- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Năng lực học sinh người dân tộc thiểu số - Tiền đề cơ bản để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng đảm bảo phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số
Xem mẫu
- NĂNG LỰC HỌC SINH NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ - TIỀN ĐỀ CƠ BẢN ĐỂ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÓ CHẤT LƯỢNG ĐẢM BẢO PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
Phạm Hồng Quang –PGS.TS Giáo dục
Trường ĐHSP-ĐH Thái Nguyên
1. Đặt vấn đề
2. Kết quả hợp tác đã đạt được như
Phát triển bền vững được hiểu đồng nghĩa sau:
với việc chuẩn bị nguồn nhân lực có chất
2.1.Về ý nghĩa giáo dục nhân văn của
lượng. Theo UNDP, khái niệm phát triển
chương trình nghiên cứu
nguồn nhân lực gồm: "phát triển nhân tính và
khả năng của con người; sử dụng có hiệu quả Việc các giáo sư của trường Đại học
những khả năng ấy". Từ khái niệm này có thể Ryukyu ở Ôkinawa có ý tưởng và triển khai
hiểu rõ thêm vị trí vai trò của giáo dục cực kì nghiên cứu về giáo dục đối với người DTTS
quan trọng đối với phát triển, kết quả của giáo qua phương pháp so sánh giữa 2 vùng của Việt
dục còn được hiểu chính là “sử dụng có hiệu Nam và Nhật Bản là một công trình có ý nghĩa
quả những khả năng ấy”. Trong sự nghiệp đổi nhân văn sâu sắc. Ý nghĩa nhân văn được thể
mới căn bản giáo dục và đào tạo, khái niệm hiện ở các khía cạnh sau đây:
năng lực được nói đến từ phạm vi mục tiêu đến i)Đối tượng của chương trình nghiên cứu
nội dung chương trình và đánh giá, có thể nói hướng đến là con người-trẻ em dân tộc thiểu
phạm trù năng lực là kết quả, là đích đến của số, ở Việt Nam đây là đối tượng chiụ nhiều
hệ thống giáo dục. Một người được xem như thiệt thòi về điều kiện sống khó khăn, giao
có năng lực khi người đó có khả năng giải thông trở ngại, trình độ sản xuất thấp, ít có cơ
quyết các vấn đề của thực tiễn đặt ra. Do vậy, hội giao lưu, đặc biệt là khả năng học tiếp tục
khái niệm năng lực dùng trong nhà trường hiện chiếm tỉ lệ thấp…Vấn đề phát triển giáo dục
nay được hiểu là sự tổng hợp những thuộc tính vùng có người dân tộc thiểu số, đặc biệt là trẻ
của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu em đã được chính phủ Việt Nam quan tâm đặc
của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt biệt và dành nhiều chính sách ưu tiên và phát
được những kết quả cao. Đối với học sinh triển. Do vậy, chương trình nghiên cứu giúp
người Dân tộc thiểu số (DTTS), việc hình cho phía Việt Nam có thêm nhiều kinh nghiệm
thành năng lực cho các em thông qua hệ thống trong việc hoạch định chính sách (đặc biệt đối
giáo dục nhà trường là một việc làm quan với chính sách giáo dục) đối với người dân tộc
trọng để góp phần phát triển bền vững. Sau thiểu số;
gần 10 năm quan hệ hợp tác với Trường Đại
học Ryukyu Nhật Bản, Trường ĐHSP-ĐH ii) Kết quả nghiên cứu về các hoạt động
Thái Nguyên đã có thêm kinh nghiệm trong giáo dục trên đối tượng người dân tộc thiểu số
giáo dục vùng DTTS. Dưới đây là kết quả đối đã giúp phía Việt Nam có thêm dữ liệu khoa
chiếu so sánh giữa chương trình hợp tác giữa 2 học để khẳng định: trình độ, năng lực của các
trường, dựa trên thực nghiệm nghiên cứu về em học sinh là người dân tộc thiểu số có đầy
giảng dạy (trong đó có dạy tiếng Việt) ở vùng đủ khả năng tiếp cận nền giáo dục mới; các em
DTTS Việt Nam (Trường Tiểu học Thượng có đầy đủ các tố chất và sự thông minh để
Nung và Cúc Đường, Võ Nhai, Thái Nguyên). tham gia giáo dục bình đẳng so với người Kinh
Chúng tôi coi đây là kinh nghiệm tốt để phát cũng như các dân tộc khác;
triển năng lực người học ở những vùng đặc iii) Kết quả giáo dục đã tạo ra niềm tin
biệt khó khăn. của người học đối với bản thân mình –đây là
kết quả quan trọng của chiến lược giáo dục con
người. Khi người học có niềm tin về bản thân
241
- sẽ giúp họ có động lực học tập tích cực, có i) Việc chuẩn bị của giáo viên (Người
được sự hăng hái và say mê bởi họ được tôn Nhật Bản) rất cẩn thận, đầu tư rất nhiều trí tuệ
trọng và khích lệ trong suốt quá trình học cũng cho công tác chuẩn bị; điều đáng nói ở đây là
như khi tham gia vào đời sống xã hội; nhiều dụng ý sư phạm tốt được chuẩn bị để thể
hiện ý tưởng dạy học từ những vật liệu, dụng
iv) Sự bình đẳng giữa người dạy (chuyên
cụ hết sức đơn giản, dễ tìm, dễ làm.
