Xem mẫu

  1. Khoa Xã hội, Trƣờng MỤC TIÊU CỦA Đại học Sài Gòn VIỆC DẠY HỌC Điện thoại: 0914433211 NGỮ VĂN TRONG THỜI ĐẠI MỚI Email: ngochien2@gmail.com TS. PHẠM NGỌC HIỀN TÓM TẮT Mỗi thời, có một mục tiêu dạy học khác nhau. Ngày nay, Việt Nam đã tiến nhanh sang thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhƣng tƣ duy dạy học Ngữ văn theo kiểu cũ vẫn thịnh hành. Bài viết nêu khái quát các quan niệm dạy Ngữ văn ở Việt Nam và thế giới, xƣa và nay. Từ đó, đề xuất một hƣớng đi mới, thích hợp với xu hƣớng tiến bộ của thế giới và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: mục tiêu, dạy Ngữ Văn, hƣớng đi mới ABSTRACT Objectives of Teaching Philology in the New Era In each era, there are different learning goals. Nowadays, Vietnam has emerged in the era of industrialization and modernization; however, thinking of teaching Philology in old-fashion style is still in vogue. This paper will provide an overview of the concept of teaching Philology in Vietnam and over the world, in past and at present. Consequently, this paper will propose a new approach, which is compatible with progressive trends of the world and practices in Vietnam nowadays. Key words: objectives, teaching Philology, new approach Bộ môn Ngữ văn có vai trò quan trọng hàng đầu trong chƣơng trình đào tạo xƣa nay. Tuy nhiên, mục tiêu dạy học bộ môn này không giống nhau ở các quốc gia và mỗi thời đại. Xác định đúng đắn mục tiêu dạy học Ngữ văn của Việt Nam trong thế kỷ XXI là rất quan trọng. Nó giúp cho các nhà giáo dục tháo gỡ đƣợc những khó khăn trƣớc mắt, nhất là vấn đề học sinh không hứng thú học Văn. Và giúp bộ môn Ngữ văn bƣớc kịp thời đại, hòa nhập vào công cuộc hiện đại hóa đất nƣớc. 1. Điểm qua những mục tiêu dạy học Ngữ văn trong lịch sử giáo dục 267
  2. Trƣớc khi xác định những mục tiêu đào tạo trƣớc mắt, ta hãy tham khảo bức tranh dạy học Văn trong quá khứ. Thời trung đại, môn Văn chiếm vị trí số một, nếu không muốn nói là độc tôn trong nhà trƣờng phong kiến Việt Nam. Ngƣời ta đi học, trƣớc hết là để biết viết, biết đọc rồi nghiền ngẫm các kinh sách cổ điển (Tứ thƣ, Ngũ kinh…) để học đạo lý làm ngƣời, học phép tắc viết văn, làm thơ… Nói cách khác, dạy Văn là để dạy đạo đức và năng lực thƣởng thức cái hay, cái đẹp của văn chƣơng. Các đề thi thƣờng yêu cầu thí sinh viết một bài luận bàn về triết lý đạo đức của cổ nhân hoặc phân tích cái hay của một áng cổ thi. Ngƣời giỏi văn chƣơng có nhiều cơ may thi đậu các kỳ thi rồi ra làm quan. Không làm quan thì làm thầy hoặc nếu không làm thầy thì về nhà ngâm nga thơ phú cũng xem nhƣ đạt đƣợc mục đích học tập của đời ngƣời. Nói tóm lại, thời xƣa học Văn chỉ để biết chứ không phải để làm việc nên ít mang tính thiết thực. Suốt thời cổ trung đại, trong khi giáo dục phƣơng Đông lẩn quẩn trong cái tháp ngà văn chƣơng thì giáo dục phƣơng Tây đã tính đến những mục tiêu thực dụng. Từ thời cổ đại, trƣờng học Hy Lạp không chỉ có môn Ngôn ngữ và Văn chƣơng mà còn có môn Toán học và Võ thuật… Học sinh châu Âu thời trung đại đƣợc học bộ môn Tu từ học để rèn luyện kỹ năng viết lời hay ý đẹp sao cho đạt hiệu quả giao tiếp. Ngoài ra, còn có bộ môn Hùng biện chuyên dạy kỹ năng thuyết phục và giao tiếp trƣớc công chúng. Trong nhà trƣờng Pháp, môn Văn chƣơng có chức năng rèn luyện năng lực nghe, nói, đọc, viết, sau đó là khả năng cảm thụ nghệ thuật và giáo dục nhân sinh quan cho học sinh. Từ đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã đƣợc tiếp thu quan điểm dạy học Văn này qua sách giáo khoa Văn chƣơng Pháp. Sau 1945, Việt Nam chuyển sang học tập mô hình Liên Xô và coi trọng mục tiêu đào tạo con ngƣời mới XHCN, môn Văn giữ một vai trò rất quan trọng. Ở miền Bắc sau 1954, Đảng xem văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, văn nghệ sĩ cũng đồng thời là chiến sĩ. Tác phẩm nghệ thuật phải có chức năng tuyên truyền cách mạng nên việc dạy tác phẩm văn chƣơng trong nhà trƣờng cũng không nằm ngoài nhiệm vụ đó. Việc dạy học văn học cổ điển cũng hƣớng tới các mục tiêu chính trị, những tác phẩm mang cảm hứng yêu nƣớc chống ngoại xâm đƣợc chú trọng. Ngay cả tác phẩm mang cảm hứng thế sự nhƣ Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hƣơng, Chí Phèo, Tắt đèn… cũng đƣợc học với tinh thần phê phán chế độ phong kiến, thực dân để cho thấy sự ƣu việt của chế độ mới. Những bài nghị luận văn học thời ấy thƣờng rất gần gũi với những bài chính trị và lịch sử. Cũng trong giai đoạn 1955 – 1975, ở miền Nam, mục đích dạy học Văn không đặt nặng việc tuyên truyền chính trị. Sách giáo khoa Việt văn chỉ định hƣớng học sinh phân tích những vấn đề luân lý và nghệ thuật. Các bài nghị luận xã hội đƣợc chú trọng, xoay quanh những vấn đề đạo đức truyền thống. Nhìn chung, mục tiêu dạy học Văn hƣớng tới triết lý giáo dục của chính phủ Việt Nam cộng hòa: Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng. 268
  3. Từ 1975, đất nƣớc thống nhất và việc dạy học Ngữ văn cũng đi vào một mục tiêu chung, học sinh cả nƣớc học chung một bộ sách giáo khoa. Sách Tập đọc cấp I chủ yếu dạy học sinh biết đọc, biết viết nhƣng càng lên cao, môn Ngữ pháp càng ít đƣợc chú trọng. Thay vào đó môn Văn dƣờng nhƣ chiếm địa vị độc tôn trong chƣơng trình Ngữ văn trung học vì nó giáo dục tƣ tƣởng cách mạng có hiệu quả rõ rệt nhất. Những tác phẩm văn học cách mạng đƣợc đề cao và chiếm một dung lƣợng đáng kể trong chƣơng trình, nhất là thơ Tố Hữu. Từ thập niên 90 trở đi, môn Ngữ văn mới hình thành ba phân môn rõ ràng: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn, đƣợc dạy song song nhau. Mục tiêu nhân văn và thực dụng của môn Ngữ văn đã bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, phải từ sau năm 2000, với sự xuất hiện của sách giáo khoa Ngữ văn theo hƣớng tích hợp thì môn Ngữ văn mới bộc lộ là “bộ môn có tính chất công cụ”. Từ đây, việc dạy học Ngữ văn ở Việt Nam đã bắt đầu hòa nhịp cùng với mục tiêu chung của việc dạy Ngữ văn trên thế giới. 2. Mục tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay Ở cấp độ vĩ mô, mục tiêu dạy học Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, chú trọng dạy chữ, dạy ngƣời và hƣớng nghiệp. Đi vào cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn mạnh ba mục tiêu chính sau: 1. Trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn học Việt Nam – phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. 2. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phƣơng pháp học tập tƣ duy, đặc biệt là phƣơng pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. 