Xem mẫu

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4C, pp. 186-196 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG TRẺ MẦM NON TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Đặng Út Phượng Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt. Trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non của các trường Đại học, các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là những học phần quan trọng giúp cho sinh viên có thể tổ chức hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non một cách hiệu quả. Hiện nay các nghiên cứu về nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ còn hạn chế. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết hợp định tính thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn sâu nhận thức của 9 giảng viên và 135 sinh viên năm thứ 3, năm thứ 4 hệ đại học ngành giáo dục mầm non trường Đại học Thủ đô Hà Nội để tìm hiểu những khó khăn, thuận lợi trong hoạt động giảng dạy, học tập các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non (Dinh dưỡng cho trẻ mầm non, Phương pháp vệ sinh, Chăm sóc trẻ mầm non, Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non), từ đó đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần này theo hướng phát triển năng lực của sinh viên ngành GDMN, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Từ khóa: chương trình đào tạo, chăm sóc nuôi dưỡng, giảng viên, sinh viên, chất lượng giảng dạy. 1. Mở đầu Để trở thành một giáo viên mầm non, sinh viên ngành giáo dục mầm non cần phải học rất nhiều học phần khác nhau. Ngoài các học phần đại cương chung như: Chính trị, Văn học, Toán học, Mĩ học, Tin học, Ngoại ngữ…, sinh viên còn học các môn năng khiếu vẽ, đàn, hát, múa, tạo hình… và các môn chuyên ngành: Tâm lí trẻ em, giáo dục mầm non (GDMN), phương pháp vệ sinh chăm sóc trẻ mầm non, dinh dưỡng cho trẻ mầm non, phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non và các môn phương pháp dạy học… Có thể nói, ngành giáo dục mầm non cung cấp cho sinh viên không chỉ biết hát, múa, tạo hình, kể chuyện, đọc thơ mà còn được trang bị một khối lượng kiến thức phong phú, tổng hợp về thế giới trẻ thơ cũng như vốn tri thức nhân loại. Trong khối lượng kiến thức phong phú đó, các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non như: Dinh dưỡng cho trẻ mầm non, Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non, Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non là những học phần quan trọng giúp cho sinh viên có thể tổ chức hoạt động này ở trường mầm non một cách hiệu quả sau khi tốt nghiệp. Trong thời gian gần đây, ngành Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đã triển khai thực hiện nhiều đổi mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức dạy học để đào tạo những thế hệ giáo viên mầm non có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có lòng yêu trẻ, Ngày nhận bài: 2/9/2021. Ngày sửa bài: 29/9/2021. Ngày nhận đăng: 10/10/2021. Tác giả liên hệ: Đặng Út Phượng. Địa chỉ email: duphuong@daihocthudo.edu.vn 186
  2. Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc… có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Quá trình đổi mới đòi hỏi giảng viên, người trực tiếp giảng dạy phải thay đổi nhận thức, thay đổi các biện pháp thực hiện để tổ chức dạy học nhằm phát triển năng lực người học. Mỗi học phần khi thực hiện đổi mới sẽ có những đặc trưng riêng, nhất là các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, mặc dù là một trong những học phần quan trọng của ngành giáo dục mầm non, nhưng hiện nay các nghiên cứu về nâng cao chất lượng giảng dạy học phần này là không nhiều. Trong bài viết này, chúng tôi đi phân tích những thuận lợi và khó khăn trong quá trình giảng dạy, học tập các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, từ đó đề xuất một số biện pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần này theo hướng phát triển năng lực của sinh viên ngành GDMN, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số nghiên cứu về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành giáo dục Mầm non. Có thể kể đến các nghiên cứu có liên quan đến mảng chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ mầm non và mảng nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần cho sinh viên chuyên ngành GDMN trong đó có các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non sau: Tác giả Vũ Huyền Trinh trong bài viết Giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ dưới 36 tháng tuổi ở Việt Nam đã đưa ra thực trạng việc chăm sóc giáo dục trẻ dưới 36 tháng tuổi tại Việt Nam còn gặp nhiều vướng mắc và đưa ra hướng giải pháp với cấp quản lí, chỉ đạo phải chuẩn hóa hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục; Với các trường đào tạo đội ngũ giáo viên mầm non cần xây dựng mục tiêu đào tạo đáp ứng yêu cầu đa dạng về nguồn nhân lực với chức danh chuyên biệt dành cho giáo viên nhà trẻ, chú trọng các tiêu chí thực hành [1]. Cũng trong hội thảo này, nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Trinh, Cù Thị Thủy trong bài