng cho nghiên các nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên hoạt cứu sinh và nghiên cứu sau tiến sỹ, tăng động trong lĩnh vực khoa học-công nghệ phúc lợi xã hội, cải thiện điều kiện tuyển và nguồn nhân lực tiềm năng trong tương dụng… (Nguyễn Bích Thủy, 2011). Nhưng lai... Chất lượng nguồn nhân lực quyết cho đến, Việt Nam vẫn chưa thực sự triển định khả năng đổi mới. Điều đáng lo ngại khai hiệu quả những biện pháp này, chính là chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho vì vậy sẽ phải đối phó với thách thức kép – đổi mới của Việt Nam còn thiếu và yếu. thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng Thực tế cho thấy, lao động giá rẻ là lợi thế
  8. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 39 thời sẽ bị chảy máu chất xám khi tham gia Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày AEC. càng sâu rộng với thế giới về mọi mặt, Chỉ số kết quả tương tác tri thức: bằng trong đó có cả khoa học và công nghệ, sáng chế nhưng số liệu thống kê về số bằng sáng chế Theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ được cấp đã gióng lên hồi chuông báo thế giới (WIPO), bằng sáng chế là một văn động về kết quả đáng lo ngại cho nền khoa bản được ban hành bởi một cơ quan của học nước nhà. Việc khan hiếm bằng sáng chính phủ, cấp các hình thức độc quyền chế đăng ký tại Mỹ (USPTO) đồng nghĩa (chế tạo, bán, sử dụng, nhập khẩu) cho một với nghiên cứu cơ bản còn rất yếu kém và nhà phát minh hoặc người ủy quyền trong tình hình ứng dụng còn tệ hơn, vì người một thời hạn nhất định để đổi lấy việc công nghiên cứu ứng dụng sẽ công bố kết quả bố hoặc mô tả sáng chế đó. Số bằng sáng nghiên cứu dưới dạng bằng sáng chế. Báo chế có khả năng dự báo năng lực đổi mới, cáo của USPTO về số bằng sáng chế của vì nó chính là kết quả của quá trình tương các nước ASEAN được cấp đầu thế kỷ 21 tác tri thức, của R&D và quyết định tính cho thấy, Singapore là nước có nhiều bằng mới của một sản phẩm. Bằng sáng chế sáng chế nhất với 2.496 bằng, gấp khoảng không chỉ phản ánh hiệu quả thực tiễn của 3 lần nước đứng thứ hai về thành tích này - các kết quả nghiên cứu lý thuyết, mà còn Malaysia. Một quốc gia tương đương về cho biết tiềm lực về nghiên cứu ứng dụng. dân số và trình độ phát triển với Việt Nam Thực tế cho thấy, những nước có nhiều như Philippines thì cũng có đến 27 bằng bằng sáng chế thì thường xuất khẩu những sáng chế quốc tế. Còn với Việt Nam số sản phẩm công nghệ cao và thu nhiều lợi lượng bằng sáng chế chỉ đếm trên đầu nhuận. ngón tay. (Xem bảng 5). Bảng 5. Số lượng bằng sáng chế được cấp Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam Năm Không định WIPO Định cư cư 2000 12 715 2001 7 776 2002 9 734 2003 17 757 2 2004 22 676 1 2005 27 641 2 2006 44 625 2007 34 691 2008 39 627 2 2009 29 677 2 2010 29 793 4 2011 48 1796 2012 52 1016 4 Nguồn: WIPO và USTPO