3. Bồi dƣỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nƣớc, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cƣờng, lý tƣởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại”[3, tr. 39]. Mục tiêu dạy học Ngữ văn cũng đƣợc cụ thể hóa ở từng cấp học, lớp học, phân môn… Chẳng hạn, ở cấp THPT: “Mục tiêu trực tiếp, chủ yếu của môn Ngữ văn THPT là hình thành và rèn luyện cho học sinh năng lực đọc – hiểu cũng nhƣ tạo lập các loại văn bản. Chính vì thế, chƣơng trình đƣợc tạo dựng theo hai trục tích hợp: Đọc văn và Làm văn” (Đỗ Ngọc Thống) [8, tr.10]. Phân môn Văn học có chức năng cung cấp một hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về văn học Việt Nam và thế giới, thông qua việc phân tích tác phẩm văn chƣơng mà bồi dƣỡng cho học sinh những giá trị Chân – Thiện – Mỹ. Học sinh không chỉ đƣợc rèn luyện năng lực phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật, mà còn biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Phân môn Làm văn có chức năng rèn luyện kỹ năng viết văn bản. Ban đầu các đề thi chỉ yêu cầu làm nghị luận văn học, càng về sau, nghị luận xã hội càng đƣợc chú trọng. Hiện nay, trong các đề 269
  4. thi Ngữ văn tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học có câu nghị luận xã hội 3 điểm, bàn về một tƣ tƣởng đạo lý hoặc một vấn đề xã hội. Nghĩa là việc dạy học Ngữ văn ngày càng xích lại gần đời sống. Còn chức năng của phân môn Tiếng Việt là: “Thứ nhất, hình thành và rèn luyện cho HS năng lực sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ với bốn kỹ năng cơ bản: đọc, viết, nghe, nói, qua đó mà rèn luyện tƣ duy. Thứ hai, giúp các em có những hiểu biết nhất định (tối thiểu ?) về hệ thống tri thức tiếng Việt và ngôn ngữ để sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, có ý thức. Thứ ba, giúp học sinh biết yêu quý tiếng Việt, có ý thức giữ gìn, bảo vệ và phát triển tiếng Việt; góp phần hình thành nhân cách và bồi dƣỡng tƣ tƣởng, tình cảm…” (Đỗ Ngọc Thống) [7, tr. 60]. Ở cấp độ vi mô, mục tiêu dạy học đƣợc cụ thể hóa đến từng bài học, tiết học. Phần đầu mỗi bài học trong sách giáo khoa đều có ghi mục tiêu cần đạt. Sách Giáo khoa 12, tập 1 (chƣơng trình chuẩn) nêu “kết quả cần đạt” của bài “Nghị luận về một hiện tƣợng đời sống” nhƣ sau: “Nắm đƣợc cách làm bài nghị luận về một hiện tƣợng đời sống; có ý thức và thái độ đúng đắn trƣớc các hiện tƣợng đời sống”. Giáo án của giáo viên cũng ghi rõ ba mục tiêu bài học (kết quả cần đạt), đó là: kiến thức, kỹ năng, tƣ tƣởng. Đây là mục tiêu cần đạt của bài Bến quê (lớp 9) trong giáo án của một giáo viên: 1. Qua cảnh ngộ và tâm trạng của Nhĩ, học sinh cảm nhận đƣợc ý nghĩa triết lý mang tính trải nghiệm về cuộc đời con ngƣời, biết nhận ra những vẻ đẹp bình dị và quý giá trong những gì gần gũi của quê hƣơng, gia đình; 2. Thấy và phân tích đƣợc đặc sắc nghệ thuật của truyện nhƣ tạo tình huống nghịch lý, trần thuật qua dòng nội tâm nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu đầy chất suy tƣ, hình ảnh giàu tính biểu tƣợng; 3. Rèn luyện kĩ năng phân tích truyện có sự kết hợp các kiểu loại tự sự, trữ tình, triết lý. Còn đây là mục tiêu cần đạt của bài Ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân (lớp 11): 1. Thấy đƣợc mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung của xã hội và lời nói riêng của cá nhân; 2. Hình thành năng lực lĩnh hội những nét riêng trong lời nói cá nhân, năng lực sáng tạo của cá nhân trên cơ sở vận dụng từ ngữ và quy tắc chung; 3. Có ý thức tôn trọng những quy tắc ngôn ngữ chung của xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc ngôn ngữ dân tộc… Tuy nhiên, quan điểm dạy học Ngữ văn thƣờng không có sự thống nhất cao giữa các thời kỳ, giữa