viết Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non thực hiện nuôi, dạy trẻ dưới 36 tháng tuổi ở Việt Nam đã bàn đến thực trạng, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng GVMN làm việc với trẻ dưới 3 tuổi như: Chương trình đào tạo của các trường trung cấp, cao đẳng, đại học không có khối kiến thức riêng cho nuôi, dạy trẻ dưới 36 tháng; nội dung nhằm trang bị kiến thức và kĩ năng làm việc với trẻ dưới 3 tuổi về nuôi, dạy trẻ tỉ lệ ít. Thời gian thực hành, thực tập tương đối ngắn dành cho việc củng cố các kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 3 tuổi. Thiếu sự gắn kết giữa công tác đào tạo và bồi dưỡng GVMN ở cả cấp trung ương, địa phương, chưa có cơ chế thu hút các cơ sở đào tạo, đội ngũ giảng viên tham gia bồi dưỡng GVMN ở các địa phương [2]. Trong bài viết tại kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia vào tháng 10/2019, tác giả Đặng Lan Phương cũng đã đề cập đến việc phải nâng cao các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non để sinh viên ra trường đáp ứng tốt nhu cầu xã hội [3]. Trong bài viết tại hội thảo cấp trường tháng 1/2020 về Đào tạo các ngành Sư phạm của trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Tác giả Đặng Út Phượng cũng đưa ra các yếu tố giúp phát huy được tính tích cực chủ động của sinh viên trong học tập đó là cải tiến, đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học các học phần. Nếu sinh viên được gắn bài học với những tình huống của đời sống thực tế, được trải nghiệm, được trực tiếp quan sát, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, vừa thông qua làm việc cá nhân, vừa phải làm việc theo nhóm, từ đó đạt được kiến thức mới, kĩ năng mới, phát huy tiềm năng sáng tạo với bài viết Đổi mới hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp sinh viên ngành giáo dục mầm non học tập tích cực chủ động [4]. Gần đây nhất vào tháng 1/2021 trong cuốn sách Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng và tự chủ nghề nghiệp được xuất bản bởi Nxb Thanh 187
  3. Đặng Út Phượng niên, nhóm tác giả Đặng Út Phượng, Lê Thanh Huyền, Nguyễn Thanh Huyền đã đề cập đến vấn đề đổi mới hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá các học phần phương pháp ngành giáo dục mầm non nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên, trong đó học phần Phương pháp vệ sinh chăm sóc trẻ mầm non được nhắc đến vô cùng chi tiết, nhóm tác giả khẳng định việc đổi mới hình thức ổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng đột phá, sẽ tăng động lực cho người học, phát triển năng lực của người học từ đó chất lượng đào tạo được nâng cao trong bài viết Một vài chia sẻ về việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá các học phần phương pháp ngành giáo dục mầm non nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên [5]. Hiện nay, khi các văn bản pháp quy có những bổ sung, những quy định mới trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non thì các trường đào tạo GVMN cũng cần có những cập nhật để đào tạo sinh viên mầm non ra trường đáp ứng được mong muốn và phù hợp với những yêu cầu mới của xã hội nói chung và của ngành mầm non nói riêng. 2.2. Một số học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non tại trường Đại học Thủ đô Hà Nội Học phần Dinh dưỡng cho trẻ mầm non với thời lượng 2 tín chỉ, số tiết lí thuyết là 15 tiết, thực hành là 30 tiết, cung cấp những kiến thức cơ bản về khái niệm dinh dưỡng và tầm quan trọng của các chất dinh dưỡng cần thiết đối với cơ thể, xác định nhu cầu của cơ thể về các chất dinh dưỡng, sự phân bố của các chất dinh dưỡng trong các nhóm thức ăn, xây dựng chế độ dinh dưỡng cho các độ tuổi trẻ mầm non và cách tổ chức bữa ăn, cũng như chế độ ăn phù hợp với trẻ, biết xây dựng thực đơn, khẩu phần ăn cân đối, hợp lí cũng như biết cách tổ chức bữa ăn cho trẻ tại trường lớp và đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ, phòng tránh các bệnh do dinh dưỡng không hợp lí. Ngoài ra học phần còn giúp sinh viên hình dung thêm về các hình thức, phương pháp giáo dục dinh dưỡng sức khỏe cho trẻ nhỏ, không những giúp trẻ hào hứng ăn hết suất ăn của mình mà còn giúp trẻ hiểu thêm về vai trò, tầm quan trọng của các loại thức ăn đó, giúp trẻ có thói quen văn hóa, vệ sinh trong khi ăn [7]. Học phần Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non với thời lượng 2 tín chỉ, số tiết lí thuyết là 15 tiết, thực hành là 30 tiết. Học phần cung cấp những kiến thức cơ bản về vệ sinh, chăm sóc trẻ em, hướng dẫn những kĩ năng chăm sóc, cách thức tổ chức và đánh giá hiệu quả giáo dục trẻ để làm sao có thể bảo vệ và củng cố sức khỏe của trẻ lứa tuổi mầm non trong mọi hoạt động ở trường mầm non [9]. Không chỉ giúp sinh viên ứng dụng vào các cơ sở MN và thực hiện các yêu cầu về vệ sinh, chế độ vệ sinh ở trường MN, học phần còn giúp SV hiểu rằng vệ sinh chăm sóc trẻ không chỉ là tạo môi trường tốt, cô giáo có kĩ năng chăm sóc tốt mà còn là ở việc giáo viên giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ (kĩ năng tự phục vụ ở trẻ) cũng là điều quan trọng không kém. Học