Xem mẫu

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGÀNH KẾ TOÁN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN TO IMPROVE VIETNAMESE ACCOUNTING EDUCATION TO MATCH THE DEMANDS OF THE ASEAN ECONOMIC COMMUNITY Nguyễn Thị Diệu Thanh Khoa Kinh tế - Du lịch, Trường ĐH Quảng Bình dieuthanh2704@gmail.com TÓM TẮT Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán đã được ký kết giữa 10 nước ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 14 tại huyện Cha-am, tỉnh Phetchaburi, Thái Lan vào ngày 26/2/2009. Từ đây có thể khẳng định sứ mệnh và vai trò của lực lượng kế toán Việt Nam ngày càng được coi trọng trong xã hội, vì thế đòi hỏi của xã hội đối với những người làm nghề kế toán ngày càng lớn và đó cũng là trọng trách của hoạt động đào tạo kế toán trong các trường đại học và viện nghiên cứu. Bài viết chỉ ra những hạn chế và yếu kém của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện nay, qua đó đưa ra một số định hướng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành này tại các cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (Asean Economic Community – AEC). Từ khóa: Kế toán viên; ngành kế toán; Cộng đồng kinh tế ASEAN; Việt Nam; trường đại học; hội nhập. ABSTRACT ASEAN Mutual Reorganization Agreement (MRA) on accountancy services was signed by the ASEAN Economic th th Ministers (AEM) at the 14 ASEAN Economic Ministers’ Meeting in Cha-am, Thailand, February 26 2009. The role of accounting forces in Vietnam is increasingly respected in the society, so society's demands for them are growing. Vietnamese universities play the important role in raising the quality of Vietnamese accountants and the readiness of Vietnamese accounting students for the ASEAN Economic Community (AEC). This study points out the weaknesses of the accountants and the accounting students in Vietnam nowadays, thereby suggests ways to improve Vietnamese accounting education to match the demands of the AEC. Keywords: Accountants; accounting; ASEAN Economic Community; Vietnam; universities; integration. 1. Đặt vấn đề Ngành kế toán Việt Nam đã phát triển nhanh chóng kể từ khi đƣợc thành lập vào những năm 1990. Chúng ta đang chứng kiến sự tiến bộ nhanh chóng về kỹ năng chuyên môn của đội ngũ kế toán ở Việt Nam, cũng nhƣ trên khắp khu vực châu Á. Vị thế của kế toán Việt Nam ngày càng đƣợc đề cao khi Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán đã đƣợc ký kết giữa 10 nƣớc ASEAN tại Hội nghị Bộ trƣởng kinh tế ASEAN lần thứ 14 tại huyện Cha-am, tỉnh Phetchaburi, Thái Lan vào ngày 26/2/2009. Hiệp định này cho phép chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ kế toán đƣợc cấp bởi các cơ quan chức năng tƣơng ứng tại Việt Nam sẽ đƣợc thừa nhận bởi các nƣớc thành viên khác trong khu vực ASEAN và ngƣợc lại. Việc này sẽ tạo động lực cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN hoạt động theo đúng những nguyên tắc và quy định tƣơng ứng trong nƣớc. Nhƣ vậy, đến cuối năm 2015, khi Cộng đồng kinh tế ASEAN (Asean Economic Community – AEC) đƣợc thành lập, cùng với 7 ngành nghề lao động khác là bác sỹ, nha sỹ, hộ lý, kỹ sƣ, kiến trúc sƣ, giám sát viên và nhân viên du lịch, lực lƣợng lao động của khối ngành kế toán trong các nƣớc ASEAN đƣợc tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tƣơng đƣơng. Đây là cơ hội cho những ngƣời có chứng chỉ hành nghề kế toán đạt tiêu chuẩn ASEAN và tiêu chuẩn quốc tế có thể dễ dàng làm việc tại các nƣớc trong khu vực. Đồng thời, thị trƣờng dịch vụ kế toán Việt Nam sẽ ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt, đòi hỏi các kế toán viên phải nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp cũng nhƣ đạo đức nghề nghiệp nếu không sẽ bị các đồng nghiệp trong khu vực và quốc tế thay thế. Lẽ tất yếu là nền tảng kiến thức và các kỹ năng cần thiết của các kế toán viên nên và cần thiết phải đƣợc đặc biệt quan tâm và xây dựng, rèn luyện trong khoảng thời gian đƣợc đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học. Yêu cầu này đặt ra những thách thức không nhỏ cho 349