các tác giả soạn sách giáo khoa, các cấp học, vùng miền, giữa các cấp lãnh đạo chuyên môn và các giáo viên trực tiếp giảng dạy. Ngoài ra còn phải tính đến sự khác nhau rất lớn giữa “nói” và “làm”, lý thuyết và thực tiễn. Nhìn vào chƣơng trình sách giáo khoa, giáo án và qua phát biểu chỉ đạo của các chuyên viên, ngƣời ta thấy việc dạy và học Ngữ văn ngày nay có vẻ rất “đổi mới”, “hiện đại” nhƣng kỳ thực, lối dạy cũ vẫn thịnh hành. 3. Mục tiêu của việc dạy học Ngữ văn trong tƣơng lai Chƣơng trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành đã tạo ra bƣớc đột phá lớn, rút ngắn đáng kể khoảng cách tụt hậu của ta so với thế giới. Nhiều thành tựu dạy học Ngữ 270
  5. văn ở các nƣớc tiên tiến đã đƣợc áp dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, không phải thành tựu nào của thế giới ta cũng vận dụng đƣợc trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, do có nhiều sự khác biệt về thể chế chính trị, trình độ tiếng Anh của ngƣời biên soạn sách, tâm lý tiếp nhận của giáo viên và học sinh, giao lƣu cách trở về địa lý… Và ngay cả ở những nƣớc có nền giáo dục tiên tiến nhất, ngƣời vẫn đang thay đổi, điều chỉnh chƣơng trình từng giờ. Bởi vậy, ta vẫn phải không ngừng cập nhật những thành tựu mới của thế giới để xây dựng chƣơng trình dạy học Ngữ văn trong tƣơng lai. Mục tiêu của việc dạy học Ngữ văn phải đƣợc thấm nhuần trong các khâu của quá trình giáo dục nhƣ tên gọi môn học, nội dung sách giáo khoa, phƣơng pháp dạy và học, kiểm tra đánh giá, sự vận dụng vào cuộc sống… Sau đây, chúng ta sẽ đi vào những mục tiêu cụ thể đƣợc thể hiện qua một số công đoạn cơ bản của quá trình dạy học Ngữ văn. Trƣớc hết, mục tiêu môn học đƣợc thể hiện ở tên gọi môn học. Ở Việt Nam, tên gọi môn Văn đã thay đổi nhiều lần và đến bây giờ đƣợc gọi là Ngữ văn, tức là ghép hai phân môn Ngôn ngữ và Văn học. Tuy nhiên, ngƣời ta vẫn quen gọi ngắn gọn là môn Văn, khoa Văn, bỏ mất chữ “ngữ” hoặc “tiếng”. Việc coi trọng dạy học tác phẩm thơ văn cũng là một truyền thống ở Nga và Trung Quốc mà Việt Nam từng chịu ảnh hƣởng rất sâu sắc hai nƣớc này. Tuy nhiên, trong nhà trƣờng phổ thông của phần lớn các nƣớc trên thế giới hiện nay, ngƣời ta không gọi là môn Văn học mà gọi theo tên tiếng mẹ đẻ. Chẳng hạn, học sinh các nƣớc Anh, Mỹ, Canada, Öc… học môn Tiếng Anh (English, English language art). Học sinh Thái Lan học môn Tiếng Thái, Nhật Bản học Tiếng Nhật, tức là tƣơng đƣơng với cách gọi môn Tiếng Việt ở Việt Nam. Bởi vậy mà khoảng năm 1995, ở Việt Nam có ý kiến đề nghị gọi chung ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Làm văn là môn Tiếng Việt. Tuy nhiên, chủ trƣơng bỏ từ “văn” bị nhiều ngƣời phản đối. Dân tộc Việt Nam đã có truyền thống dạy học “Văn” từ ngàn năm phong kiến, đến thời Pháp thuộc, môn này đƣợc gọi là Quốc văn, và ở miền Nam trƣớc 1975 gọi là Việt văn. Trong quan niệm truyền thống ở Việt Nam và Trung Quốc, khái niệm Văn đồng nghĩa với văn hóa, bao hàm cả văn chƣơng và ngôn ngữ. Có khi ngƣời ta dùng “văn” để chỉ văn chƣơng, có khi dùng “văn” để chỉ “tiếng” (Anh văn, Pháp văn, Nga văn, Việt văn, quốc văn…). Gọi tên môn “Văn” không ổn, gọi môn “Tiếng” không xong, cách gọi tên môn học Ngữ văn (giống nhƣ sách giáo khoa Trung Quốc hiện nay) là thích hợp. Nó nhắc nhở mục tiêu dạy học toàn diện, không chỉ dạy chữ (ngôn ngữ) mà còn dạy ngƣời (văn chƣơng). Về cấu trúc chƣơng trình, trƣớc đây, ta xây dựng theo hƣớng kết hợp (combination) với ba phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn, cho đến bây giờ vẫn còn ảnh hƣởng lối dạy tách rời ba phân môn nhƣ vậy ở trƣờng phổ thông. Tuy nhiên, phần lớn các nƣớc tiên tiến đều xây dựng chƣơng trình theo hƣớng tích hợp (integration), tức là học chung một sách giáo khoa, lấy trục ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ làm nòng cốt. Nội dung học bao gồm các kiến thức nghe, nói, đọc, viết. Ngôn ngữ nói và nghe nhìn hình thành 271