phần cũng dần tiếp cận với những phương pháp mới về chăm sóc vệ sinh cho trẻ của các nước tiên tiến [7]. Học phần Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non cũng là là môn học thuộc khối kiến thức chuyên sâu của chương trình đào tạo ngành GDMN [7] có thời lượng 2 tín chỉ, số tiết lí thuyết là 15 tiết, thực hành là 30 tiết. Học phần cung cấp kiến thức chung đại cương về bệnh trẻ em và một số bệnh thường gặp, bệnh chuyên khoa, bệnh truyền nhiễm ở trẻ, thuốc và cách sử dụng thuốc cho trẻ, cách xử lí một số cấp cứu và tai nạn bất ngờ ở trường mầm non; tổ chức các động giáo dục phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non. Ở học phần này, sinh viên được thực hành kĩ năng chăm sóc và xử trí ban đầu khi trẻ gặp tai nạn thương tích. Nội dung kiến thức của học phần bao trùm khá rộng, gồm các vấn đề cơ bản của bệnh trẻ em, đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn, phát hiện bệnh sớm, biết xử lí bước đầu và chăm sóc khi trẻ ốm, bị tai nạn cho trẻ ở tất cả các đối tượng mầm non và ở các độ tuổi khác nhau. Ở mỗi một học phần thì phần mục tiêu, giáo trình, nội dung, phương pháp có sự khác nhau nhất định phụ thuộc vào nội dung của học phần và được thể hiện cụ thể, chi tiết trong đề cương 188
  4. Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc… chi tiết. Bên cạnh đó thì hình thức kiểm tra đánh giá của các học phần có nét tương đồng dựa trên quy định về kiểm tra đánh giá chung của toàn trường với điểm 10%, 30% và 60%. Với dinh dưỡng cho trẻ MN thì GV sử dụng hình thức trắc nghiệm kết hợp để đánh giá bài thi kết thúc học phần (60%), còn 2 học phần còn lại là Phương pháp vệ sinh chăm sóc trẻ mầm non, Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non được thiết kế thông qua hình thức tự luận. Đối với đầu điểm 10%, cả 4 học phần đều lựa chọn đánh giá thông qua chuyên cần, tích cực tham gia hoạt động học tập trên lớp, việc chuẩn bị bài ở nhà của sinh viên. Đầu điểm 30% thường là bài kiểm tra giữa kỳ hoặc bài tập nhóm. Có thể nói, trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non tại Trường đại học Thủ đô Hà Nội, các học phần: Dinh dưỡng cho trẻ mầm non, Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non, Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non là các học phần then chốt trong nội dung chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Qua các học phần này sinh viên không những lĩnh hội được những kiến thức, hình thành kĩ năng về tổ chức nuôi dưỡng, vệ sinh, phòng bệnh cho trẻ ở trường mầm non. Thông qua việc cung cấp kiến thức cơ bản và kĩ năng cần thiết, các học phần chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ mầm non góp phần hình thành, bồi đắp phẩm chất đạo đức và tác phong nghề nghiệp của người giáo viên mầm non, đó là lòng yêu nghề, mến trẻ, tinh thần trách nhiệm cao và tận tụy với nghề. 2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong giảng dạy, học tập các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng cho trẻ mầm non của ngành Giáo dục mầm non, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. 2.3.1. Thuận lợi Về phía Nhà trường: Trang thiết bị cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập cho giảng viên và sinh viên được Nhà trường từng bước đầu tư, nâng cấp đảm bảo đủ đáp ứng công tác đào tạo. Thư viện của Nhà trường có đầy đủ phòng đọc, phòng máy tính, giáo trình đáp ứng được yêu cầu học tập của SV. Một số tài liệu tham khảo khác được thư viện bổ sung hàng năm. Phòng học theo lớp học phần đảm bảo có diện tích rộng, đủ bàn ghế, một số phòng học có gắn sẵn máy chiếu. Về phía Giảng viên: Trực tiếp tham gia giảng dạy các học phần đều có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đảm bảo cho sự lựa chọn của sinh viên theo yêu cầu đào tạo theo tín chỉ. Giảng viên đều có kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn vững vàng, giàu nhiệt huyết. Các GV luôn cố gắng tìm tòi, cập nhật kiến thức để xây dựng, điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp với mục tiêu đào tạo giáo viên mầm non. Về phía Sinh viên: Ngoài học phần Dinh dưỡng cho trẻ mầm non được học ở học kì 1 còn học phần Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non học ở học kì 3 (năm thứ 2) và học phần Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ MN là môn học chuyên ngành, được lựa chọn đăng kí học kì 6 (năm thứ 3) nên đa phần SV đã có kinh nghiệm, hình thành được phương pháp học tập tích cực. Vì vậy, nhiều SV đã chủ động lập kế hoạch học tập phù hợp với khả năng, điều kiện của bản thân. Dựa trên đề cương môn học và tài liệu giao nhiệm vụ học tập mà giảng viên cung cấp, SV đã tìm kiếm, nghiên cứu, phân tích tài liệu trước giờ học nên rất tích cực tham gia các hoạt động nhóm, thảo luận với bạn bè và trao đổi với giảng viên trong giờ học. 2.3.2. Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi, việc giảng dạy và học tập học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng cho trẻ MN cho SV ngành GDMN cũng gặp một số khó khăn: Thứ nhất, sĩ số trong một lớp học phần khá đông (40-45) nên việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực phần nào bị hạn chế, đặc biệt là khi tổ chức hoạt động thực hành, thảo luận nhóm. Số lượng SV lớn nên GV không thể quan tâm sâu sát và theo dõi sự tiến bộ của từng SV qua việc đánh giá quá trình; Thứ hai, khả năng tự học, tự nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên việc tìm tòi, mở rộng kiến thức còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, một số SV còn tự ti về bản thân, ngại chia 189
  5. Đặng Út Phượng sẻ, trao đổi với bạn bè, thầy cô nên chất lượng học tập chậm cải thiện; Thứ ba, các học phần này có nhiều nội dung thực hành (30 tiết) nhằm hình thành các kĩ năng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ mầm non tuy nhiên hiện nay tại trường Đại học Thủ đô Hà Nội chưa có phòng thực hành chuyên biệt, các dụng cụ thực hành chưa có, đồng thời số tiết SV xuống thực tế tại trường mầm non là khá ít (6 tiết), chính vì thế mà chất lượng các thực hành còn hạn chế. 2.4. Thực trạng về hoạt động giảng dạy một số học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non Để tìm hiểu về hoạt động giảng dạy một số học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng thông qua 2 kĩ thuật cơ bản là điều tra bằng phiếu hỏi và phỏng vấn sâu thông qua gọi điện thoại để trưng cầu ý kiến của giảng viên đã, đang giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, thu lại được 9 phiếu và sinh viên năm thứ 3,4 hệ đại học ngành giáo dục mầm non trường Đại học Thủ đô Hà Nội, thu được 135 phiếu với các nội dung cụ thể như sau: 2.4.1. Kết quả khảo sát về nhận thức và đánh giá của giảng viên đã và đang giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non Các giáo viên tham gia khảo sát đều có trình độ đạt chuẩn từ thạc sĩ trở nên ở chuyên ngành Mầm non và Sinh học tham gia giảng dạy, với kinh nghiệm giảng dạy các học phần này trung bình là 5 năm. Đến với câu hỏi đầu tiên, câu hỏi mà chúng tôi cho là cốt lõi vấn đề. “Theo thầy/cô nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ mầm non được thể hiện trong các hoạt động nào sau đây tại trường mầm non” chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi có 2 trong 9 thầy cô đã đưa ra lựa chọn chưa chính xác trong câu hỏi cốt lõi về kiến thức liên quan đến mảng mầm non này, cả hai cô giáo lựa chọn đều có số năm giảng dạy một trong số những học phần này là 7-10 năm. Đây là thực tế cần phải xem xét, bởi các giảng viên giảng dạy các học phần này, hơn ai hết có cái nhìn đúng hơn về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non. Bảng 1. Nhận thức của giảng viên về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non STT Các nội dung chăm sóc nuôi dưỡng trẻ MN Số Phần lượng trăm n % 1 Tổ chức bữa ăn, giấc ngủ đảm bảo an toàn cho trẻ 0 0% 2 Tổ chức giấc ngủ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, chăm 1 11% sóc sức khoẻ và an toàn cho trẻ 3 Tổ chức ăn, ngủ, vệ sinh, chăm sóc sức khoẻ và an toàn cho trẻ 7 78% 4 Giáo dục dinh dưỡng giáo dục vệ sinh, phòng bệnh và đảm bảo 1 11% an toàn cho trẻ Các nội dung nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ mầm non được quy định và thể hiện rất rõ trong chương trình giáo dục mầm non với các nội dung tổ chức ăn, ngủ vệ sinh, chăm sóc sức khỏe và an toàn. Chính vì vậy việc lựa chọn hoạt động giáo dục dinh dưỡng, giáo dục vệ sinh, phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ hay Tổ chức giấc ngủ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe và an toàn cho trẻ mầm non là vẫn chưa đầy đủ. Đến với câu hỏi thứ hai về mức độ cần thiết của các nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non thì 100% các thầy cô đều đưa ra nhận định, hoạt động này là rất cầm thiết. Bởi với trẻ mầm non, hai nội dung luôn song hành đó là chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Người giảng viên giảng dạy các học phần này, cần cho sinh viên có cái nhìn đúng về các nội dung này, từ đó sinh viên có thể tổ chức đúng, tốt, phù hợp với các lứa tuổi. Khi trẻ ở lứa tuổi càng nhỏ (nhà trẻ, 190
  6. Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc… mẫu giáo bé) sẽ cần hơn cả sự yêu thương, chăm sóc vỗ về từ cô, sự bao dung, kiên nhẫn, tức hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng cần để ý hơn. Đến độ tuổi lớn hơn (mẫu giáo nhỡ, lớn) yêu cầu về mặt chăm sóc sẽ giảm bớt, thay vào đó là yêu cầu về mặt giáo dục sẽ đặt nặng hơn, trẻ lớn hơn bắt đầu hiếu động hơn, luôn nghịch ngợm, tò mò, đặt ra những câu hỏi về sự vật, hiện tượng xung quanh mà trẻ thấy, đây là lúc cô cần lắng nghe và giúp đỡ trẻ khi trẻ cần. Khi được hỏi những khó khăn gặp phải trong quá trình giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ chúng tôi thấy rằng, các khó khăn, rất nhiều thầy cô đưa ra mang tính khách quan, liên quan đến cơ sở vật chất của nhà trường, hiện tại khoa, trường, chưa có phòng thực hành, dụng cụ chuyên biệt riêng dành cho những học phần này. Điều này chỉ có thể nhờ vào chính sách và chiến lược của khoa và nhà trường. Ngoài ra còn yếu tố về phía sinh viên là khả năng tự học, tự nghiên cứu, kiến thức tâm, sinh lí cơ sở chưa chắc, không những vậy còn là khó khăn về “Tạo cảm hứng học tập và tình yêu nghề cho sinh viên” thì đây không chỉ gặp khó khăn bởi các học phần này mà là vấn đề cần có sự đồng hành của tất cả các giảng viên, đội ngũ của khoa, ngành GDMN, cần nâng cao ý thức và tạo động lực cho sinh viên, bởi việc tuyển được sinh viên vào trường đã khó, việc giữ được sinh viên và truyền lửa, tạo động lực, lòng yêu nghề. Đến với câu hỏi cuối cùng: “Các thầy/ cô có mong muốn thay đổi gì trong quá trình giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non?”