  2. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG các trƣờng đại học Việt Nam trong việc đào tạo nguồn nhân lực kế toán chất lƣợng cao, tƣơng xứng với các nƣớc Đông Nam Á phát triển khác. Căn cứ trên những tài liệu có đƣợc, bao gồm các tài liệu trong nƣớc và nƣớc ngoài, bài viết này ghi lại những vấn đề nảy sinh và tồn tại trong lý luận và thực tiễn của giáo dục đại học Việt Nam đối với chuyên ngành kế toán trong mối quan hệ tƣơng quan so sánh với nền giáo dục các nƣớc tiên tiến. Dựa trên kinh nghiệm quản lý giáo dục ở các quốc gia phát triển trong khu vực ASEAN nhƣ Thái Lan, Indonesia…, tác giả đƣa ra một số giải pháp mang tính định hƣớng nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo ngành kế toán trong các trƣờng đại học Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ hội nhập AEC. 2. Những nhƣợc điểm cần khắc phục của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện nay - thách thức đặt ra trong tiến trình hội nhập Sau nhiều năm chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung sang mô hình kinh tế thị trƣờng, lực lƣợng lao động khối ngành kinh tế, đặc biệt là kế toán có sự phát triển mạnh mẽ vƣợt bậc về số lƣợng, điều này có thể dễ dàng nhận thấy qua sự tăng trƣởng nhanh chóng của sinh viên chuyên ngành kế toán trong các trƣờng đại học Việt Nam. Với lực lƣợng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ, đội ngũ kế toán Việt Nam đang dần chứng tỏ vai trò của mình trong sự phát triển của quốc gia. Tuy vậy, có một thực tế đáng buồn mà tất cả chúng ta đều phải thừa nhận đó là trong khi ngân sách đầu tƣ cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề luôn đƣợc Nhà nƣớc quan tâm và đầu tƣ; sinh viên khối đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp đã tăng mạnh trong những năm qua; sinh viên ra trƣờng bằng giỏi, bằng khá ở nhiều trƣờng kinh tế cũng chiếm tỉ lệ rất cao… thì chất lƣợng lao động của khối ngành này lại không đƣợc đánh giá cao. Thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá, chất lƣợng nguồn nhân lực kế toán của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách không nhỏ so với các nƣớc phát triển trong khu vực nhƣ Thái Lan, Philippines, Singapore. Trƣớc hết, về trình độ chuyên môn: Đánh giá tổng quan có thể thấy, trình độ kiến thức, chuyên môn của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện nay đã có sự phát triển và tiến bộ hơn rất nhiều so với những thời kỳ trƣớc. Tuy nhiên nếu so sánh với các nƣớc phát triển trong khối ASEAN nhƣ Thái Lan, Singapore hay Philippin thì giữa chúng ta với những quốc gia này còn khá xa. Trong khi đội ngũ kế toán viên của họ đã và đang dần tạo đƣợc một vị thế nhất định trên thị trƣờng lao động ngành kinh tế của thế giới thì đội ngũ kế toán Việt Nam vẫn đang trong quá trình thoát khỏi ―ao làng‖ để hòa nhập với quốc tế. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện còn khá thấp, đặc biệt là với đội ngũ sinh viên mới ra trƣờng. Không cập nhật sự thay đổi của chuẩn mực kế toán quốc gia, chuẩn mực kế toán quốc tế là hạn chế chuyên môn đáng báo động của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện nay. Cho đến nay đa số các kế toán Việt Nam hiện chỉ biết và làm việc theo những hƣớng dẫn của Bộ tài chính qua các chế độ, thông tƣ hƣớng dẫn. Chuẩn mực đối với họ vẫn chỉ là một khái niệm mang tính lý thuyết, sách vở. Ít tiếp xúc và cập nhật với hệ thống các chuẩn mực liên quan đã hạn chế phần nào đến khả năng khái quát, suy luận và phát triển kiến thức đã học trƣớc đó của những ngƣời hành nghề kế toán. Cũng cần nhận thức một vấn đề là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày một phát triển, các quan hệ kinh tế - tài chính ngày một phức tạp, việc hiểu đúng, nắm vững bản chất của các chuẩn mực kế toán và vận dụng vào điều kiện Việt Nam là vô cùng cần thiết cho những ngƣời hành nghề. Bên cạnh trình độ chuyên môn, các kỹ năng mềm nhƣ làm việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lập kế hoạch… và tác phong công nghiệp chƣa tốt cũng là điểm yếu khó cạnh tranh của các kế toán viên Việt Nam khi thị trƣờng lao động đƣợc mở cửa. Đội ngũ kế toán đƣợc đào tạo nghề trong những năm qua phần lớn chỉ đƣợc chú trọng vào đào tạo chuyên môn cứng, khả năng làm việc 350
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) độc lập trong khi hội nhập đang cần các kỹ năng toàn diện hơn. Kỹ năng nghề nghiệp yếu, tác phong thiếu chuyên nghiệp, các kỹ năng đƣợc trang bị không phù hợp với đòi hỏi của thị trƣờng và nhiều lao động phải đƣợc các nhà tuyển dụng đào tạo lại. Đây là một trong những lý do khiến năng suất lao động của đội ngũ kế toán Việt Nam đang ở mức thấp. Báo cáo của Tổ chức lao động quốc tế (ILO - International Labour Organization) mới đây cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/5 so với Malaysia; 2/5 so với Thái Lan và 1/15 so với lao động Singapore (dẫn theo trang tin vietnamnet.vn ngày 10/3/2015). Cần hiểu rằng, cái mà các kế toán viên Việt Nam hiện đang ―thiếu‖ so với nhu cầu của doanh nghiệp đó là khả năng thích nghi với môi trƣờng làm việc; khả năng giao tiếp, tuân thủ các quy tắc nghề nghiệp; khả năng tƣơng tác làm việc nhóm; khả năng tƣ duy logic và các kỹ năng mềm khác trong xử lý công việc. Nhà tuyển dụng có thể đào tạo lại nhằm bổ sung, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho ngƣời lao động, nhƣng họ không thể là ngƣời dạy những kỹ năng giao tiếp, ứng xử hay tác phong làm việc bởi đó là kết quả của sự trau dồi, đúc rút kinh nghiệm của bản thân từng ngƣời. Trình độ ngoại ngữ cũng là một rào cản lớn của lao động kế toán Việt Nam trong quá trình hội nhập. Những năm vừa qua, việc dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh phát triển vô cùng mạnh mẽ khắp cả nƣớc. Tuy nhiên, quá trình học ngoại ngữ này vẫn còn nhiều hạn chế nhƣ: thiên về dạy và học ngữ pháp là chủ yếu, việc rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết chƣa đƣợc chú trọng. Học lý thuyết không gắn với thực hành hằng ngày nên sự bỡ ngỡ, bối rối khi giao tiếp là điều khó tránh khỏi. Có rất ít ngƣời lao động Việt Nam, trong đó có các kế toán tự trau dồi khả năng ngoại ngữ của mình, đặc biệt là từ vựng chuyên ngành trong quá trình làm việc hằng ngày. So với Việt Nam, kế toán viên của các nƣớc cùng khu vực nhƣ Philippines, Singapore, Malaysia… sử dụng ngoại ngữ tốt hơn nhiều. Trình độ ngoại ngữ hạn chế cũng là một trong những nguyên nhân khiến đội ngũ kế toán Việt Nam không tiếp thu đƣợc hết những chỉ đạo của các nhà quản lý nƣớc ngoài, tạo sức ì trong việc cập nhật những thay đổi liên quan đến chuẩn mực, các thông lệ cũng nhƣ luật pháp kinh tế quốc tế. Năng suất lao động thấp cũng một phần từ đó mà ra. Phân tích sâu hơn các hạn chế nói trên của đội ngũ kế toán Việt Nam hiện nay sẽ thấy rõ một số lo ngại. Cụ thể, AEC cho phép và ủng hộ việc tự do di trú, tìm việc làm của công dân mỗi nƣớc và từ đó sẽ hậu thuẫn cho sự xuất hiện của một làn sóng di cƣ tự do trong khu vực. Đối với Việt Nam, đây không hẳn là thời cơ mà ngƣợc lại có khi lại là thách thức bởi hầu hết đội ngũ kế toán trong nƣớc không đƣợc đào tạo theo chuẩn quốc tế; lại càng thiếu sự trang bị về ngoại ngữ cũng nhƣ những kỹ năng mềm về quản trị, khả năng làm việc, giao tiếp trong môi trƣờng đa văn hóa, kiến thức tin học, chuẩn mực kế toán… Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lƣợng nguồn nhân lực kế toán Việt Nam còn thấp là do công tác đào tạo hiện nay chƣa phù hợp, chất lƣợng