Xem mẫu

  1. TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 (34) - Thaùng 11/2015 Nâng cao hiệu quả đào tạo Tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ ở các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay Increasing effectiveness of recent doctoral training under credit system in postgraduate education institutes ThS. Lã Thành Trung Trường Đại học Sài Gòn M.B. La Thanh Trung Sai Gon University Tóm tắt Việc áp dụng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ là một tất yếu, phù hợp xu thế của giáo dục thế giới. Tuy nhiên, song song với đó, những câu hỏi về chất lượng đào tạo cũng liên tiếp được đặt ra, đòi hỏi các cơ sở đào tạo sau đại học phải xem xét lại quy trình đào tạo tiến sĩ và cách thức tổ chức, quản lý phù hợp. Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ trong các cơ sở đào tạo sau đại học hiện nay ở nước ta, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Từ khóa: đào tạo tiến sỹ theo hệ thống tín chỉ, cơ sở đào tạo sau đại học… Abstreet The application of credit system in doctoral training becomes inevitable, compactible with worldwide education trending. However, the quality of these programs is frequently questioned, which requires postgraduate education institutes to review their procedures and management. Based on practical analysis of doctoral training under credit system in postgraduate education institutes in Viet Nam, the author proposes some solutions to improve the effectiveness of this situation. Keywords: doctoral training under credit system, postgraduate education institutes… 1. Đào tạo tiến sĩ theo hệ thống theo triết lý “Tôn trọng người học, xem tín chỉ - sự lựa chọn tất yếu cho đào tạo người học là trung tâm của quá trình đào nguồn nhân lực chất lượng cao tạo”, tuân theo quy luật giá trị, cạnh tranh Tín chỉ học tập là một đại lượng đo làm động lực không ngừng nâng cao chất toàn bộ thời gian bắt buộc của một người lượng nguồn nhân lực (người học được học bình thường để học một môn học cụ chọn thầy, chọn môn học…) và có khả năng thể, bao gồm thời gian lên lớp; thời gian ở chuyển đổi ngành nghề nhanh. trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các Hình thức đào tạo này lần đầu tiên phần việc khác đã được quy định ở thời được tổ chức tại trường Đại học Harvard khóa biểu; thời gian dành cho đọc sách, vào năm 1872 sau đó nó lan rộng ra khắp nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc Bắc Mỹ và thế giới. Đến nay, đào tạo theo chuẩn bị bài… Đây là phương thức đào tạo hệ thống tín chỉ đã khẳng định tính ưu việt, 58
  2. hiệu quả không chỉ đối với các nước phát cách khác, đào tạo theo hệ thống tín chỉ triển mà còn đối với các nước đang phát giúp NCS phát huy hết các tố chất tiềm triển. Ở Việt Nam, năm 2007, Bộ Giáo dục năng của mình trong việc tự học và nghiên và Đào tạo ban hành “Quy chế Đào tạo cứu khoa học. Đại học và Cao đẳng hệ chính quy theo hệ Thông thường, NCS là những người thống tín chỉ” và năm 2011 là hạn cuối đã có công việc ổn định (tại các trường Đại cùng để các trường liên quan phải chuyển học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu,...). Dẫu đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Hiện rằng tham gia chương trình đào tạo trình độ nay, các cơ sở giáo dục không chỉ áp dụng tiến sĩ tập trung thì NCS vẫn chịu sự quản đào tạo