gia giáo dục nước ngoài) với người học (học
sinh người dân tộc thiểu sô) thông qua hoạt ii) Trong hoạt động giảng dạy, giáo viên
động giao tiếp rất quan trọng đối với trẻ em coi trọng khâu khởi động (bằng nhiều hình
vùng dân tộc thiếu sô vốn ít có cơ hội mở thức, phương án…) đã làm xóa đi khoảng cách
mang các quan hệ giao tiếp. vốn có giữa người dạy và người học; các vấn
đề dạy học được nêu ra bằng tình huống (câu
2.2. Ý nghĩa về lí luận khoa học giáo dục
hỏi, vấn đề, hình mô phỏng…) rất hấp dẫn tạo
Kết quả của chương trình nghiên cứu đã sự chăm chú và hấp dẫn ngay từ phút đầu.
làm phong phú thêm các lí thuyết về giáo dục.
iii) Sự tham gia của học sinh vào bài học
Đặc biệt ở Việt Nam gần 20 năm qua đang
được diễn ra một cách tự nhiên, tích cực, như
quan tâm đến mệnh đề “Dạy học lấy học sinh
là bổn phận của người học và rất hào hứng…
làm trung tâm”. Thực chất đây là quan điểm,
hướng tiếp cận giáo dục tiến bộ có ý nghĩa Phương án dạy học tích cực lấy học sinh
nhân văn về việc tôn trọng và tích cực hóa làm trung tâm đã được chứng minh thông qua
người học-thực chất là công việc lõi của hoạt các bài giảng của các giáo sư và sinh viên đến
động nhà trường; quan điểm này muốn khẳng từ khoa Giáo dục trường Đại học Ryukyu.
định việc nhận thức và hành động cho đúng Chúng tôi là những giảng viên Trường Đại học
bản chất, yêu cầu và mục tiêu tốt đẹp của giáo Sư phạm và các sinh viên sư phạm đã hiểu sâu
dục, khác với cách làm sai lầm: dạy học lấy sắc thêm về lí thuyết giáo dục từ các bài giảng
người thầy làm trung tâm. Tuy nhiên về thực đó. Điều cảm nhận chung được rút ra là người
tiễn ở Việt Nam ở một số năm gần đây đang có học (ở đây là học sinh người dân tộc thiểu số)
xu hướng coi nhẹ vai trò của người thầy, hiểu lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với người
máy móc việc dạy học lấy học học sinh làm nước ngoài, xa lạ về ngôn ngữ, văn hóa, nhưng
trung tâm là khoán mọi việc cho học sinh. Về rất gần gũi, cởi mở về phong cách giao tiếp.
bản chất phải hiểu đúng “Dạy học lấy hoạt Khi quan sát các giờ dạy của các giáo sư Nhật
động học của người học làm trung tâm” do đó Bản, chúng tôi không nhìn thấy khoảng cách
mọi hình thức, việc làm của hệ thống nhà thầy-trò, vốn thường thấy trong giờ dạy học
trường phải hướng vào, phải tập trung vào sự của các giáo viên Việt Nam mà chỉ nhận thấy
phát triển của người học làm cốt lõi. “Lấy tự có sự quan tâm đặc biệt đến trò một cách thân
học làm cơ bản…”(Hồ Chí Minh); trong sự thiện, hòa đồng và vị trí người thầy bị “lu mờ”
phát triển nhân cách con người, “tự hoạt động trong lớp học nhưng rất “rõ nét” khi nhìn vào
của cá nhân là nhân tố quyết định trực tiếp”[4]. các công việc chuẩn bị cho hoạt động giáo dục.