. Chúng tôi nhận được phản hồi có sự tương đồng với những khó khăn mà các thầy cô đã đưa ra ở câu hỏi trước. Đó là mong muốn khoa và nhà trường có một phòng học thực hành chuyên biệt cho các học phần liên quan đến hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ. Bởi với hoạt động ở học phần dinh dưỡng, với sự chú trọng là các cô giáo ngoài việc biết các nhóm dinh dưỡng, nhóm chất cho trẻ các cô hiểu sơ qua về chế biến, cách tính khẩu phần ăn và quan trọng với sinh viên mầm non, sau ra làm giáo viên mầm non, thì sinh viên sẽ phải tổ chức được bữa ăn cho trẻ mầm non, giáo dục dinh dưỡng được cho trẻ, chính vì vậy, cần có một phòng học được trang bị bàn ghế, dụng cụ như trong một lớp mầm non. Học phần Phương pháp vệ sinh chăm sóc trẻ mầm non với các hoạt động trọng tâm là vệ sinh thân thể trẻ, vệ sinh môi trường lớp học, chuẩn bị phòng ốc, đồ dùng dụng cụ để có thể tiến hành tất cả các hoạt động vệ sinh cho trẻ, vệ sinh phòng, đồ dùng được như tại trường mầm non. Với hoạt động Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ, đó là việc có thể thao tác được các hoạt động sơ cứu đơn giản đó là những bài học giúp bé có thể hiểu nơi nào an toàn và nguy hiểm, và sinh viên phải hiểu rõ việc chuẩn bị môi trường vật chất và tâm lí thê nào mỗi khi bắt đầu một hoạt động. Có những mong muốn khác như tăng cường thời lượng thực hành. Hiện nay các học phần này, đều đang là 2 tín chỉ, với 15 tiết lí thuyết và 30 tiết thực hành cho sinh viên, các tiết thực hành này đan xen giữa thực hành trên giảng đường và thực hành tại trường mầm non. Chúng tôi nghĩ, trong phần này với những mong muốn về tăng số buổi thực tế xuống trường là điều hoàn toàn có thể làm được dựa trên sự phân chia cụ thể trong chương trình chi tiết một cách hợp lí. 2.4.2. Kết quả khảo sát về nhận thức và đánh giá của sinh viên cao đẳng, đại học ngành GDMN về hoạt động giảng dạy của các giảng viên đã, đang dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non Với câu hỏi thứ nhất, chúng tôi đi tìm hiểu về sự hiểu biết của sinh viên về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non, chúng tôi thu được kết quả đáng lo ngại, tỉ lệ sinh viên trả lời đúng câu hỏi là rất thấp, tỉ lệ sinh viên trả lời đúng chỉ chiếm 17,2% một con số vô cùng thấp trên tổng số 135 sinh viên. Kết quả khảo sát được thể hiện qua Bảng 2. Nội dung được sinh viên lựa chọn nhiều nhất với 84/135 sinh viên chiếm 62,2% khi được hỏi nội dung nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ mầm non được thể hiện trong các hoạt động tại trường mầm non đó là tổ chức giấc ngủ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe và an toàn cho trẻ, với sự lựa chọn này, chưa chính xác vì còn một mảng thiếu chưa thể 191
  7. Đặng Út Phượng hiện đó chính là hoạt động tổ chức bữa ăn cho trẻ tại trường mầm non. Ngoài ra các mảng nội dung Giáo dục dinh dưỡng, giáo dục vệ sinh, phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ cũng có 24/135 sinh viên lựa chọn chiếm 17,8%. Mảng nội dung Tổ chức bữa ăn, giấc ngủ, đảm bảo an toàn cho trẻ cũng được 3 sinh viên lựa chọn chiếm 2,2%. Đây là câu hỏi cốt lõi, cũng như tổng hợp kiến thức của sinh viên từ các học phần đã học cũng như là mảng kiến thức từ chương trình giáo dục mầm non mà sinh viên cần phải nắm. Có thể thấy đây cũng là thực trạng đáng lo ngại bởi có tới 82,8% sinh viên bị nhầm lẫn. Cũng trong câu hỏi này, từ phía giảng viên cúng có sự nhầm lẫn này, với tỉ lệ 22,2% của một giảng viên Tiến sĩ và 1 giảng viên là thạc sĩ. Vì vậy, cần có những biện pháp khắc phục phù hợp để nâng cao nhận thức của sinh viên và các giảng viên cần nắm sát hơn các nội dung này. Bảng 2. Nhận thức của sinh viên về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non STT Các nội dung chăm sóc nuôi dưỡng trẻ MN Số Phần lượng trăm n % 1 Tổ chức bữa ăn, giấc ngủ đảm bảo an toàn cho trẻ 3 2,2% 2 Tổ chức giấc ngủ, vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, chăm 84 62,2% sóc sức khoẻ và an toàn cho trẻ , 3 Tổ chức ăn, ngủ, vệ sinh, chăm sóc sức khoẻ và an toàn cho trẻ 24 17,8% 4 Giáo dục dinh dưỡng giáo dục vệ sinh, phòng bệnh và đảm bảo 24 17,8% an toàn cho trẻ Khi được hỏi về mức độ cần thiết của nội dung nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe có cần thiết cho trẻ MN hay không chúng tôi nhận được phản hồi đáng chú ý và đáng buồn là đối với sinh viên năm 4 chúng tôi nhận được 2 phản hồi là không cần thiết chiếm 1.5% và 5 phản hồi cho là bình thường chiếm 3,7%, lựa chọn cần thiết