  6. cho học sinh kỹ năng giao tiếp, cách ứng xử phù hợp với ngữ cảnh và đối tƣợng. Học sinh tham gia diễn kịch thảo luận, nắm đƣợc nghệ thuật diễn thuyết (hùng biện)… Nói cách khác là học sinh đƣợc học cách ăn nói sao cho đạt hiệu quả giao tiếp. Ngôn ngữ đọc hình thành thói quen đọc văn độc lập, biết đào sâu suy nghĩ về các lớp ý nghĩa và có thể tham gia sáng tạo văn bản. Không chỉ đọc, hiểu mà còn biết nhận xét đánh giá vấn đề và biết cách thực thi văn bản.. Ngôn ngữ viết hình thành cho học sinh kỹ năng viết đúng văn phạm, không chỉ diễn đạt đúng mà còn hay, mang tính nghệ thuật. Học sinh đƣợc thực hành viết nhiều loại văn bản, trong đó có văn bản văn chƣơng. Nhƣ vậy, môn Văn không làm thành trục chính nhƣng tác phẩm thơ văn, với tƣ cách là ngữ liệu, vẫn có mặt trong suốt bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Xét về phƣơng diện nội dung, có thể chia môn học Ngữ văn trong nhà trƣờng trung học thành ba cụm kiến thức lớn: Ngôn ngữ, Văn chƣơng và Văn hóa nghệ thuật. Nhiệm vụ của ngôn ngữ là cung cấp cho học sinh những kiến thức về văn phạm, khả năng giao tiếp và biết viết các loại văn bản. Đây là môn học có tính thực dụng cao, đƣợc ứng dụng nhiều trong cuộc sống nên cần phải coi trọng hàng đầu. Tuy nhiên, lâu nay chúng ta chỉ dạy ngôn ngữ theo kiểu lý thuyết hàn lâm chứ ít chú trọng thực hành nên nhiều học sinh Việt Nam thiếu hụt kỹ năng giao tiếp và rất rụt rè trong việc bày tỏ các ý kiến của mình. Nhiệm vụ của môn Văn chƣơng là cung cấp những kiến thức cơ bản về lịch sử văn học, lý luận văn học nhƣng quan trọng nhất là kỹ năng phân tích, đánh giá và sáng tạo tác phẩm. Thời phong kiến, Văn chƣơng chiếm vị trí số một trong chƣơng trình giáo dục lẫn trong làng nghệ thuật giải trí nhƣng trong thời đại ngày nay, mọi thứ đã thay đổi. Ngƣời ta có nhiều môn để học, có nhiều loại hình nghệ thuật để giải trí nên việc dành ít thời gian cho môn Văn là chuyện bình thƣờng. Giáo viên cần hiểu điều này để khỏi than phiền học sinh thời nay ít đọc sách văn chƣơng hơn thời xƣa. Mục tiêu dạy học Văn phải thích ứng với thời đại, dạy môn Văn là để rèn năng lực cảm thụ, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật nói chung. Ở nhiều nƣớc trên thế giới, học sinh không chỉ biết phân tích thơ văn mà còn biết phân tích một vở kịch, bộ phim, một bức tranh, bản nhạc… Trong khi học sinh Việt Nam rất mù mờ trong việc cảm nhận và thẩm bình tác phẩm nghệ thuật. Ở nƣớc ngoài, có hai cách để dạy cảm thụ tác phẩm văn chƣơng: một là tác phẩm văn chƣơng đƣợc đặt vào trong bộ môn Nghệ thuật để dạy chung với mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh… Hai là, văn bản thơ văn sẽ đặt nằm chung với các loại văn bản khác trong bộ môn tiếng mẹ đẻ. Dù nằm trong môn nào, tác phẩm văn chƣơng vẫn không xa rời các chức năng quan trọng của mình là bồi dƣỡng các giá trị Chân – Thiện – Mỹ và hình thành các kiến thức, kỹ năng văn hóa nghệ thuật cho học sinh. Mục tiêu dạy học cũng phản chiếu trong phƣơng pháp dạy học. Vấn đề quan trọng cần xác định ở đây là: trong quá trình dạy học Ngữ văn, ai là nhân tố trung tâm: thầy hay trò ? Thử lấy một ví dụ từ nền kinh tế thị trƣờng hiện nay: nhà sản xuất hay 272