theo tín chỉ cho sinh viên bậc Đại lý của cơ quan cử đi học, đồng nghĩa với học mà còn cho học viên, NCS sau Đại học khó chủ động về thời gian, công việc. Nếu như: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, đào tạo theo hệ thống tín chỉ, NCS sẽ chủ Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ động, linh hoạt hoàn toàn về mặt thời gian, Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Đại học Quốc sắp xếp công việc để đạt kết quả học tập, gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố nghiên cứu cao nhất. Bên cạnh đó, NCS Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Hà cũng sẽ chủ động trong việc kéo dài hoặc Nội… Việc lựa chọn đào tạo theo hệ thống rút ngắn thời gian đào tạo. Trên thực tế, đã tín chỉ đối với đào tạo sau Đại học nói có nhiều NCS chỉ mất gần 3 năm để hoàn chung và đào tạo tiến sĩ nói riêng là sự lựa thành chương trình đào tạo tiến sĩ. chọn tối ưu, là con đường tất yếu để đào Trong bối cảnh quốc tế hóa đào tạo tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tại sao như hiện nay, các trường Đại học, các cơ lại như vậy? sở đào tạo sau đại học trong nước có khả Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ do Bộ năng mở các chương trình đào tạo liên kết Giáo dục và Đào tạo ban hành theo Thông với các trường Đại học trong khu vực và tư số 10/2009/TTBGĐT ngày 17/05/2009 trên thế giới theo một chuẩn thống nhất. của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo xác Nếu áp dụng hình thức đào tạo theo hệ định mục tiêu đào tạo trình độ tiến sĩ là đào thống tín chỉ, NCS có thể hoàn thành một tạo những nhà khoa học, có trình độ cao về số tín chỉ cần thiết trong giai đoạn đầu của lý thuyết và năng lực thực hành phù hợp, chương trình đào tạo trong nước và sau đó có khả năng nghiên cứu độc lập, sáng tạo, tiếp tục học tập, nghiên cứu tại trường Đại khả năng phát hiện và giải quyết những vấn học, cơ sở đào tạo sau đại học ở nước đề mới có ý nghĩa khoa học, công nghệ và ngoài mà nhà trường liên kết đào tạo để hướng dẫn nghiên cứu khoa học. Trước hoàn thành những tín chỉ còn lại theo yêu đây, đào tạo trình độ tiến sĩ chưa phát huy cầu của trường Đại học đó qui định. được khả năng nghiên cứu độc lập của Như vậy, rõ ràng, so với đào tạo theo NCS bởi mối quan hệ chặt chẽ, có phần học phần, niên chế, đào tạo trình độ tiến sĩ “công thức”, áp đặt giữa NCS với nhà theo hệ thống tín chỉ dù mới mẻ nhưng trường, với khoa đào tạo và người hướng cũng đã đem lại kết quả bước đầu, khẳng dẫn. Thế nhưng, đào tạo theo hệ thống tín định tính ưu việt của hình thức đào tạo này chỉ đáp ứng được mục tiêu này bởi đây là nói chung và sự phù hợp của nó với đào hình thức tạo điều kiện cho người học tự tạo trình độ tiến sĩ nói riêng. Chính vì vậy, học, tự nghiên cứu ở mức độ cao nhất. Nói các trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau 59