đào tạo còn hạn chế, chƣa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của ngƣời học, chƣa theo kịp sự chuyển biến của đất nƣớc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chƣa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lƣợng và chất lƣợng, giữa dạy chữ với dạy ngƣời, dạy nghề… Cụ thể, khung chƣơng trình cho chuyên ngành kế toán mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chủ yếu nhấn mạnh đến phần giáo dục đại cƣơng, các yêu cầu về kiến thức chuyên ngành còn rất thấp so với những yêu cầu của IFAC (Liên đoàn kế toán thế giới - International Federation of Accountants), thời lƣợng học kế toán chủ yếu là lý thuyết, sinh viên ít có cơ hội thực hành nghề nghiệp tại doanh nghiệp. Chính vì vậy, nâng cao chất lƣợng giảng dạy tại các trƣờng đại học là điều kiện tiên quyết và cần thiết nhằm cải thiện chất lƣợng nguồn nhân lực kế toán Việt Nam đáp ứng những yêu cầu hội nhập AEC. 3. Các giải pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực kế toán Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN 351
  4. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Theo lộ trình, vào cuối năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN AEC sẽ hình thành. Việt Nam là một trong những thành viên trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á rất tích cực, chủ động, đề xuất nhiều sáng kiến để thúc đẩy sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN, bởi với thị trƣờng 600 triệu dân rộng lớn này, chúng ta có nhiều cơ hội về thƣơng mại, đầu tƣ, dịch vụ, việc làm, trong đó có dịch vụ kế toán. Khi đó, nguồn nhân lực nƣớc ta có thêm cơ hội làm việc tại các nƣớc láng giềng nhƣng cũng đối mặt với sự cạnh tranh từ các nƣớc ASEAN ngay trên sân nhà. Vì vậy, nƣớc ta cần có các chƣơng trình đào tạo khối ngành kế toán có chất lƣợng cao, tiếng Anh chuẩn và kỹ năng mềm tốt để đón đầu với sự tự do di chuyển và làm việc giữa các nƣớc trong khu vực. Để làm đƣợc điều này, các cơ sở giáo dục đại học, các học viện đào tạo kế toán cần quan tâm đến những vấn đề sau: Thứ nhất, cần nghiên cứu lại chƣơng trình đào tạo chuyên ngành kế toán theo hƣớng vừa đảm bảo những yêu cầu chuyên môn cần thiết, vừa tiếp cận với nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Nghiên cứu của Trƣơng Bá Thanh và Trần Đình Khôi Nguyên (2007) đã chỉ ra những hạn chế của chƣơng trình đào tạo cử nhân kế toán tại Việt Nam: ―kiến thức chuyên ngành, kiến thức bổ trợ bị giới hạn trong những phạm vi mà mỗi trƣờng đại học đã xây dựng‖, ―giáo trình về kế toán trên thị trƣờng đều viết trên tinh thần của các thông tƣ hƣớng dẫn‖, ―chƣơng trình đào tạo chƣa tính đến vấn đề hội nhập‖. Thực trạng này phần nào gây ra nghịch lý trong đào tạo kế toán hiện nay là cái sinh viên cần thì không dạy cái sinh viên không cần thì lại dạy, hầu hết sinh viên ra trƣờng đều phải trải qua quá trình ―đào tạo lại‖ mới đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng. Để khắc phục những hạn chế nói trên, khi xây dựng chƣơng trình khung đối với ngành kế toán, nhà trƣờng cần tham khảo chƣơng trình đào tạo của các nƣớc tiên tiến trên thế giới và có sự cập nhật, thay đổi theo sự phát triển từng thời kỳ, giai đoạn của ngành nghề và nền kinh tế thế giới. Trƣớc hết, chƣơng trình đào tạo những chuyên gia tài chính, kế toán trong doanh nghiệp cần phải bao quát cả kiến thức chuyên môn lẫn kỹ năng quản trị trong các lĩnh vực nhƣ kế toán tài chính, kế toán quản trị, báo cáo tài chính, kỹ năng lãnh đạo, lập chiến lƣợc và quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, luật, thuế và các dịch vụ bảo đảm... Hệ thống giáo trình, đặc biệt là giáo trình kế toán cần đƣợc biên soạn dựa trên các chuẩn mực kế toán. Ngoài hệ thống chuẩn mực trong nƣớc, nhà trƣờng cũng cần giới thiệu, đào tạo kỹ lƣỡng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế và của các nƣớc trong khu vực ASEAN. Nhà trƣờng cần cập nhật chƣơng trình giảng dạy theo tính thời sự nhất, mới nhất tránh tình trạng thông tin sinh viên đƣợc học lại quá lạc hậu với thực tế bên ngoài xã hội, gây bỡ ngỡ, thiếu tự tin cho sinh viên khi ra trƣờng. Nên hƣớng dẫn sinh viên cách tự tiếp cận, tự nghiên cứu các vấn đề mới dựa trên cơ sở nền tảng đã đƣợc học. Thứ hai, nâng cao hiểu biết và trình độ cho đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu hội nhập. Nhƣ chúng ta biết, giảng viên đóng vai trò quan trọng ảnh hƣởng đến chất lƣợng của sinh viên tốt nghiệp, bởi lẽ trong thời gian đƣợc học tại trƣờng đại học, giảng viên là đối tƣợng mà sinh viên tiếp xúc nhiều nhất. Đội ngũ giảng viên trong các trƣờng đại học đóng vai trò vừa là ngƣời thầy, vừa là những nhà khoa học với nhiệm vụ chính là nghiên cứu, phát triển và cập nhật, giới thiệu những kiến thức mới về khoa học, công nghệ đến sinh viên thông qua công tác giảng dạy, nghiên cứu… (M.Th.Sri rejeki Retnaningdyastuti, 2015). Chính bởi vậy nâng cao chất lƣợng giảng viên cũng góp phần nâng cao chất lƣợng của hoạt động đào tạo. Kế toán là một ngành học mang tính ứng dụng và thực tiễn cao, nên việc bố trí giảng viên giảng dạy sao cho phù hợp với nhu cầu của ngƣời học và đặc thù của môn học là một công tác đòi hỏi sự khéo léo và linh hoạt của nhà quản lý. Bàn về vấn đề này, Chúc Anh Tú (2014) cho rằng tổ/ bộ môn cần có sự quy hoạch về giảng viên để giảng dạy các môn học phù hợp, hƣớng đến sự nghiên cứu chuyên sâu trong từng môn học. Bên cạnh đó, các trƣờng cần quan tâm bồi dƣỡng chuyên môn, đào tạo đội ngũ giảng viên, cử giảng viên đi học tập nâng cao trình độ chuyên môn ở trong và ngoài nƣớc để có thể học tập kinh nghiệm giảng dạy tiên tiến trên thế giới. Về phía mình, để cập nhật với những kiến thức chuyên ngành một cách kịp thời và tiếp cận quốc tế, các giảng viên cần tự trau dồi, rèn luyện năng lực ngoại ngữ, đọc và 352
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) nghiên cứu tài liệu chuyên ngành, chủ động tìm kiếm cơ hội tham gia các khóa bồi dƣỡng, thi lấy chứng chỉ quốc tế về kế toán, kiểm toán, ngày một hoàn thiện năng lực chuyên môn và năng lực giảng dạy của bản thân. Thứ ba, nhà trƣờng cần kết hợp với các chuyên gia kế toán, chuyên gia tin học có nhiều kinh nghiệm thực tế hoặc các công ty phần mềm kế toán xây dựng nên ―phòng kế toán ảo‖ phục vụ việc học tập và thực hành. Thực tế cho thấy sinh viên chuyên ngành kế toán khi ra trƣờng thƣờng khó có cái nhìn cụ thể về công việc của mình vì thời lƣợng học thực hành ở lớp rất ít, trong thời gian đi thực tập cuối khóa rất ít đƣợc doanh nghiệp tin tƣởng giao việc cho làm, hoặc nếu đƣợc tiếp xúc với môi trƣờng doanh nghiệp, sinh viên cũng khó tiếp cận đƣợc với các số liệu hồ sơ kế toán của các đơn vị. Trong trƣờng hợp này áp dụng mô hình thực hành kế toán ảo (kế toán mô phỏng) vào nội dung giảng dạy nhƣ một giải pháp hƣớng đến mục tiêu phát triển kỹ năng thực hành kế toán (Trƣơng Hoàng Tú Nhi, 2014). ―Phòng kế toán ảo‖ sẽ mô phỏng một cách đầy đủ và sinh động nhất của vai trò một ngƣời kế toán trong thực tế, giúp ngƣời học phần nào hiểu đƣợc những công việc mình sẽ đƣợc phân công làm trong thực tế sau này, đồng thời hình thành những kỹ năng, kinh nghiệm làm việc cơ bản của ngƣời kế toán mà không nhất thiết phải đi làm sinh viên mới thu nạp đƣợc. Yêu cầu phần mềm này phải có nhiều cơ sỡ dữ liệu phong phú đa đa dạng về loại hình công ty, số liệu có thể giống nhƣ thật 100% (nhƣng phải đảm bảo tính bí mật và không ảnh hƣởng đến bất kỳ một doanh nghiệp nào). Hàng năm có thể tổng kết và bổ sung cập nhật dữ liệu thêm vào phần mềm để đảm bảo phần mềm này không lạc hậu và sát với thực tế. Với mô hình này, sinh viên có thể thực tập nghề nghiệp hay thực tập cuối khóa ngay tại trƣờng mà không cần phải đến doanh