  9. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 40 Số liệu bảng 5 cho thấy, trong 13 năm đầu phổ biến kiến thức về hội nhập, cần bổ thế kỷ 21, Việt Nam đăng ký được 17 bằng sung thêm kiến thức về Quản trị đổi mới. sáng chế quốc tế, trung bình mỗi năm cả Về lâu dài, cần đào tạo bài bản kiến thức một dân tộc có 90 triệu dân được cấp 1,3 về Quản trị Đổi mới bằng cách đưa môn bằng sáng chế. Trong đó, năm được cấp học này vào chương trình đào tạo cao học nhiều nhất là 4 bằng, năm ít nhất là 1 bằng, về Quản trị kinh doanh và Chương trình đặc biệt có 6/13 năm không được cấp bằng bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ lãnh đạo. sáng chế nào. Phần lớn các nhà nghiên cứu (2) Nhận thức đúng, sẽ dẫn đến hành động Việt Nam chỉ đăng ký tại Cục Sở hữu Trí đúng. Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò tuệ Việt Nam, số lượng bằng cấp hàng năm đặc biệt quan trọng của đổi mới, các cấp tăng lên đáng kể, nhưng các hình thức này lãnh đạo sẽ có những quyết định đúng đắn chỉ có giá trị nội địa. Số bằng sáng chế trong việc xác định mức chi tiêu cho quốc tế được cấp ít ỏi cho thấy thực trạng nghiên cứu khoa học, cùng cách chi tiêu và đáng buồn: thứ nhất, chất lượng nghiên quản lý vốn đầu tư cho nghiên cứu sáng cứu sáng tạo của chúng ta chưa theo kịp tạo một cách khoa học, hợp lý. Đặc biệt là khu vực và thế giới; thứ hai, Việt Nam đã cách trọng dụng, đãi ngộ đội ngũ các nhà hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, nghiên cứu một cách xứng đáng. nhưng riêng trong lĩnh vực khoa học thì (3)Gắn kết hoạt động của các viện nghiên hội nhập chưa thành công bởi các nhà cứu, trường đại học với hoạt động sản xuất nghiên cứu Việt Nam hoặc vì hoàn cảnh kinh doanh trong nước và quốc tế, nhằm hoặc vì thói quen vẫn chưa mạnh dạn, tự xóa đi những đứt gãy trong chuỗi hoạt tin công bố và đăng ký kết quả nghiên cứu động R&D, rút ngắn chu kỳ nghiên cứu - của mình trên trường quốc tế. ứng dụng, nhanh chóng áp dụng các kết quả nghiên cứu đạt được. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ (4) Phổ biến rộng rãi quy trình, cách thức Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về năng lực đăng ký các bằng phát minh, sáng chế, đổi mới, phân tích đánh giá năng lực đổi công bố kết quả nghiên cứu trên trường mới của Việt Nam, nhóm nghiên cứu xin quốc tế cho các nhà nghiên cứu Việt Nam. đề xuất một số khuyến nghị nhằm giúp Tạo điều kiện thuận lợi và có đãi ngộ xứng nâng cao năng lực đổi mới, giúp đất nước đáng cho các nhà nghiên cứu được cấp tham gia AEC thành công và hiệu quả: bằng sáng chế, được công bố kết quả (1) Năng lực đổi mới của Việt Nam nói nghiên cứu bởi các tổ chức quốc tế có uy chung, của các doanh nghiệp Việt Nam nói tín. Bằng cách này sẽ giúp rút ngắn khoảng riêng, chỉ có thể được nâng cao, một khi cách giữa Việt Nam và các nước phát triển các cấp lãnh đạo thấu hiểu về đổi mới, tính trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh cấp thiết, sống còn của việc nâng cao năng vực nghiên cứu sáng tạo. lực đổi mới, cùng cách quản lý hoạt động (5)Năng lực đổi mới của Việt Nam chỉ có đổi mới một cách hiệu quả, đặc biệt trong thể được phát triển bền vững, không giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này, ngừng, một khi có những “Con người Việt trong các chương trình/khóa huấn luyện, Nam chủ động, sáng tạo”. Chính vì vậy,