  3. đại học trong nước đã áp dụng hình thức học tập, nghiên cứu độc lập cũng không có đào tạo này không chỉ với sinh viên mà còn nhiều nên hoặc là người hướng dẫn phải với học viên Cao học và NCS. “cầm tay chỉ việc” hoặc là để NCS “tự 2. Thực trạng đào tạo trình độ bơi”. Rất nhiều NCS chỉ gói gọn hoạt động tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ ở một số của mình trong một số công việc như: tham trường Đại học, cơ sở đào tạo sau đại học gia các học phần, hoàn thành chuyên đề, ở nước ta hiện nay hoàn thành tiểu luận tổng quan và nộp luận Hiện nay, hầu hết các trường Đại học án… mà không có sự tự học, tự nghiên cứu trong nước ta đều đã áp dụng đào tạo tiến trong phạm vi chuyên ngành. Kết quả là sĩ theo hệ thống tín chỉ và ban hành quy sau 3 - 4 năm theo học tiến sĩ, năng lực định cụ thể để đảm bảo hiệu quả của hình nghiên cứu của NCS không được cải thiện thức này. Tuy nhiên, khi số lượng NCS ngoài việc hoàn thành luận án - một phạm tăng nhanh đáng kể, cùng với đó là thêm vi nghiên cứu rất nhỏ trong phạm vi rất nhiều cơ sở được cấp phép đào tạo trình chuyên ngành rộng lớn. độ tiến sĩ thì việc quản lý (ở tầm vĩ mô) sẽ Thứ hai, theo quy định, NCS chỉ phải rất khó khăn. Thêm vào đó, đào tạo theo tín trải qua các học phần ở trình độ tiến sĩ, một chỉ là hình thức đào tạo tương đối tự do, số chuyên đề, tiểu luận tổng quan. Sau khi “mở”, buộc các cơ sở đào tạo sau đại học hoàn thành các nội dung quy định trong phải đổi mới quy trình, phương thức quản chương trình đào tạo (thường chiếm chưa lý sao cho vừa đảm bảo sự linh hoạt, mềm đến 1/3 tổng thời gian đào tạo), NCS dẻo, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, ràng buộc không cần đến trường cho đến khi hoàn người dạy và người học. Thế nhưng thực tế thành luận án. Như vậy, một vấn đề nảy cho thấy, trình độ quản lý của chúng ta còn sinh là NCS được “tự do” trong một đôi lúc chưa theo kịp sự đổi mới của khoảng thời gian rất lớn mà không có sự chương trình đào tạo. Chính vì vậy, nó tạo theo sát, quản lý chặt chẽ về chuyên môn. ra nhiều kẽ hở dẫn đến một số hạn chế, bất Cơ sở đào tạo sau đại học chỉ quản lý kết cập như: quả (là tiểu luận, chuyên đề) chứ không Trước hết, một hạn chế dễ thấy là việc kiểm soát được quá trình nghiên cứu, học áp dụng đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ tập diễn ra như thế nào? Nhiều NCS đã thống tín chỉ để thay thế đào tạo theo niên dùng khoảng thời gian này để tiếp tục làm chế ở một số trường Đại học thực chất chỉ việc tại các cơ quan, đơn vị gốc hoặc nghỉ là “bình mới rượu cũ”. Bởi để có thể áp ngơi ở gia đình trong khi đáng lẽ họ phải dụng đào tạo theo hệ thống tín chỉ cần phải toàn tâm cho việc nghiên cứu trong thời có các điều kiện về: số lượng, chất lượng gian theo học NCS. Nói cách khác, NCS đội ngũ giảng viên; số lượng NCS tham gia không được sống trong “môi trường học các lớp học; cơ sở vật chất phục vụ giảng thuật” thực thụ nên họ cũng không có dạy, nghiên cứu… Tuy nhiên, số giảng nghĩa vụ phải nghiên cứu nghiêm túc, liên viên có thể giảng dạy NCS không nhiều; số tục. Cũng chính vì sự “tự do” và lỏng lẻo lượng NCS trong một cơ sở giáo dục cũng trong quản lý như thế này nên hiện tượng có hạn. Do đó, khó có thể tổ chức thành viết hộ luận án diễn ra phổ biến mà bản các lớp tín chỉ khác nhau để NCS lựa chọn. thân người hướng dẫn, khoa/phòng Sau Bên cạnh đó, những điều kiện hỗ trợ NCS Đại học không thể kiểm soát được. 60