nghiệp. Mô hình này hiện đã đƣợc triển khai ở đại học Bình Dƣơng, đại học Văn Lang, đại học Duy Tân… và nhận đƣợc những phản hồi tích cực của sinh viên. Thứ tư, tạo không gian, môi trường thuận lợi cho sinh viên trong việc rèn luyện, phát triển các kỹ năng mềm cần thiết. Vai trò của giáo dục đại học là đào tạo một lực lƣợng lao động có trình độ và sức cạnh tranh, bằng cách đƣa ra các cơ hội cho sinh viên thông qua cung cấp các kiến thức chuyên môn và các kỹ năng bao gồm kỹ năng cứng và kỹ năng mềm (Evienia, et al, 2014, dẫn theo M.Th.Sri rejeki Retnaningdyastuti, 2015,). Thời kỳ hội nhập AEC sẽ mở ra nhiều cơ hội việc làm với nhiều yêu cầu cao hơn đối với ngƣời lao động, trong đó có một số lƣợng lớn các kế toán viên, với tiêu chí tuyển dụng cao hơn đòi hỏi nguồn nhân lực phải có nhiều kỹ năng và yêu cầu khác ngoài kiến thức chuyên môn, đó là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng trình bày, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, là tác phong công nghiệp (tính kỷ luật và trách nhiệm)… Thực tế cho thấy sinh viên kế toán Việt Nam khá chăm chỉ và cầu tiến nhƣng thƣờng kém năng động hơn các sinh viên những ngành khác nhƣ quản trị kinh doanh hay tài chính – ngân hàng. Để khắc phục đƣợc nhƣợc điểm này đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân các em và sự hỗ trợ từ phía nhà trƣờng bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhà trƣờng có thể tổ chức các môn chuyên đề huấn luyện kỹ năng mềm nhƣ các khóa học giao tiếp trong kinh doanh, kỹ năng quản trị, kỹ năng lập kế hoạch, làm việc nhóm… Các khóa học đƣợc đào tạo bởi đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong trải nghiệm thực tế luôn thu hút sự quan tâm của đông đảo sinh viên hiện nay, cho các em những trải nghiệm học tập mới mẻ và bổ ích. Đồng thời, nhà trƣờng cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể nhƣ Đoàn thanh niên, hội sinh viên trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhƣ mùa hè xanh, hội thao sinh viên, hội trại, hoạt động thiện nguyện. Để các sinh viên phát huy sự năng động, sáng tạo, có cơ hội ứng dụng các kỹ năng mềm đƣợc đào tạo, nguyên tắc cần đƣợc nhà trƣờng thống nhất là: tất cả đều do sinh viên tự thiết kế, tổ chức và thực hiện. Bên cạnh đó, các giảng viên trong quá trình giảng dạy cũng có thể triển khai rèn luyện các kỹ năng mềm trong từng học phần đảm nhiệm. Cụ thể, trong từng môn học chuyên ngành, các giảng viên sẽ giao các dự án nhóm, đề tài môn học cho từng nhóm sinh viên. Các em sẽ làm việc theo nhóm từ đầu học kỳ để thực hiện một đề tài hoàn chỉnh và đến cuối học kỳ phải trình bày và báo cáo kết 353
  6. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG quả đề tài đó. Thông qua cách tổ chức lớp học nhƣ vậy, không chỉ kiến thức chuyên môn mà các kỹ năng mềm cũng đƣợc liên tục hoàn thiện trong suốt thời gian học tại trƣờng. Thuần thục trong áp dụng các kỹ năng mềm cơ bản giúp ngƣời kế toán liên kết các khối kiến thức và kỹ năng cứng và vận dụng chúng một cách linh động trong các tình huống trong công việc và cuộc sống. Ngoài ra các kỹ năng mềm giúp ngƣời kế toán thích nghi vào các môi trƣờng sống thay đổi một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Ngoài bằng cấp chuyên môn, việc bổ sung, học hỏi thêm các kỹ năng bổ trợ cho công việc sẽ ngƣời kế toán dễ dàng tìm kiếm và giữ đƣợc việc làm. Thứ năm, chú trọng việc đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là các kỹ năng giao tiếp và viết trong kinh doanh. Theo nội dung của ―Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ kế toán trong ASEAN‖, khi AEC đƣợc thành lập, ngƣời nƣớc ngoài có Chứng chỉ Kế toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN có thể đƣợc tuyển vào làm việc trong các doanh nghiệp dịch vụ kế toán Việt Nam. Tƣơng tự, ngƣời Việt Nam có Chứng chỉ Kế toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN cũng có cơ hội vào làm việc trong các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán của các nƣớc trong khu vực. Tuy nhiên, cần thừa nhận một thực tế là, nhân lực chất lƣợng cao (các chuyên gia, các kế toán viên kinh nghiệm), trong đó có nhân lực đƣợc đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, đƣợc di chuyển tự do hơn. Nâng cao kỹ năng tiếng Anh cho phép đội ngũ kế toán tìm đƣợc công việc tốt hơn và tăng mức sống của họ. Chính vì vậy khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh là kỹ năng quan trọng nhất phải có. Đặc biệt là ở nƣớc ta khi bối cảnh kinh tế cũng nhƣ chất lƣợng nguồn lao động chƣa ổn định sẽ khó lòng cạnh tranh lại so với các nƣớc thạo Anh ngữ trong khu vực. Việc mỗi kế toán viên Việt Nam chủ động tự trang bị vốn tiếng Anh vững vàng sẽ là một ―đòn bẩy‖ tạo sức bật hiệu quả cho công việc và tạo kiện đón nhận thêm nhiều cơ hội mới giữa thời buổi hội nhập đầy cạnh tranh. Có thể khẳng định, nếu đƣợc đào tạo và rèn luyện đúng hƣớng, nói tiếng Anh trôi chảy sẽ là một lợi thế cạnh tranh của đội ngũ kế toán Việt Nam. Thứ sáu, áp dụng một số chƣơng trình đào tạo kế toán của các nƣớc tiên tiến trong khu vực và thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam vào đào tạo chuyên ngành kế toán. Quốc tế hóa các trƣờng đại học tại Việt Nam thông qua các chƣơng trình liên kết đào tạo đang là một xu hƣớng phát triển ngày càng mạnh mẽ và đƣợc sự ủng hộ của nhà nƣớc Việt Nam cũng nhƣ của tất cả các bên liên quan, điển hình nhƣ: trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân liên kết với Đại học York Saint John, Vƣơng quốc Anh đào tạo Cử nhân Kế toán - Tài chính (BIFA), Khoa Quốc tế, ĐHQGHN liên kết với ĐHTH Kỹ thuật Quốc gia Tambov, CHLB Nga đào tạo cử nhân chuyên ngành Kế toán - phân tích & Kiểm toán, Học viện Tài chính liên kết đào tạo Cử nhân Kế toán ứng dụng liên kết với Hiệp hội Kế toán Công chứng Anh (ACCA) và đại học Oxford Brookes (UK), … Xu hƣớng này đang tác động sâu sắc đến các trƣờng đại học Việt Nam về mọi phƣơng diện, một mặt chia sẻ gánh nặng đào tạo cho các cơ sở giáo dục đại học trong nƣớc, góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực trình độ cao cho Việt Nam, mặt khác thúc đẩy quan hệ hợp tác bền vững và lâu dài giữa các nền giáo dục ĐH Việt Nam và giáo dục thế giới. Điều đó sẽ hƣớng tới đáp ứng nhu cầu cùng tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới trong thế kỷ 21. Thứ bảy, hợp tác chặt chẽ hơn nữa với các hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán uy tín trên thế giới và trong khu vực nhƣ ACCA, CPA Australia, SAA…để thực hiện quá trình đào tạo các chứng chỉ và bằng cấp chuyên nghiệp cho các sinh viên và kế toán viên có nhu cầu. Ngoài việc học tốt chƣơng trình đại học / cao đẳng ở Việt Nam, thiết nghĩ sinh viên Việt Nam cần học thêm các bằng cấp quốc tế đƣợc công nhận rộng rãi ở khu vực ASEAN và trên toàn cầu. Những bằng cấp quốc tế này là ―hộ chiếu‖ để kế toán Việt Nam làm việc ở các nƣớc ASEAN khác. Xã hội ngày càng có nhiều nhu cầu tìm kiếm các chuyên gia tài chính, kế toán có đủ năng lực với bằng cấp và chứng chỉ đƣợc công nhận trên toàn cầu. Ngoài ra, họ cần có kỹ năng, kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn tốt để có thể tƣ vấn cho các doanh nghiệp trong 354