Đồng thời sự chuẩn bị của người thầy còn phải
Một khía cạnh nữa của lí luận giáo dục đã
đầu tư nhiều hơn, tích cực hơn và sáng tạo
được chứng minh là về chương trình và nội
hơn.
dung dạy học. Khi tiếp cận giờ học, các
Thông qua các giờ dạy mẫu ở trường tiểu chuyên gia Nhật Bản đã làm rõ thêm khái niệm
học Cúc Đường, Thượng Nung (huyện Võ “Phát triển chương trình” vốn đang còn gặp
Nhai, tỉnh Thái Nguyên) và tại Khoa Giáo dục nhiều trở ngại đối với các giáo viên Việt Nam
tiểu học Trường ĐHSP Thái Nguyên, chúng từ nhận thức đến hành động. Trong các giờ
tôi nhận thấy: giảng tại Việt Nam, các giáo sư Nhật Bản đã
242
- tạo ra những giáo án không giống “khuôn mẫu i) Các cách thức giảng dạy (phương
đúc sẵn”. Đặc biệt là tri thức bản địa (vốn rất pháp, kĩ thuật, hình thức, mô hình, cách đánh
phong phú ở vùng dân tộc ít người) đã được giá…) đều dựa trên căn cứ lí thuyết khoa học
các giảng viên khai thác triệt để. Nhiều giờ sư phạm chắc chắn.
giảng có sức hút lớn đối với học sinh có lẽ bởi
ii) Việc đổi mới cách thức hoạt động
các em nhận thấy các giá trị, các nội dung của
trên lớp không phải là quá khó đối với giáo
cuộc sống quanh mình được đưa vào giờ học
viên, nếu có quyết tâm, trách nhiệm và có sự
tự nhiên. Ở Việt Nam, cách tiếp cận chương
động viên khích lệ từ các nhà quản lí;
trình của giáo viên vốn đang quen thuộc với
cách cũ: tuân thủ, đọc chép và tái hiện…nay đã iii) Tôn trọng học sinh là nguyên tắc cao
có cảm nhận sâu sắc về vị trí vai trò của người nhất trong đổi mới phương pháp dạy học;
giáo viên phải thay đổi lớn. Đề án đối mới iv) Không phức tạp quá các tình huống
chương tình sách giáo khoa sau 2015 của Bộ giáo dục nhưng không được tầm thường hóa
Giáo dục Việt Nam đang triển khai theo hướng các nội dung học vấn, mọi ý tưởng sư phạm
này. Năng lực cốt lõi của giáo viên phải có là phải sâu sắc, uyển chuyển và phải được chuẩn
năng lực phát triển chương trình- những kĩ bị rất kĩ từ nhiều phương diện.
năng cơ bản của giáo viên cần hình thành trong
Có thể nói, tạo được niềm tin đối với mọi
các giờ giảng ở Việt Nam do các chuyên gia
giáo viên về khả năng đối mới phương pháp
Nhật Bản truyền dạy đã góp phần hình thành
dạy học của mình là điều các chuyên gia Nhật
nên ý thức mới, nhận thức mới rất tích cực đối
Bản đã làm được. Kết quả này đã được các
với giáo viên Việt Nam.
giáo viên tiểu học ở các trường triển khai tiếp
Khả năng tích hợp trong giờ giảng rất cao. tục-đây là yếu tố cốt lõi tạo nên sự phát triển
Một chủ đề, ví dụ “Mặt trời và người dân miền bền vững về năng lực giáo viên. Thậm chí ở
núi” đã được tích hợp giáo dục về địa lí, lịch các vùng đặc biệt khó khăn thì cơ hội không
sử, nhân chủng học, văn hóa…với cách thể phải đã hết, việc tự tạo ra các phương án đổi
hiện rất sinh động và hấp dẫn cao. Đây là mới dạy học bằng lực lượng tại chỗ, từ vật liệu
phương án mới của chương trình đổi mới sau sẵn có, với điều kiện và hoàn cảnh ấy, chắc
2015 ở Việt Nam. Thông qua các bài giảng chắn chất lượng giáo dục sẽ đi lên.