  4. Một trong những ưu việt nổi trội của được mình cần cán bộ hướng dẫn trợ giúp quá trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ là điều gì. Rất nhiều NCS phải “tự lực cánh người học được phát huy khả năng tự học, sinh” hoàn toàn và luận án chỉ nhằm đối tự nghiên cứu. Nếu không tự học, tự phó với cán bộ hướng dẫn và hội đồng nghiên cứu được thì không phải là đào tạo khoa học mà không hướng đến tính khả thi theo hệ thống tín chỉ, lại càng không cần hoặc giá trị thực tiễn của luận án. Bên cạnh đến đào tạo tiến sĩ. Đối với NCS, điều này đó, những hạn chế về hệ thống thư viện, là cần thiết (nếu không nói là bắt buộc). phòng thí nghiệm và khả năng ngoại ngữ Tuy nhiên, để nghiên cứu độc lập, NCS của NCS cũng ngăn cản họ nghiên cứu cũng cần phải có sự chỉ đạo, định hướng từ khoa học độc lập theo đúng nghĩa. phía cán bộ hướng dẫn. Nếu không, việc Yếu tố trung tâm của quá trình đào tạo nghiên cứu “độc lập” sẽ trở thành tùy tiện, theo hệ thống tín chỉ chính là người học. không phương hướng. Ví như cán bộ Đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống tín hướng dẫn phải giao nhiệm vụ cho NCS, chỉ, NCS sẽ được làm chủ quá trình học hỗ trợ NCS các thông tin liên quan đến đề tập, đào tạo của mình theo đúng nghĩa. Tuy tài (ở nhiều nước, NCS được tham gia vào nhiên, như trên đã nói, điều này sẽ dẫn đến dự án nghiên cứu dài hơi của cán bộ hướng sự tùy tiện trong hoạt động đào tạo nếu dẫn). Để làm được điều ấy, đòi hỏi cán bộ không được quản lý chặt chẽ và khoa học. hướng dẫn phải có trình độ, năng lực Trong khi đó, sự quản lý của khoa/phòng nghiên cứu nhất định (ít nhất cán bộ hướng Sau Đại học chỉ thuần túy hình thức, chưa dẫn cũng phải có dự án, chiến lược hướng quản lý sâu về chuyên môn bằng các tiêu dẫn NCS nghiên cứu), cùng sự hỗ trợ của chí, tiêu chuẩn được “lượng hóa” một cách hệ thống thông tin thư viện đầy đủ, các cụ thể. Ví như: “khả năng nghiên cứu độc phòng thí nghiệm hiện đại. NCS cũng cần lập” của NCS trong quá trình đào tạo là gì? có trình độ ngoại ngữ thông thạo để tiếp NCS nắm vững “kiến thức nền tảng, vững cận với các tài liệu khoa học nước ngoài. chắc về các học thuyết và lý luận của Thế nhưng, những điều này lại khó có ngành” thì nên hiểu “nền tảng”, “vững thể thực hiện được ở nước ta. Thực tế cho chắc” này ở mức độ nào? Ai là người kiểm thấy có rất nhiều giáo viên/cán bộ hướng chứng? Luận án là “công trình nghiên cứu dẫn khoa học vẫn đồng ý hướng dẫn NCS khoa học sáng tạo” của NCS, sự “sáng tạo” những đề tài nằm ngoài lĩnh vực nghiên này như thế nào thì đạt yêu cầu tối thiểu? cứu của mình. NCS đề xuất người hướng Quy chế đào tạo trình độ tiến sĩ mà Bộ dẫn cũng vì “độ nổi tiếng” hay vị trí chính Giáo dục và Đào tạo ban hành rất khoa học trị của họ chứ không hẳn vì định hướng nhưng đó chỉ là để quản lý ở tầm vĩ mô, nghiên cứu của bản thân phù hợp với người chung cho các trường Đại học và viện hướng dẫn. Nhất là ở các trường Đại học, nghiên cứu. Các cơ sở đào tạo trình độ tiến dù số lượng giảng viên có học hàm, học vị sĩ phải có trách nhiệm cụ thể hóa quy định GS, PGS, TS nhiều nhưng những người có ấy và các khoa chuyên ngành lại phải tiếp thể nghiên cứu khoa học và hướng dẫn tục cụ thể hóa quy định ấy một mức nữa để nghiên cứu không nhiều. Rất nhiều trường xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đặc thù hợp người hướng dẫn không có gì để với chuyên ngành. Thế nhưng khi được “hướng dẫn” và NCS cũng không xác định triển khai, quy định đào tạo trình độc tiến 61