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2015) giai đoạn này. Sẽ có nhiều cơ hội cho những kế toán viên đang sở hữu các chứng chỉ nghề nghiệp - những ngƣời có thể tạo ra lợi thế khác biệt để thành ngƣời đi đầu trong lĩnh vực mình theo đuổi. 4. Kết luận AEC đang đến rất gần và đặt Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc Đông Nam Á khác trƣớc những cơ hội, thách thức to lớn. Thực tế này đang đòi hỏi chính phủ, doanh nghiệp và ngƣời dân Việt Nam phải có sự quan tâm, chuẩn bị kỹ lƣỡng để tận dụng cơ hội, vƣợt qua thách thức trong quá trình tham gia AEC. Trong đó, các yếu tố then chốt mà Việt Nam không thể bỏ qua là cải cách thể chế và nâng cao chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực. Đối với ngành kế toán - một trong tám lĩnh vực đƣợc ƣu tiên phát triển của ASEAN, hội nhập AEC vừa đặt ra nhiều nhiệm vụ cho các nhà quản lý giáo dục. Để nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực kế toán, cần nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo. Để có đƣợc nguồn nhân lực tốt phục vụ cho đất nƣớc và để các sinh viên đƣợc đào tạo nhận đƣợc quyển tự do làm việc trong các nƣớc thuộc khối ASEAN, các trƣờng đại học phải chủ động đổi mới, thực hiện đồng thời các giải pháp nhƣ cải tiến chƣơng trình giảng dạy, nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên, chú trọng đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng mềm… Một đội ngũ kế toán có ―Trình độ chuyên môn đẳng cấp quốc tế; lƣu loát ngoại ngữ‖ hứa hẹn sẽ là lợi thế cho Việt Nam trong thời kỳ đầu gia nhập AEC. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh [1] ASEAN Secretary (2014), ASEAN Mutual Reorganization Agreement (MRA) on accountancy services – Handbook. [2] Lita Kusumasari (2014), Indonesian institute of accountants (IAI) towards ASEAN Economic Community (AEC) 2015, Asian Journal of Accounting and Finance, Special Issues, December 2014, ISSN 2087-4499. [3] M.Th.Sri rejeki Retnaningdyastuti (2015), ―The role of lecturers to produce quality graduates in the higher education‖, Proceedings of International Conference: Enhancing Education Quality In Facing Asian Community - University of PGRI Semarang , Indonesia, ISBN: 978-602-8047-83-8. [4] Muttanachai Suttipun (2014), ―The Readiness of Thai Accounting Students for the ASEAN Economic Community: An Exploratory Study‖, Asian Journal of Business and Accounting 7(2)- 2014, ISSN 1985–4064. [5] Tiyadah Pichayasupakoon (2014), ―The Impact of the ASEAN Economic Community (AEC) on the Recruitment of Accountants: A Case Study of Listed Firms on the Stock Exchange of Thailand‖, Silpakorn University Journal of Social Sciences, Humanities, and Arts, Vol.14(2) : 1-24, 2014. Tiếng Việt [6] Ban thƣ ký ASEAN (11/2011), Sổ tay kinh doanh trong cộng đồng kinh tế ASEAN (Bản dịch), ISBN 978-602-8411-85-1. [7] Trƣơng Hoàng Tú Nhi (2014), ―Mô hình thực hành kế toán ảo – Giải pháp đào tạo hƣớng đến mục tiêu phát triển kỹ năng thực hành nghề kế toán‖, Kỷ yếu Hội thảo khoa học CITA 2014 công nghệ thông tin và ứng dụng trong các lĩnh vực – lần thứ 3, Số 3, 2014. [8] Nguyễn Hồng Sơn - Nguyễn Anh Thu (2015), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC): bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [9] Trƣơng Bá Thanh – Trần Đình Khôi Nguyên (2007), ―Đổi mới công tác đào tạo kế toán - kiểm toán 355
  8. TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới‖, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, Số: 21/2007, 110-113. [10] Nguyễn Thị Diệu Thanh (2014), ―Giáo dục đại học việt nam trong thời đại toàn cầu hóa: cơ hội và thách thức‖, Kỷ yếu HTKH “Vai trò của các trường đại học và cao đẳng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội khu vực ĐBSCL” – Trƣờng ĐH An Giang. [11] Chúc Anh Tú (2014), ―Con đƣờng để bằng cấp kế toán, kiểm toán Việt Nam đƣợc quốc tế thừa nhận‖, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Kế toán - kiểm toán trong tiến trình cải cách và hội nhập” – Trƣờng ĐH Kinh tế Đà Nẵng. [12] Trƣơng Thùy Vân – Nguyễn Thị Diệu Thanh (2014), ―Đào tạo ngành kế toán dựa trên chuẩn đầu ra tại trƣờng đại học Quảng Bình – Thực trạng và giải pháp‖, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Kế toán - kiểm toán trong tiến trình cải cách và hội nhập” – Trƣờng ĐH Kinh tế Đà Nẵng. 356
nguon tai.lieu . vn