này, các giáo viên Việt Nam đã nhận ra năng
3. Một số khó khăn khi nghiên cứu
lực của chính mình, khả năng sáng tạo của
giáo dục miền núi ở vùng DTTS
giáo viên không hề nhỏ và sức học của học
sinh người dân tộc thiểu số rất tốt. Để phát triển bền vững vùng DTTS,
những thách thức sau đây cần phải vượt qua:
2.3. Ý nghĩa về đổi mới phương pháp giáo
dục, hình thức giáo dục Một là, vấn đề nhân cách học sinh được
hình thành bởi các nhân tố: ảnh hưởng của di
Kết quả của chương trình nghiên cứu
truyền-sinh học (nền tảng quan trọng); ảnh
được tô đậm nhất ở phương pháp hình thức tổ
hướng của giáo dục (chủ đạo); ảnh hướng của
chức dạy học, trên lớp, ngoài lớp, hoạt động
môi trường (quyết định) và ảnh hưởng của tự
giáo dục và dạy học, tác động mạnh đến giảng
hoạt động cá nhân (quyết định trực tiếp). Do
viên đại học sư phạm, cán bộ quản lí trường
vậy, trong việc “chủ đạo” của giáo dục thể
học và giáo viên và học sinh, phụ huynh học
hiện ở việc phát huy các ưu thế của yếu tố di
sinh…Thông qua các giờ giảng của giáo viên
truyền, yếu tố môi trường để giáo dục và đồng
Nhật Bản và được thăm quan giờ học, lớp học,
thời uốn nắn những hạn chế của yếu tố sinh
trường học tại Nhật Bản đã cho thấy kết quả
học, tạo sức đề kháng cho cá nhân trước tác
đáng ghi nhận như sau:
động xấu của môi trường…thì vai trò hoạt
243
- động cá nhân rất quan trọng. Giáo dục chính là Nam còn tiếp tục phải giải quyết: khả năng tiếp
sự “kích hoạt” các năng lực sẵn có ấy. Đối với tục học lên hay phân hóa lao động, học nghề
học sinh là người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tại địa phương; quan hệ giữa ngôn ngữ bảo tồn
các em có đầy đủ quyền và đầy đủ khả năng để (tiếng mẹ đẻ) với ngôn ngữ tiếng Việt; chương
phát triển bình đẳng. Khả năng học vấn và trình giáo dục quốc gia và chương trình địa
trình độ văn hóa của những người trưởng thành phương; đặc biệt là môi trường sống –điều
từ hệ thống giáo dục Việt Nam đã chứng minh kiện cơ bản quyết định đến việc hình thành
điều đó. Vấn đề cốt lõi của giáo dục ở vùng có năng lực, phẩm chất con người…
nhiều người dân tộc thiểu số là xây dựng và
phát triển môi trường sống –đây là yếu tố
quyết định quan trọng để hình thành nhân TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
cách. Giáo dục không thể đứng ngoài yếu tố 1. Phạm Hồng Quang - Giáo dục bản
môi trường, vị trí chủ đạo chỉ có thể thành sắc văn hoá dân tộc cho sinh viên sư phạm
công khi hòa nhập được các yếu tố con người – (2002)- NXB Đại học quốc gia, Hà Nội.
môi trường và giáo dục. Bởi vậy, chính sách
2. Phạm Hồng Quang - Tổ chức học
tốt nhất cho giáo dục vùng dân tộc thiểu số
tập cho học sinh dân tộc, miền núi (2002)-
không phải là ưu tiên điểm số mà là tạo điều
NXB Đại học sư phạm.
kiện tốt nhất về môi trường sống cho chính họ;
với thái độ tôn trọng và đề cao năng lực tại 3. Phạm Hồng Quang- Môi trường
chỗ, chúng ta hoàn toàn có khả năng xây dựng giáo dục (2006)- NXB Giáo dục.
một nền giáo dục tiến bộ ở vùng còn nhiều khó
4. Hà Thế Ngữ -Đặng Vũ Hoạt, Giáo
khăn.
dục học đại cương (1987) NXB Giáo dục.
Hai là, đang xuất hiện mẫu thuẫn giữa nhu
5. Nguyễn Văn Lộc-Nghiên cứu bảo
cầu bảo tồn văn hóa và phát triển cá nhân, phát
tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa các
triển cộng đồng. Bảo tồn văn hóa, bản sắc phải
DTTS vùng Việt Bắc, 2004- 2006 (Đề tài
gắn với bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân
độc lập cấp nhà nước).
tộc, nhưng đang xuất hiện nhu cầu học tiếng
Việt (tiếng Kinh) để học lên, để phát triển
nhiều hơn là học tiếng mẹ đẻ [5]. Đây không
chỉ là nhu cầu đối với học sinh dân tộc ít người
mà bản thân gia đình học sinh và cộng đồng
cũng đang vấp phải mâu thuẫn giữa yếu tố cần
bảo tồn với yếu tố để phát triển. Do vậy vấn đề
giáo dục song ngữ đang cần nghiên cứu và
triển khai.
Ba là, các quốc gia đa văn hóa cần có một
hệ thống giáo dục linh hoạt xuất phát từ nhu
cầu của cộng đồng tại chỗ với các chính sách
đặc thù. Trọng tâm của giáo dục vùng đa văn
hóa là tạo dựng mô hình giáo dục bản sắc cộng
đồng về ngôn ngữ, văn hóa trong bối cảnh hội
nhập khu vực và quốc tế.
Như vậy, còn rất nhiểu vấn đề liên quan
đến phát triển nguồn nhân lực –yếu tố đảm bảo
phát triển bền vững tại các vùng DTTS ở Việt
244
nguon tai.lieu . vn