  5. sĩ của trường lại vẫn chung chung, khái là rất cần thiết bởi nếu không trải qua thí quát. Mục được cụ thể hóa thì lại triển khai nghiệm thì sẽ không có kết luận khoa học, rất hình thức trên thực tế (ví như báo cáo không có phát hiện mới. Đối với NCS các tiến độ thực hiện đề tài, bảo vệ chuyên đề, chuyên ngành khoa học xã hội, hệ thống tiểu luận…). Vì sự lỏng lẻo này nên rất thông tin thư viện cần phải được kiện toàn, nhiều NCS không đủ năng lực vẫn được cập nhật thêm nhiều tài liệu mới ở trong công nhận là tiến sĩ. nước và trên thế giới (thư viện các trường Như vậy, có thể thấy, đào tạo trình độ hiện nay còn thiếu tài liệu về các chuyên tiến sĩ theo hệ thống tín chỉ đã chứng tỏ ngành hẹp). Đặc biệt, các thư viện cần tăng tính ưu việt, tất yếu của nó so với hình thức cường liên kết, hợp tác để NCS có thể sử đào tạo truyền thống. Tuy nhiên, khi áp dụng nguồn học liệu phong phú ở các dụng vào thực tiễn, nó lại bộc lộ nhiều bất trường khác nhau. Thư viện cũng cần có cập, mà một trong những tồn tại nổi bật là chế độ “chăm sóc” khi bạn đọc sử dụng tài quy trình quản lý đào tạo khá lỏng lẻo, liệu trong thời gian dài (ví như các phòng không phát huy được tính tích cực, khả đọc đặc thù; chỗ nghỉ ngơi buổi trưa, năng tự học, tự nghiên cứu của NCS. Việc phương tiện đưa đón khi thời tiết bất lợi, kiểm tra, giám sát quá trình học tập, nghiên khi đọc tài liệu muộn…). cứu, thẩm định kết quả nghiên cứu của Thứ hai, đổi mới nội dung chương NCS còn chưa đáng tin cậy. Nếu các cơ sở trình, hình thức đào tạo đào tạo sau đại học không kịp thời điều Để quá trình đào tạo trình độ tiến sĩ chỉnh thì việc đào tạo trình độ tiến sĩ theo thực chất là đào tạo những người làm khoa hệ thống tín chỉ không những không đạt học thì việc đào tạo theo mô hình tập trung được mục tiêu mong đợi mà còn trở nên là điều cần thiết. Theo mô hình này, NCS tùy tiện, hình thức, không đem lại hiệu quả phải có mặt ở trường hay viện nghiên cứu đào tạo trên thực tế. toàn thời gian. Trong thời gian theo 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả học/nghiên cứu, NCS phải dự các buổi đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống giảng của các chuyên gia theo định kỳ, tín chỉ hiện nay phải tham gia tất cả các hội thảo liên quan Để có thể nâng cao hiệu quả đào tạo tiến đến lĩnh vực nghiên cứu (dù với tư cách là sĩ theo hệ thống tín chỉ, theo chúng tôi, các người nghe) và phải báo cáo tiến độ thực trường Đại học, các cơ sở đào tạo sau đại học hiện các nhiệm vụ nghiên cứu được giao nên tập trung làm tốt một số việc sau: với giáo viên hướng dẫn hàng tháng. Thứ nhất, tăng cường cơ sở vật chất Tương ứng, giáo viên hướng dẫn phải đưa (đặc biệt là hệ thống thông tin, thư viện, ra các nhiệm vụ cụ thể trong quá trình phòng thí nghiệm) nghiên cứu và yêu cầu NCS hoàn thành Đào tạo trình độ tiến sĩ là đào tạo nhà trong khoảng thời gian nhất định. Các khoa học. Muốn vậy, các trường, các cơ sở nhiệm vụ này không nhất thiết là nội dung đào tạo sau đại học phải xây dựng cơ sở cụ thể của các phần trong luận án mà có vật chất hiện đại, đầu tư công nghệ cao cho thể là những vấn đề liên quan, có phạm vi các phòng nghiên cứu. Đối với NCS các gần gũi. Nói cách khác, tất cả đều được chuyên ngành khoa học tự nhiên, hệ thống thiết kế để NCS hoà mình trong thế giới phòng thí nghiệm với các thiết bị tiên tiến học thuật và khoa học để nâng cao khả 62