chiếm 5,2% và rất cần thiết chiếm 89,6%. Khi xem xét phản hồi từ 2 sinh viên cho rằng hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe không cần thiết cho trẻ MN, chúng tôi thấy rằng đây là 2 là sinh viên đại học năm thứ 4, xác định kiến thức của câu hỏi thứ 2 cũng chưa chuẩn xác. Chúng tôi điều tra về những khó khăn của sinh viên khi học tập các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non. Chúng tôi nhận được rất nhiều phản hồi trong đó tập trung lại ở 4 ý như sau: (1) Về phía giảng viên và chương trình: “Giảng viên không gây hứng thú nên học không vào, Chưa gắn lí thuyết với thực tế: lí thuyết không sát với trường mầm non; Thực tế khác so với sách vở, chưa được thực hành nhiều; Ít được trải nghiệm thực tế trên trẻ mầm non; Khó khăn không được trực tiếp tham gia vào hoạt động chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ mn; Thực hành ít, khác với thực tế nhiều, Đa số những học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non đều dựa trên lí thuyết khô khan và phải học thuộc lòng; Không giống thực tế, Được thực hành ít nên kĩ năng thực hiện chưa được tốt”; (2) Cơ sở vật chất: “Chưa được tận mắt thấy nhiều mà chỉ qua sách vở là chủ yếu. Các hoạt động thực hành trên lớp rất bất tiện cho sinh viên khi phải mang xô, chậu đến trường” (3) Khó khăn về phía trẻ: “trẻ không hợp tác, khó khăn khi vệ sinh đúng cách và thuận tiện cho trẻ 12-24 tháng, trẻ còn quậy phá. (4) Ngoài ra cũng có nhiều sinh viên thấy không có khó khăn gì trong quá trình học các học phần này. Có thể thấy rằng, nếu muốn nâng cao chất lượng giảng dạy của các học phần thì đều cần làm là gắn liền quá trình học lí thuyết song song với thực hành tại các trường mầm non, cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần được nâng cấp. Chúng tôi cũng đưa vào phiếu điều tra, việc sinh viên đánh giá trong các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, sinh viên cảm thấy thấy khó khăn nhất trong học phần nào, chúng tôi nhận thấy học phần Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ 192
  8. Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc… mầm non là học phần mà sinh viên gặp nhiều khó khăn nhất với lí giải rằng: rất nhiều bệnh, các triệu chứng cũng có bệnh khá giống nhau, khó phân biệt; Học phần kiến thức rộng, chưa được trải nghiệm thực tế về các bệnh nhiều, Có rất nhiều loại bệnh nên khó nhớ hết được các triệu chứng, biểu hiện,… quá nhiều bệnh và nhiều khi giữa các bệnh nó na ná giống nhau ở cách phòng, triệu chứng; bởi vì kiến thức và thực hành chưa được sâu về kĩ năng cho sinh viên; mong muốn kiến thức cộng thêm việc đi thực tập để có những kinh nghiệm xử lí các tình huống cho trẻ sau này; Ít được thực hành trên trẻ trong học phần này; giảng viên hướng dẫn chưa thực sự kĩ đến với sinh viên... Câu hỏi cuối, chúng tôi hỏi về mong muốn thay đổi gì trong quá trình học các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non: chúng tôi thu được những mong muốn sau: trong quá trình học cần đưa ra những tình hình huống gắn liền với thực tế hiện nay; Giảng viên cần tương tác nhiều hơn thay vì chép giáo trình vào vở; Được xuống trường thực hành; được đi thực tập ở các trường mầm non để có thêm kinh nghiệm về nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nhiều hơn, mời các thầy cô có chuyên môn học, giảng viên cần hỏi nhiều hơn để phát huy tính tích cực của sinh viên,… 2.4.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, trường Đại học Thủ đô Hà Nội 2.4.3.1. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho giảng viên Để SV có được phẩm chất nghề nghiệp phù hợp với ngành đào tạo thì trong mỗi học phần, hơn ai hết thì GV cũng cần có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức phù hợp để từ đó có thể lồng ghép, tích hợp đạo đức nghề nghiệp để giảng dạy, hun đúc tình yêu nghề qua từng tiết học. Cụ thể như sau: Thứ nhất, đội ngũ giảng viên đại học cần phải được bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn bằng những biện pháp như tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, sử dụng công nghệ thông tin, phương pháp giảng dạy tích cực phục vụ dạy học; Thứ hai, cần chú trọng phát triển năng lực giảng dạy, bao gồm những nội dung cụ thể như xây dựng chương trình giảng dạy các học phần ở các hệ đào tạo; xác định mục tiêu học tập của học phần và từng đơn vị học tập của sinh viên; xác định những nội dung phù hợp để đạt tới các mục tiêu, chuẩn đầu ra đã đề ra; xác định các phương pháp học tập và giảng dạy phù hợp nhằm chuyển tải được nội dung và đạt tới mục tiêu; xác định các phương pháp đánh giá phù hợp để động viên người học, đánh giá đúng trình độ của người học. Nâng cao năng lực sử dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với chuyên môn của bản thân như: giảng dạy bằng tình huống, thảo luận nhóm, khám phá, mô phỏng, dự án... Rèn luyện các năng lực truyền đạt; năng lực giải quyết vấn đề và ra quyết định; năng lực không ngừng học tập và phát triển bản thân; năng lực sử dụng các thiết bị, phương tiện hiện đại trong giảng dạy (dữ liệu trên