  7. khách hàng sẽ là trung tâm của hoạt động mua bán? Nếu hàng hóa nhằm hƣớng tới phục vụ nhu cầu chủ doanh nghiệp thì chỉ cần sản xuất sao cho vừa lòng một mình giám đốc là đủ (dĩ nhiên, chỉ có giám đốc mới tiêu thụ hàng hóa đó!). Nếu nhắm tới phục vụ nhu cầu khách hàng thì phải sản xuất sao cho đẹp lòng ngƣời mua. Hàng hóa càng tốt, nhân viên phục vụ càng chu đáo thì khách hàng càng nhiều, sản phẩm bán càng chạy, doanh nghiệp càng làm ăn phát đạt, đất nƣớc càng phát triển. Hãy trở lại với môi trƣờng giáo dục, nếu quá trình dạy học nhằm hƣớng tới phục vụ lợi ích của ngƣời thầy thì ngƣời thầy sẽ không cần sử dụng các phƣơng thức để lấy lòng học trò. Nghĩa là lên lớp thầy chỉ giảng thao thao bất tuyệt cho hết giờ và chờ tới tháng lãnh lƣơng, còn việc trò có thích và có hiểu hay không là không quan trọng. Nếu nhƣ lấy học trò làm trung tâm thì mọi hoạt động giảng dạy phải hƣớng tới nhu cầu và năng lực của học trò. Nghĩa là thầy phải giảng dạy nhiệt tình, quan tâm tới từng học sinh, biết tôn trọng và lắng nghe, chia sẻ tâm tƣ nguyện vọng của học sinh. Những trƣờng nào dạy tốt, học sinh đổ xô vào càng nhiều. Ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển, phƣơng châm “lấy học sinh làm trung tâm” đã có từ lâu. Còn ở Việt Nam, khoảng 10 năm trở lại đây mới có vài ngƣời chủ trƣơng theo hƣớng này nhƣng bị sự kháng cự mạnh mẽ của giới giáo chức bảo thủ. Bởi vậy, giới cải cách phải vội vã chỉnh sửa lại từ ngữ, thay vì nói “lấy học sinh làm trung tâm” thì phải nói là: “lấy hoạt động học làm trung tâm”. Trong tƣơng lai, khi nền kinh tế thị trƣờng phát triển, thì dĩ nhiên, vai trò của ngƣời của ngƣời học sẽ đƣợc tăng cƣờng, nhất là học sinh ở các trƣờng tƣ. Phƣơng pháp dạy học cũng sẽ hƣớng tới thị hiếu của ngƣời học. Phƣơng pháp nêu vấn đề, đối thoại và trực quan sinh động… đƣợc đề cao, ý kiến của học sinh đƣợc coi trọng khiến cho giờ học sinh động, đầy hứng thú, tránh đƣợc tình trạng học sinh ngủ gật khi nghe thầy “tụng kinh”. Những kiến thức hàn lâm xa rời thực tế và lạc hậu sẽ bị gỡ bỏ dần, thay vào những bài học hấp dẫn, gắn bó tới lợi ích thiết thực của học sinh. Hiện nay, nhiều giáo viên luôn miệng than phiền học sinh ít đọc sách văn học. Nhƣng không biết rằng nhiều học sinh tuy chán học các tác phẩm trong nhà trƣờng nhƣng lại thích sƣu tầm thơ, đọc nghiến ngấu các tiểu thuyết và rất quan tâm theo dõi thời sự văn nghệ trên báo chí và mạng internet… Nghĩa là việc dạy học Văn trong nhà trƣờng hiện nay chƣa đáp ứng nhu cầu yêu văn chƣơng của học sinh. Bởi vậy, trong nhà trƣờng, bên cạnh sách giáo khoa Ngữ văn chính thức, còn phải có các chuyên đề tự chọn để học sinh chọn học theo nhu cầu của mình. Quá trình giáo dục phải hƣớng tới phục vụ các mục đích học tập đa dạng của học sinh. Trong sản xuất, khâu cuối cùng quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp là chất lƣợng đầu ra của sản phẩm. Cái quan trọng của quá trình giáo dục là đầu ra của học sinh. Tùy vào từng cấp học mà mục tiêu phấn đấu khác nhau. Có nhiều loại mục tiêu: cá nhân – xã hội, giáo viên – học sinh… Đối với học sinh Tiểu học, mục tiêu trƣớc mắt của việc học môn Tiếng Việt là thi đậu các kỳ kiểm tra để đƣợc lên lớp và lãnh thƣởng. Cuối cấp phấn đấu thi điểm cao để vào học một trƣờng Trung học mà mình mong 273