  6. năng nghiên cứu và luyện sự độc lập của sáng tạo của đề tài so với các công trình nghiên cứu sinh.. nghiên cứu trước đó. Chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào Trong quá trình học tập, nghiên cứu, tạo bắt buộc nghiên cứu sinh phải có chứng các trường cũng cần đánh giá năng lực của chỉ quốc tế về tiếng Anh và có bài báo NCS dựa trên kết quả nghiên cứu đa dạng, đăng trên các tạp chí quốc tế là một yêu ví như: khả năng hợp tác trong nhóm cầu rất cao, khó thực hiện nhưng cần thiết nghiên cứu (cùng với nhóm NCS thực hiện để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo một hoặc một số đề tài trong phạm vi trình độ tiến sĩ và góp phần nâng cao chất chuyên ngành), khả năng nghiên cứu độc lượng nghiên cứu khoa học ở Viêt Nam. lập (tự triển khai một hoặc một số đề tài), Đối với các ngành khoa học tự nhiên, điều khả năng nghiên cứu dưới sự định hướng này nên bắt buộc (vì tri thức của khoa học của người hướng dẫn (thực hiện một nhiệm tự nhiên là tri thức phổ quát). Đối với NCS vụ nghiên cứu mà người hướng dẫn các ngành khoa học xã hội, các bài báo có giao)… Những kết quả nghiên cứu này sẽ thể được đăng ở một số tạp chí chuyên chiếm khoảng 30 - 40% trong việc quyết ngành uy tín và phải được kiểm duyệt bởi định NCS có được công nhận học vị tiến sĩ hội đồng khoa học một cách nghiêm túc. hay không (cùng với luận án). Việc đào tạo trình độ tiến sĩ không đơn Bên cạnh đó, các trường, cơ sở đào tạo thuần là việc tổ chức các lớp học phần, sau đại học cần xây dựng các tiêu chí đánh giao chuyên đề và bảo vệ luận án mà nên giá cụ thể về năng lực nghiên cứu của tăng cường tích hợp nghiên cứu khoa học NCS; tiêu chuẩn đánh giá luận án; ý thức, với đào tạo bằng cách hướng các NCS vào thái độ trong quá trình học tập… Trong việc nghiên cứu giải quyết các tình huống phạm vi có thể, những tiêu chuẩn này cần lý luận và thực tiễn, đặc biệt là những tình được “lượng hóa” cụ thể đến mức tối đa để huống mới cần tư duy sáng tạo để giải dễ dàng cho việc đánh giá, tránh tình trạng quyết vấn đề. “mập mờ”, chung chung dẫn đến để lọt Thứ ba, đổi mới quy trình kiểm tra, những nghiên cứu kém giá trị. đánh giá theo hướng chú trọng năng lực tự Các cơ sở đào tạo sau đại học cũng cần học, tự nghiên cứu kết hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Để làm được điều này, các trường, cơ cơ quan nơi tiến sĩ làm việc xem xét lại sở đào tạo sau đại học cần bổ sung một tiêu những trường hợp sau thời gian bảo vệ 2 - chí xét tuyển là NCS cần phải có một số 3 năm không có công trình nghiên cứu nào bài báo khoa học đăng trên các tạp chí mới để tránh tâm lý cho rằng bảo vệ luận trong nước, tức là phải được tập dượt án tiến sĩ là “xong”, chấm dứt quá trình nghiên cứu và có trình độ nghiên cứu ở nghiên cứu, thay vào đó là tập trung vào một mức độ nhất định trước khi tham gia những việc làm khác… không liên quan đào tạo tiến sĩ. Đào tạo trình độ tiến sĩ là đến học vị. quá trình làm cho các năng lực, kỹ năng ấy Thứ tư, tăng cường vai trò, trách trở nên nhuần nhuyễn, hệ thống chứ không nhiệm của cán bộ hướng dẫn đối với hoạt phải là “tập dượt” nghiên cứu nữa. Bên động chuyên môn của NCS cạnh đó, việc đánh giá dự định nghiên cứu Một chân lý thực tiễn là muốn có trò của NCS phải tập trung ở những điểm mới, giỏi phải có thầy giỏi. Trong một môi 63