internet, sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ mới phục vụ quá trình dạy học...); Thứ ba, từng bước hoàn thiện những tiêu chuẩn về đạo đức nhà giáo và thường xuyên trau dồi phẩm chất chính trị. Mỗi giảng viên phải tự học tập và rèn luyện để có năng lực chuyên môn cao, nắm bắt được những thành tựu mới của khoa học công nghệ để kịp thời ứng dụng vào công tác giảng dạy; 2.4.3.2. Nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên Qua thực trạng khảo sát, SV đánh giá có các học phần khó, nội dung kiến thức cần nắm lớn, số lượng tín có hạn. Bên cạnh đó, giảng viên khảo sát cũng nhận xét về ý thức tự học và khả năng nhận thức của SV MN còn hạn chế, nên trong quá trình giảng dạy, GV cần chú trọng rèn luyện cho SV phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn, góp phần hình thành và bồi dưỡng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non cho SV. 193
  9. Đặng Út Phượng 2.4.3.3. Tăng cường đổi mới giờ học thực hành Thứ nhất, cần đa dạng hóa hình thức tổ chức thực hành của học phần. Từ trước đến nay, phần thực hành Dinh dưỡng cho trẻ mầm non; Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non; Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non cho trẻ MN được diễn ra chủ yếu ở lớp học SV thực hiện các hoạt động hình thành kĩ năng dưới sự hướng dẫn của GV. Số tiết thực hành của học phần chỉ trong một phạm vi nhất định theo thời lượng quy định của chương trình mà việc hình thành các kĩ năng cần phải được luyện tập thường xuyên, liên tục, nhất là các kĩ năng tổ chức dinh dưỡng, vệ sinh chăm sóc, phòng bệnh và chăm sóc trẻ nên nếu chỉ dựa vào số giờ học thực hành trên lớp thì không bảo đảm cho việc hình thành năng lực nghề nghiệp. Vì không có đối tượng thực tế là trẻ em nên SV vẫn thường đóng vai trẻ để tập luyện, các phương tiện hỗ trợ còn chưa đa dạng đã làm những tiết học thực hành tại trường thiếu đi tính hấp dẫn, các kĩ năng vẫn chỉ là cơ sở lí thuyết. Vì vậy, cần thêm hình thức thực hành tại trường mầm non để rèn luyện kĩ năng của SV. Muốn vậy, Nhà trường cần xây dựng hoặc thiết lập một trường mầm non thực hành để SV được thường xuyên rèn luyện, trau dồi kĩ năng và kinh nghiệm. Khi chăm sóc - giáo dục trẻ thường xuyên, SV được rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp của mình, các động tác dần trở nên nhuần nhuyễn và thành thục. Qua các hoạt động thực tiễn tại trường thực hành, SV sẽ quan sát được nhiều tình huống bất ngờ này sinh, được thấy cách ứng xử, giải quyết của các cô giáo mầm non mà GV không thể đưa hết vào giảng dạy trong tiết học. Và đặc biệt nhất, SV được tiếp xúc trực tiếp với trẻ nhỏ với muôn vàn các biểu hiện khác nhau, để tự rút ra những quy luật, đặc điểm sinh lí, tâm lí của trẻ nhỏ trên cơ sở lí thuyết đã được giới thiệu. Điều này còn góp phần bồi dưỡng tình cảm, lòng yêu nghề, mến trẻ cho các cô giáo mầm non tương lai. Thứ hai, cần đổi mới kiểm tra, đánh giá phần thực hành Dinh dưỡng cho trẻ mầm non; Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non; Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non cho trẻ MN nhằm phát huy năng lực của SV. Kiểm tra kết thúc học phần không có phần đánh giá thực hành. Điều này là chưa phù hợp với mục tiêu phát triển năng lực mà môn học đang hướng tới. Vì thế, cần có sự điều chỉnh trọng số điểm thực hành trong tổng số điểm của học phần. Bên cạnh đó, cũng cần đa dạng hóa cách thức kiểm tra, đánh giá quá trình thực hành. Với một số nội dung thực hành đòi hỏi phải luyện tập lặp đi lặp lại, thường xuyên trong thời gian dài như chăm sóc trẻ ốm, xử trí ban đầu một số bệnh và tai nạn… GV có thể cho SV tự thực hành rồi quay video tiến trình thực hiện. Nhiệm vụ của giáo viên mầm non là vừa làm vừa hướng dẫn trẻ, nên trong quá trình luyện tập các kĩ năng, GV cần yêu cầu SV rèn luyện cả khả năng ngôn ngữ bằng cách vừa làm vừa hướng dẫn trẻ thực hiện. Với đoạn video kết quả thực hành gồm cả hình ảnh và âm thanh, SV có thể tự đánh giá được sự tiến bộ và làm cơ sở để hoàn thiện dần bản thân. Đồng thời, GV có thể sử dụng các video của SV để minh họa trên lớp, yêu cầu SV đánh giá mức độ chính xác, thành thạo khi luyện tập, thực hành và rút ra các bài học kinh nghiệm. 2.4.3.4. Biện pháp từ phía Nhà trường Cơ sở đào tạo có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy và học nói chung, chất lượng dạy và học các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng nói riêng. Vì vậy, Nhà trường cần lưu ý một số điểm sau: Nghiên cứu, cải tiến sao cho việc quản lí hoạt động giảng dạy trên mạng như thời khóa biểu, danh sách lớp học, danh sách lớp thi, vào điểm, được thuận tiện, không hay bị trục trặc, bảo đảm sự thống nhất giữa danh sách lớp học và danh sách lớp thi để giảng viên không phải mất khá nhiều thời gian và công sức như hiện nay. Nên chăng, các khoa chuyên môn có các trợ lí hành chính đảm trách các công việc hành chính nói trên thay cho các giảng viên. Tiếp tục lấy ý kiến phản hồi từ phía người học với hình thức thích hợp về việc giảng dạy của giảng viên, coi đây là một kênh thông tin quan trọng để giảng viên rút kinh nghiệm. Cần chú ý sao cho các trang thiết bị cần thiết ở giảng đường như: micro, máy tính, máy chiếu, màn hình, luôn vận hành tốt, hỗ trợ hiệu quả cho công tác giảng dạy và 194