  8. muốn. Đối với học sinh cuối bậc Trung học, mục tiêu trƣớc mắt của việc học Ngữ văn là thi đậu Tốt nghiệp và đậu vào Đại học (với khối C, D). Tuy nhiên, từ phía nhà giáo dục, mục tiêu cuối cùng của việc dạy học Ngữ văn trong suốt bậc học phổ thông là giúp cho học sinh ra đời có những kiến thức cơ bản về văn hóa, văn học, có khả năng cảm thụ và đánh giá các tác phẩm nghệ thuật. Có khả năng hiểu mình, hiểu ngƣời, yêu thƣơng, tôn trọng lẫn nhau để chung sống, chung làm trong cộng đồng. Học sinh đƣợc hoàn thiện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, từ đúng đến hay, biết mạnh dạn giao tiếp có hiệu quả trƣớc công chúng, biết soạn thảo các loại văn bản cần thiết trong cuộc sống và trong công việc. Nói chung, việc dạy học môn Ngữ văn phải hƣớng tới mục tiêu chung của giáo dục thế giới mà tổ chức UNESCO đề xƣớng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình". Ở bậc đại học, mục tiêu học tập của sinh viên là rèn luyện chuyên môn tốt để ra trƣờng có việc làm thích hợp và ổn định, có cuộc sống hạnh phúc. Một sinh viên ra trƣờng thành danh, nổi tiếng, tự nó đã quảng cáo chất lƣợng đào tạo của trƣờng. Sinh viên ra trƣờng không ai thành danh, nghĩa là trƣờng đó không có “hạng”. Sinh viên ra trƣờng không có việc làm, điều đó nói lên rằng, tƣơng lai của trƣờng và khoa đó không có gì sáng sủa. Hiện nay, ngành Ngữ văn đang gặp nhiều khó khăn do ít ngƣời theo học. Trƣớc đây, các trƣờng ĐH Tổng hợp, ĐH Sƣ phạm và các trƣờng CĐSP địa phƣơng đầy ắp sinh viên Ngữ văn. Nay, các trƣờng CĐ và ĐH địa phƣơng vẫn chiêu sinh ngành Ngữ văn nhƣng rất ít ngƣời học hoặc không có ai học. Ở nhiều trƣờng, các khoa Văn, Sử, Địa nhập lại thành khoa Xã hội nhƣng chỉ tồn tại trên giấy tờ vì không có sinh viên. Số lƣợng sinh viên khoa Ngữ văn các trƣờng dân lập phía Nam nhƣ ĐH Văn Hiến, ĐH Bình Dƣơng… ngày càng ít. Ngay cả ở những trƣờng ĐH công lập lớn, số lƣợng thí sinh đăng ký vào ngành Ngữ văn cũng ít dần, tỷ lệ chọi giảm, nhiều giảng viên cũng than phiền chất lƣợng đầu vào ngày càng kém. Nhiều học sinh giỏi Văn cấp tỉnh, cấp quốc gia đã không vào học ngành Ngữ văn mà chọn các ngành thời thƣợng nhƣ Ngoại thƣơng, Tài chính ngân hàng, Luật… Tình trạng ngày càng ít thí sinh vào học ngành Ngữ văn đã khiến cho nhiều trƣờng ĐH phải thay đổi lại mục tiêu đào tạo và tên gọi của ngành. Một số trƣờng đổi tên Khoa Ngữ văn, nhập nhiều ngành lại thành: “Khoa Xã hội và Nhân văn”, “Khoa Sƣ phạm Khoa học Xã hội”, “Khoa Ngữ văn và Truyền thông”... Một số trƣờng giữ nguyên tên gọi Ngữ văn nhƣng chƣơng trình đào tạo có thay đổi. Ở Trƣờng ĐH Văn Hiến, Khoa Ngữ văn thiên về đào tạo ngành Văn học nhƣng những năm gần đây, Khoa đã giảm bớt những kiến thức hàn lâm và định hƣớng cho sinh viên học thêm các bộ môn sƣ phạm, báo chí xuất bản, hành chính văn phòng… Năm cuối có thực tập hẳn hoi để sinh viên có thể thành thạo công việc sau khi ra trƣờng và có nhiều hƣớng chọn nghề. Điều đó cho thấy rằng, nhiều Khoa Ngữ văn đang có những động thái thay hình đổi dạng để thích nghi với thời đại mới. 274