  10. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 41 nhóm nghiên cứu cho rằng: Đào tạo, rèn khác, dạy các kiến thức chuyên môn để các luyện con người có tinh thần chủ động, em có thể thực sự chủ động, dám đổi mới, sáng tạo và tự chủ, dám nghĩ, dám làm, thích đổi mới để có cuộc đời tốt đẹp hơn, dám đổi mới là giải pháp nền tảng, xuyên trong mọi suy nghĩ và hành động của mình. suốt, vừa là giải pháp khẩn cấp, trước mắt, Không chỉ học lý vừa là giải pháp cơ bản,lâu dài, phải thực thuyết mà còn yêu cầu các em thực hành, hiện ngay và thực hiện mãi. Để xây dựng làm những công việc thiết thực, cụ thể để chương trình đào tạo “Con người Việt Nam nâng cao tính chủ động, sáng tạo, luôn đổi chủ động, sáng tạo”, theo nhóm nghiên cứu, mới. Song song với việc đào tạo thế hệ trẻ, cần học tập kinh nghiệm của Mỹ và Đức, cần từng bước xây dựng kế hoạch và bắt đầu từ bậc giáo dục mầm non, cho đến chương trình đào tạo, tái đào tạo đội ngũ đại học. Ngay từ nhà trẻ, mẫu giáo đã dạy cán bộ quản lý từ trung ương đến địa cho các em biết chủ động trong ăn uống, phương, các doanh nhân, các bậc cha mẹ… vui chơi, ở các bậc học tiếp theo, thông qua về tính chủ động, sáng tạo và nâng cao khả môn “Giáo dục công dân” và các môn học năng chủ động, sáng tạo, để có thể kết hợp khác dạy cho các em cách chủ động suy chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội nghĩ, ra quyết định và hành động. Ở đại học để đào tạo “Con người Việt Nam chủ động, và các bậc cao hơn, thông qua môn “Quản sáng tạo. trị chiến lược” và các môn học quản trị TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. NGUYỄN BÍCH THỦY, (2011). Phát triển nhân lực KH&CN: Lời giải cho tăng trưởng và phát triển bền vững. Tạp chí tiêu chuẩn đo lường chất lượng, số 4, tr. 20-21. 2. TRẦN VĂN TÙNG, (2011). Chuyển giao công nghệ và tiếp thu công nghệ: Phải mở cửa thị trường. Tạp chí tiêu chuẩn đo lường chất lượng, số 4, tr. 10-11. Tiếng Anh 1. FAGERBERG, J, (2003). Innovation: A Guide to the Literature. Centre for Technology, Innovation and Culture, University Oslo 2. GREENACRE PHILIP, ROBERT GROSS AND JAMIE SPEIRS, (2012). Innovation Theory: A review of the literature. ICEPT Working Paper, 5 (11): 5- 46. 3. KÜHNE BIANKA, XAVIER GELLYNCK, ROBERT D. WEAVER, (2013). The influence of relationship quality on the innovation capacity in traditional food chains. Supply Chain Management Journal, 18 (1): 52 – 65. 4. LUGONES GUSTAVO, (2012). Training module for the recollection and analysis of innovation indicators. Working paper 8. Inter-American Development Bank. 5. OECD, (1997b). Oslo Manual. Proposed Guidelines for Collecting and Interpreting Technological Innovation Data. Second edition. Paris.
  11. Bản tin Khoa học Trẻ số 1(2), 2015 42 6. OECD, (2005). The Measurement of Scientific and Technological Activities: Guidelines for collecting and interpreting innovation data. Third edition, A joint publication of OECD and Eurostat. 7. SCHUMPETER, J. A, (1911). The Theory of Economic Development. Leipzig: Duncker &Humblot. 8. SCHUMPETER, J. A, (1934). The Theory of Economic Development: an Inquiry into Profits,Capital, Credit, Interest and Business Cycles. Cambridge, MA: Harvard University Press. 9. SCHUMPETER, J, (1939). Business Cycles: A Theoretical, Historical, and Statistical Analysis of the Capitalist Process. New York: McGraw-Hill Book Company Inc. 10. TEECE, D.J., PISANO, G. AND SHUEN, A, (1997). Dynamic capabilities and strategic management. Strategic Management Journal, 18 (7): 509-3
nguon tai.lieu . vn