  10. Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc… học tập. Cần có phòng thực hành, đồ dùng chuyên biệt để cho SV có thể nâng cao kĩ năng thực hành, đây cũng là một trong những mong muốn lớn nhất của GV, SV khi tham gia khảo sát. 3. Kết luận Nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng cho trẻ mầm non là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đào tạo SV ngành GDMN, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, chúng tôi đưa ra các nhóm giải pháp từ phía giảng viên: Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho giảng viên; Đổi mới mục tiêu học phần theo hướng phát triển năng lực người học. Bên cạnh đó là nhóm giải pháp từ phía sinh viên: Nâng cao chất lượng tự học cho sinh viên; Tăng cường đổi mới giờ học thực hành và nhóm giải pháp từ phía Trường; ngoài ra còn cần nhóm giải pháp từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo, bởi để đào tạo được đội ngũ giáo viên mầm non đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của xã hội, cần sự phối hợp, thay đổi của cả Nhà trường, giảng viên giảng dạy các học phần khác và sinh viên. Hi vọng rằng, với một số nhóm giải pháp đề xuất trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các học phần liên quan đến nội dung chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non, cụ thể: học phần Dinh dưỡng cho trẻ mầm non; Phương pháp vệ sinh, chăm sóc trẻ mầm non; Phòng bệnh và đảm bảo an toàn cho trẻ mầm non cho trẻ MN cho SV hệ đại học, ngành GDMN, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Huyền Trinh, 2016. Giải pháp nâng cao chất lượng chăm sóc trẻ dưới 36 tháng tuổi ở Việt Nam. Kỉ yếu hội thảo khoa học cấp bộ “Nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng theo hướng lồng ghép – chi phí thấp ở Việt Nam". Bộ Giáo dục và Đào tạo, VNIES, UNICEF, Trung tâm nghiên cứu Giáo dục Mầm non. [2] Nguyễn Thị Mỹ Trinh, Cù Thị Thuỷ, 2016. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm non thực hiện nuôi, dạy trẻ dưới 36 tháng tuổi ở Việt Nam. Kỉ yếu hội thảo khoa học cấp bộ “Nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng theo hướng lồng ghép – chi phí thấp ở Việt Nam". Bộ Giáo dục và Đào tạo, VNIES, UNICEF, Trung tâm nghiên cứu Giáo dục Mầm non. [3] Đặng Lan Phương, 2019. Công tác đào tạo giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục tại trường Đại học thủ đô Hà Nội. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia “65 năm giáo dục Thủ đô và Giá trị sống của người Hà Nội”, Đại học Thủ đô Hà Nội. [4] Đặng Út Phượng, 2020. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp sinh viên ngành giáo dục mầm non học tập tích cực chủ động. Kỉ yếu hội thảo cấp trường về “Đào tạo các ngành Sư phạm của trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Đại học Thủ đô Hà Nội [5] N. T. H. Đặng Út Phượng, Lê Thanh Huyền, 2021. “Một vài chia sẻ về việc đổi mới hình thức tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá các học phần phương pháp ngành giáo dục mầm non nhằm phát huy tính tích cực học tập của sinh viên”, trong Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng và tự chủ nghề nghiệp. Nxb Thanh Niên. [6] L. số: 43/2019/QH 14 Quốc hội, Luật giáo dục 2019. [7] Đại học Thủ đô Hà Nội, 2018. Kế hoạch đào tạo ngành giáo dục mầm non. [8] Đại học Thủ đô Hà Nội, 2018. Chương trình đào tạo ngành giáo dục mầm non. [9] Hoàng Thị Phương, 2013. Giáo trình vệ sinh trẻ em. Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 195
  11. Đặng Út Phượng ABSTRACT Improving the quality of teaching subjects related to kindly care and nursing activities at Hanoi Metropolitan University Dang Ut Phuong Faculty of Pedagogy, Hanoi Metropolital University In the preschool teacher training program of universities, the modules related to the content of child care and nurturing are important modules to help students organize caregiving activities, effectively raising children at preschool. Currently, research on improving the quality of teaching modules related to child care and nurturing content is still limited. In this study, we use quantitative combined qualitative research methods through questionnaires and in-depth cognitive interviews of 9 lecturers and 135 3rd and 4th year undergraduate students undergraduate system of early childhood education, Hanoi Metropolitan University to find out the difficulties and advantages in teaching and learning modules related to the content of caring and nurturing preschool children (Preschool nutrition for children; Methods of hygiene, child care; and Disease prevention and safety for preschool children), thereby proposing some measures to improve the quality of teaching these subjects in the direction of developing skills. of students majoring in ECE, Hanoi Metropolitan University. Keywords: training program, foster care, lecturers, students, teaching quality. 196
nguon tai.lieu . vn