  9. Có nhiều lý do để sinh viên vào ngành Ngữ văn ngày càng ít, trong đó có lý do quan trọng là học ngành này khó xin việc làm. Xin làm giáo viên dạy Ngữ văn thì không còn chỗ, các cơ quan báo chí xuất bản thì ít mà ngƣời chen chúc thì đông… Nhiều ngƣời cảm thấy thất vọng, bế tắc khi không xin đƣợc một việc làm đúng nhƣ chuyên môn. Thấy đàn anh, đàn chị thất nghiệp thì đàn em cũng không dại gì vào học ngành Văn. Cái khó khăn này xuất phát từ mục tiêu dạy học Văn cổ lỗ vẫn còn tồn tại dai dẳng đến bây giờ. Nhiều ngƣời quan niệm rằng, sinh viên ngành Văn chỉ học ba thứ thơ văn vớ vẩn của những nhà thơ nghèo, mộng mị hão huyền và… không bình thƣờng. Mà thời bây giờ, không có công ty nào tuyển dụng những sinh viên giỏi thơ phú. Không có cơ quan nào chiêu mộ những nàng và chàng nghiện đọc tiểu thuyết. Các cơ quan nhà nƣớc lẫn công ty tƣ nhân chỉ tuyển những ngƣời biết soạn thảo các loại văn bản một cách thành thạo, có khả năng giao tiếp tốt, có tài PR, diễn thuyết quảng cáo sản phẩm để tăng lợi nhuận cho công ty. Thực ra, đây cũng là chuyên môn của sinh viên Ngữ văn. Bất cứ một cơ quan, công ty nào có bộ phận văn phòng và truyền thông quảng cáo cũng đều cần cử nhân Ngữ văn. Nghĩa là học ngành Ngữ văn sẽ không lo thất nghiệp. Nhƣng vấn đề là các trƣờng Đại học phải đào tạo sao cho sinh viên Ngữ văn của mình thích ứng nhu cầu của thời đại công nghiệp. Giảm bớt những kiến thức lạc hậu và xa rời thực tế, đƣa môn Văn xích lại gần với đời sống văn nghệ thực tại. Tăng cƣờng thời lƣợng cho ngôn ngữ học ứng dụng. Khoa Ngữ văn phải gắn kết với các cơ quan, xí nghiệp, công ty văn hóa, hội văn nghệ, báo chí xuất bản, trƣờng học… coi nhƣ đó là môi trƣờng thực nghiệm và sử dụng sản phẩm đào tạo. Thời bao cấp đã qua rồi, không có trƣờng nào còn ngồi chờ sự phân bổ sinh viên của Bộ và không còn sinh viên nào ỷ lại, thụ động ngồi chờ các công ty gọi đi làm. Mỗi trƣờng Đại học phải tự lo đầu ra cho sản phẩm của mình, sẵn sàng tham gia vào môi trƣờng cạnh tranh giáo dục lành mạnh và tự khẳng định thƣơng hiệu của mình vì sự tồn tại của trƣờng và của ngành Ngữ văn. Nói tóm lại, mục tiêu học tập ngành Ngữ văn trong thời đại mới không phải là học “biết để chơi” mà là “biết để làm”. Môn Ngữ văn không chỉ là môn “bồi dƣỡng tâm hồn” mà quan trọng hơn là môn “công cụ” để học sinh có thể vận dụng những kiến thức và kỹ năng đã học ứng dụng vào trong cuộc sống và công việc. Quá trình dạy Ngữ văn phải hƣớng tới lợi ích của ngƣời học. Chỉ khi nào ngƣời học hứng thú và thấy đƣợc lợi ích thiết thực của môn học thì mục tiêu dạy học Ngữ văn của các nhà giáo dục vạch ra mới đạt hiệu quả nhƣ mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Quốc gia giáo dục (1971), Dự thảo chƣơng trình Trung học tổng hợp, Sài Gòn. 275
  10. 2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Chƣơng trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dƣỡng giáo viên thực hiện chƣơng trình, sách giáo khoa lớp 10 THPT môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục. 4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2007), Tài liệu bồi dƣỡng giáo viên thực hiện chƣơng trình, sách giáo khoa lớp 11 THPT môn Ngữ văn, Nxb Giáo dục. 5. Nguyễn Tiến Đạt (2006 – 2007), Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới (2 tập), Nxb Giáo dục, H. 6. Lê Sử, “Một số vấn đề quan niệm dạy học”, www. Lamdong.dayhoc.vn 7. Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở, Nxb Giáo dục. 8. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chƣơng trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT, Nxb Giáo dục, H. 276
nguon tai.lieu . vn