  7. trường đòi hỏi sử dụng tri thức và năng lực câu hỏi về chất lượng đào tạo sẽ tiếp tục nghiên cứu ở mức độ cao như đào tạo trình được đặt ra, đòi hỏi các trường Đại học, cơ độ tiến sĩ thì điều này càng đúng hơn bao sở đào tạo sau đại học cần phải xem xét lại giờ hết. Trước hết, người được trao nhiệm quy trình đào tạo, cách thức quản lý của vụ hướng dẫn NCS nhất thiết phải có bài mình. Phải làm sao để quản lý NCS phải là báo trên tạp chí quốc tế (đối với khoa học quản lý về chuyên môn, học thuật nhằm tự nhiên) và các tạp chí chuyên ngành uy nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu tín trong nước (đối với khoa học xã hội). khoa học của NCS chứ không đơn thuần Cán bộ hướng dẫn phải có dự án nghiên chỉ là quản lý về thủ tục hành chính. Có cứu gần gũi hoặc am hiểu về lĩnh vực NCS như vậy, việc đào tạo trình độ tiến sĩ mới nghiên cứu. Trong quá trình NCS học tập thực hiện được mục tiêu đề ra là đào tạo và nghiên cứu, giáo viên hướng dẫn phải những nhà khoa học làm động lực cho sự chịu trách nhiệm thay khoa/phòng Sau Đại phát triển khoa học công nghệ nước nhà. học quản lý NCS về chuyên môn, nhất là việc định hướng, kiểm tra, đánh giá quá Tài liệu tham khảo trình nghiên cứu khoa học của NCS mình hướng dẫn (bởi số lượng NCS/giáo viên 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Quy chế đào hướng dẫn không nhiều, đôi khi tỉ lệ là 1/1 tạo tiến sĩ ban hành theo Thông tư số nên rất dễ quản lý. Hơn ai hết, giáo viên 10/2009/TTBGĐT ngày 17/05/2009. hướng dẫn là người gần gũi NCS nhất, chứ 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 05/2012/TT-BGDĐT Về việc sửa đổi, bổ sung không phải là khoa/phòng Sau Đại học). một số điều của Quy chế đào tạo trình độ tiến Chất lượng NCS trước hết phải do cán bộ sĩ ban hành kèm theo Thông tư số hướng dẫn chịu trách nhiệm (chứ không 10/2009/TT-BGDĐT ngày 07 tháng 5 năm đơn thuần chỉ là chịu trách nhiệm chất 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. lượng luận án). Nếu không phát huy tinh 3. Học viện Kỹ thuật quân sự (2009), Báo cáo tham luận Hội nghị Tổng kết 30 năm đào tạo thần trách nhiệm của cán bộ hướng dẫn thì tiến sĩ tại Học viện Kỹ thuật quân sự, Hà Nội. việc lơi lỏng quản lý, để NCS “bơi” tự do 4. Phạm Thị Ly (2006), “Chuyển đổi sang hệ dẫn đến giảm sút chất lượng đào tạo sẽ vẫn thống đào tạo theo tín chỉ - kinh nghiệm của tiếp tục diễn ra. Trung Quốc”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giáo dục Việt Nam đang tiến những thường niên Đào tạo theo hệ thống tín chỉ - nhận thức và kinh nghiệm triển khai tại các bước dài và có nhiều chủ trương mang tính trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, Ban đột phá. Một trong những chủ trương có Liên lạc các trường Đại học, Cao đẳng Việt phần táo bạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo là Nam, Đà Nẵng. đến năm 2020 sẽ đào tạo bổ sung được 20 5. Đỗ Đức Minh (2014), “Thành tựu và một số 000 tiến sĩ, góp phần nâng cao chất lượng hạn chế của đào tạo sau Đại học ở nước ta” truy cập tại: http://www.tapchicongsan.org.vn giáo dục Đại học Việt Nam. Việc chuyển đổi đào tạo trình độ tiến sĩ theo hệ thống tín 6. Lâm Quang Thiệp (2006), Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam, chỉ là bước đi đúng để có thể đào tạo Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng chương trình đào “nhiều” và “nhanh” số lượng tiến sĩ như kế tạo theo hệ thống tín chỉ có sử dụng Internet, hoạch. Tuy nhiên, song song với đó, những Viện Nghiên cứu Giáo dục. Ngày nhận bài: 22/7/2015 Biên tập xong: 05/11/2015 Duyệt đăng: 10/11/2015 64
nguon tai.lieu . vn